Tuần 24 - Ngày 16/01/2025
|
|
|
|
Thông tin định kỳ
|
|
|
Lịch sử Kiến trúc
Cảnh quan văn hóa tại Bali, Indonesia: Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia |
15/09/2016 |
Thông tin chung:
Công trình: Cảnh quan văn hóa tại Bali, Indonesia: Hệ thống canh tác Subak,một bản tuyên ngôn của triết học Trihita Kảrana (Cultural Landscape of Bali Province: the Subak System as a Manifestation of the Tri Hita Karana Philosophy)
Địa điểm: Bali, Indonesia (S8 15 33 E115 24 10)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Gồm 5 xã; Diện tích khu vực Di sản: 19519,9 ha; Vùng đệm: 1454, 8 ha
Năm hình thành: Thế kỷ thứ 9
Giá trị: Di sản thế giới (2012, hạng mục iii, v, vi)
Indonesia là một quốc gia ở Đông Nam Á, giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, là một quốc đảo lớn nhất thế giới với hơn 1700 hòn đảo. Indonesia có phần diện tích đất rộng 1.904.569 km2; dân số khoảng 261 triệu người (năm 2016), là quốc gia đông dân thứ 4 trên thế giới; Tôn giáo chính là Hồi giáo. Quốc đảo này có chung biên giới đất liền với Papua New Guinea, Đông Timor và phần phía Nam của Malaysia.
Indonesia được chia thành 34 tỉnh, trong đó 5 tỉnh đặc biệt; Thành phố Jakarta là thủ đô.
Lịch sử của quần đảo Indonesia gắn với sự ảnh hưởng của các cường quốc nước ngoài. Họ đến đây bởi tài nguyên thiên nhiên giàu có và phong phú (từ tài nguyên tự nhiên như: dầu mỏ và khí đốt, than, thiếc, đồng và vàng đến sản phẩm nông, lâm nghiệp như: gạo, dầu cọ, trà, cà phê, ca cao, cây dược liệu, gia vị và cao su).
Từ những năm đầu công nguyên, các nhà cai trị địa phương đã tiếp thu những ảnh hưởng nước ngoài. Tại đây các vương quốc theo Ấn Độ giáo và Phật giáo được hình thành và phát triển mạnh mẽ.
Vào khoảng từ đầu thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 17, các thương nhân Hồi giáo và thương nhân châu Âu gắn với Kito giáo đã chiến đấu quyết liệt với nhau để giành độc quyền thương mại.tại đây. Mặc dù bị gián đoạn bởi người Bồ Đào Nha, Pháp và Anh, cường quốc châu Âu Hà Lan đã chiếm phần lớn sự hiện diện với 350 năm ở quần đảo này.
Đầu thế kỷ 20, khái niệm "Indonesia" là một quốc gia- dân tộc xuất hiện và phong trào độc lập bắt đầu hình thành. Trong quá trình phi thực dân hóa châu Á sau Thế chiến 2, Indonesia giành được độc lập vào năm 1949 từ Hà Lan.
Bản đồ Indonesia và vị trí của đảo Bali
Bali là một hòn đảo, một trong 33 tỉnh của Indonesia, có 3,15 triệu dân (năm 2000), diện tích khoảng 5632 km2. Đây là vùng đất đai màu mỡ, từ các hoạt động của núi lửa, kết hợp với khí hậu nhiệt đới tạo thành địa điểm lý tưởng cho việc trồng trọt.
Tại đây, gạo được xem như là món quà của thượng đế và các hệ thống Subak là một phần của văn hóa thờ nước và văn hóa nông nghiệp.
Subak là một tổ chức xã hội và tôn giáo độc đáo của người dân Bali, được phát triển từ thế kỷ thứ 9, có vai trò quyết định việc sử dụng nước tưới (thủy lợi) trong canh tác lúa truyền thống.
Việc tổ chức sử dụng nước của Subak được thực hiện theo triết lý về ba điều tạo nên hạnh phúc - Tri Hita Karana:
- Parahyangan: đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa con người và đấng tối cao.
- Palemahan: đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa con người, thiên nhiên và môi trường.
- Pawongan: đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa con người và cộng đồng của mình.
Chính sự có mặt của hệ thống đền trong Subak đã góp phần đảm bảo cho được sự cân bằng giữa 3 điều trên, bởi tính thiêng liêng và thiết thực cho cộng đồng.
Các nghi lễ liên quan đến các ngôi đền nước và vai trò của đền trong việc quản lý nguồn nước kết hợp với các ý tưởng của triết lý Tri Hita Karana đã thúc đẩy mối quan hệ hài hòa giữa cõi tinh thần, thế giới con người và thiên nhiên. Sự kết hợp của các ý tưởng, được quản lý bởi cộng đồng địa phương có ý nghĩa nổi bật trong việc hình thành và phát triển hệ thống Subak và tạo lập lên cảnh quan của khu vực.
Như vậy, Subak không chỉ là hệ thống quản lý nước, mà còn là hệ sinh thái bền vững, cùng với các ngôi đền Bali, trung tâm cộng đồng Bale Banjar của làng, tạo thành truyền thống văn hóa nông nghiệp độc đáo, có vai trò gắn kết xã hội nông nghiệp Bali.
Cành quan điển hình của Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Hệ thống Subak nằm trong phạm vi 5 xã: Badung, Bangli, Buleleng, Gianyar và Tabanan, bao gồm:
- Rừng bảo vệ nguồn nước;
- Hồ nước Batur (có nguồn gốc từ núi lửa; nước mưa chảy vào hồ, hòa tan các nhóm phosphate và khoáng chất trong lòng hồ, từ đó cung cấp nước cho toàn khu vực);
- Hệ thống kênh mương, đường hầm (River Irrigation Calal Subak);
- Đập tràn (Weir);
- Các cơ sở tôn giáo gắn với tục thờ nước, thần nước và tham gia quản lý nước (Water Temple); Ngôi đền là trọng tâm của việc hợp tác quản lý nước trong tiểu lưu vực tưới nước, là những tổ chức độc đáo, bắt nguồn từ truyền thống tôn giáo cổ đại Hindu giáo, Phật giáo và của khu vực Nam Đảo (Austronesian);
- Ruộng lúa bậc thang gắn với tiểu lưu vực tiêu nước (Catment Basin);
- Làng xóm.
Tất cả liên kết với nhau qua hệ thống quản lý nước Subak, nhằm đảm bảo cung cấp nước một cách công bằng tới các khu vực canh tác lúa và định hình cảnh quan nơi đây với diện tích tổng cộng lên đến khoảng 19500 ha, bao gồm khoảng 1200 tiểu lựu vực tiêu nước (quản lý nước) và 50-400 người tham gia quản lý việc cung cấp nước từ các nguồn nước.
Subak là một hệ thống công nghệ sắp xếp lối phối hợp canh tác giữa các thành viên trong cộng đồng, lan truyền từ đời này sang đời khác theo nghi lễ tôn giáo và truyền thống của tổ tiên. Việc phân phối nước một cách công bằng được thực hiện qua việc: Thảo luận và dàn xếp với nhau, thậm chí cả về loại giống lúa và thời gian trồng; Cầu xin thần linh phù hộ cho may mắn; Tuyên thệ thực hiện theo các cam kết và quy định xử phạt do vi phạm được tiến hành bởi các nghi lễ thực hiện trong đền thờ.
Hệ thống canh tác tại đây được vận hành hoàn hảo đến tận ngày nay theo kiểu truyền thống Bali mà không cần sự trợ giúp của phân bón hay thuốc trừ sâu, nơi mà cảnh quan tự nhiên có ý nghĩa thiêng liêng.
Cảnh quan Subak tại lưu vực sông Pakerisan, được biết đến như hệ thống tưới tiêu lâu đời nhất ở Bali; thể hiện một truyền thống văn hóa, bắt nguồn từ khái niệm triết học cổ với các nghi lễ cúng dường, lễ hội, biểu diễn nghệ thuật truyền thống tại những ngôi đền nước, làm cơ sở cho việc quản lý nước, duy trì mối quan hệ hài hòa giữa con người trong cộng đồng, với tự nhiên và tinh thần.
Hệ thống cảnh quan tại Bali là minh chứng đặc biệt cho hệ thống Subak, một hệ thống dân chủ và bình đẳng, tập trung vào ngôi đền thờ nước và kiểm soát thủy lợi, hình thành trong suốt hàng nghìn năm qua. Từ thế kỷ thứ 11 các mạng đền thờ nước đã quản lý hệ sinh thái của ruộng bậc thang ở quy mô của toàn bộ lưu vực sông Pakerisan, góp phần tạo ra các sản phẩm lương thực cung cấp cho dân số với quy mô lớn trên đảo Bali.
Cảnh quan Hệ thống canh tác Subak - Ruộng bậc thang
Cảnh quan Hệ thống canh tác Subak - Hệ thống mương dẫn nước
Cảnh quan Hệ thống canh tác Subak - Hệ thống mương, đập ngăn nước và góc miếu thờ nước
Cảnh quan văn hóa tại Bali, Indonesia: Hệ thống canh tác Subak được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 2012) với tiêu chí:
Tiêu chí (iii): Cảnh quan văn hóa tại Bali, Indonesia - Hệ thống canh tác Subak là bằng chứng đặc biệt về truyền thống văn hóa, ít nhất từ thế kỷ 12, gắn với khái niệm triết học cổ đại Tri Hita Karana; lễ hội của các ngôi đền nước với các nghi lễ, cúng dường và biểu diễn nghệ thuật, là cơ sở cho việc quản lý nước và duy trì một mối quan hệ hài hòa với thế giới tự nhiên và tinh thần.
Tiêu chí (v): Năm cảnh quan (A1; A2, B, C, D) của hệ thống Suback tại Bali là một hệ thống dân chủ và bình đẳng, tập trung vào các ngôi đền nước và kiểm soát thủy lợi, đã hình thành hệ thống cảnh quan đặc sắc trong hàng nghìn năm qua. Từ thế kỷ thứ 11 các mạng đền nước đã quản lý hệ sinh thái ruộng bậc thang tại các lưu vực sông, mương, góp phần cung cấp lương thực cho dân số đông đúc trên đảo núi lửa Bali.
Tiêu chí (vi): Đền thờ nước của Bali là những tổ chức độc đáo, tồn tại trong hơn một ngàn năm qua, được khởi nguồn từ truyền thống tôn giáo cổ đại Hindu giáo, Phật giáo và của khu vực Nam Đảo (Austronesian); Các nghi lễ liên quan đến ngôi đền và vai trò của đền trong việc quản lý thực tế nguồn nước còn là kết tinh từ ý tưởng của triết lý Tri Hita Karana, nhằm thúc đẩy mối quan hệ hài hòa giữa cõi tinh thần, thế giới con người và thiên nhiên. Sự kết hợp các tín ngưỡng này có ý nghĩa nổi bật và tác động trực tiếp đến cảnh quan văn hóa, là cơ sở cho việc quản lý và phát triển hệ thống Subak của cộng đồng địa phương.
Sơ đồ vị trí các khu vực cảnh quan văn hóa tại Di sản Hệ thống canh tác Subak trên đảo Bali, Indonesia
Cơ cấu tổ chức của Subak:
i) Thành viên Subak (Krama Subak) là những người nông dân sở hữu ruộng lúa và trồng lúa trong khu vực, được phân thành:
- Krama Aktif là thành viên tích cực, thường trực.
- Krama Pasif là thành viên thay thế nghĩa vụ của họ bằng tiền hoặc bằng hiện vật do một lý do nào đó.
- Krama Luput là thành viên không thường trực do phải đảm nhận các nhiệm vụ khác.
ii) Quản trị Subak:
- Pekaseh / Kelian là người đứng đầu Subak.
- Pangliman / Petajuh là phó cho người đứng đầu.
- Peyarikan / Juru tulis là thư ký.
- Petengen / Juru raksa là thủ quỹ.
- Saya / Juru A-ra / Juru uduh / Juru tibak / Kasinoman là người có có trách nhiệm về việc thông báo cho các thành viên trong tổ chức.
- Pemangku là người tổ chức các sự kiện nghi lễ tôn giáo.
iii) Các nhóm (Sekaa) Subak:
- Sekaa Numbeg là nhóm quy định việc xử lý đất.
- Sekaa Jelinjingan là nhóm phụ trách việc tổ chức xử lý nước.
- Sekaa Sambang là nhóm có nhiệm vụ giám sát hành vi trộm cắp nước, tiêu trừ hoặc bắt động vật phá hoại cây trồng như các loài chim và động vật gặm nhấm.
- Sekaa Memulih / Nandur là nhóm phụ trách về trồng cây lúa.
- Sekaa Mejukut là nhóm phụ trách làm cỏ lúa.
- Sekaa Manyi là nhóm phụ trách thu hoạch lúa.
- Sekaa Bleseng là một nhóm phụ trách việc vận chuyển gạo đến kho.
Các nhóm hạng mục công trình chính trong Khu vực Di sản:
Gồm 4 nhóm (trong hình vẽ ký hiệu A, B, C, D):
1) Khu vực hồ Batur (Khu vực A1) và đền nước chính Ulun Danu Batur (Supreme Water Temple of Pura Ulun Danu Batur – Khu vực A2), nằm ở cuối của hồ Batur, điểm khởi nguồn của hệ thống thủy lợi Subak.
2) Cảnh quan Subak của khu vực Pakerisan Watershed (Subak Landscape of Pakerisan Watershed – Khu vực B).
3) Cảnh quan Subak của khu vực Catur Angga Batukaru (Subak Landscape of Catur Angga Batukaru – Khu vực C).
4) Đền Taman Ayun (Royal Water Temple Pura Taman Ayun – Khu vực D), một trong những ngôi chùa lớn nhất với kiến trúc nổi tiếng nhất trong khu vực Di sản, tiêu biểu cho sự mở rộng đầy đủ của hệ thống Subak dưới thời chính phủ hoàng gia Bali trong thế kỷ 19.
Đền thờ nước tối cao Pura Ulun Danu Batur và hồ Batur
Đền Pura Ulun Danu Batur là đền thờ nước tối cao (Supreme Water Temple) nằm bên bờ hồ Batur, có nguồn gốc là miệng núi lửa, nằm tại cao độ 1200m so với mực nước biển, được coi là nguồn gốc tối hậu của mỗi con sông con suối tại Bali.
Đền được xây dựng vào năm 1633, là nơi tổ chức các buổi lễ cúng dường liên quan đến tục thờ nước và thờ nữ thần sông Dewi Danu của người Bali. Đây là ngôi đền quan trọng thứ hai sau đền Pura Besakih tại Bali.
Vào năm 1926, ngôi đền và các ngôi làng Batur xung quanh bị núi lửa phun trào, phá hủy hoàn toàn. Sau đó, đền và ngôi làng được xây dựng lại vào năm 1926 tại rìa miệng núi lửa. Vị sư trụ trì đền thờ có vai trò quan trọng trong việc phân phối nước tại hệ thống Subak.
Đền Pura Ulun Danu Batur ngày nay là một quần thể gồm 9 cụm đền, gồm 285 gian thờ các vị thần nước, nông nghiệp, nghệ thuật, thủ công…Cụm đền chính có 1 tháp cao 11 tầng, 3 tháp cao 9 tầng…
Ven hồ Batur có một hòn đảo nhỏ, là nơi đặt đền Danau Beratan.
Núi và hồ Batur - điểm khởi đầu của Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Đền thờ nước và thần nước Pura Ulun Danu Batur, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ nước và thần nước tại đền Pura Ulun Danu Batur, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Đền Danau Beratan trên hồ Batur Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Cảnh quan Subak tại Khu vực Pakerisan Watershed
Cảnh quan Subak tại Khu vực Pakerisan Watershed (Subak Landscape of Pakerisan Watershed – Khu vực B) có quy mô nhỏ, nằm tại phía nam của khu vực A, là một hệ thống ruộng bậc thang xen kẽ với các ngôi đền thờ nước và khu dân cư nằm dọc sông Pakerisan. Tai đây có đền thờ Gunung Kawi (Gunung Kawi Temple of the Pakerisan watershed), được xây dựng vào thế kỷ 11, gồm 10 miếu thờ cắt vào trong đá.
Cảnh quan hệ thống Subak tại Khu vực Pakerisan Watershed, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Đền thờ Gunung Kawi tại Khu vực Pakerisan Watershed, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Cảnh quan Subak tại Khu vực Catur Angga Batukaru
Cảnh quan Subak tại Khu vực Catur Angga Batukaru (Subak Landscape of Catur Angga Batukaru – Khu vực C) có quy mô diện tích lớn khoảng 17.000 ha, bao gồm hồ Buyan và Tamblingan, rừng núi Batukaru. Hiện tại đây có 20 nhóm Subak và đền thờ với tổng số thành viên khoảng 4500 nông dân.
Trong khu vực có đền Pura Luhur Batukaru, là một ngôi đền Hindu ở Tabanan, nằm tại sườn phía nam của núi Batukaru, là ngọn núi lửa cao thứ hai tại Bali, xung quanh có 4 ngôi đền hỗ trợ (Tambuwaras, Muncaksari, Petali và Besikalung). Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 11, bị phá hủy trong năm 1604, được xây dựng lại vào năm 1959. Trong đền có một tháp chính cao 7 tầng thờ thần núi Batukaru.
Hệ thống các ruộng bậc thang nơi đây còn được gọi là Jatiluwih (Jatiluwih Rice Terrace; Jati có nghĩa là thực sự và Luwih đặc biệt, tốt, đẹp), kéo dài từ chân núi Batukaru với cao độ 700m đến ven biển; có diện tích khoảng 636 ha.
Sơ đồ Hệ thống Subak tại Khu vực Catur Angga Batukaru, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Cảnh quan Hệ thống Subaktại Khu vực Catur Angga Batukaru, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Các vị đứng đầu Subak (Pekaseh / Kelian) đang thảo luận
Đền Pura Luhur Batukaru, Khu vực Catur Angga Batukaru, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Một ngôi miếu thờ nước trong Hệ thống Subak tại Khu vực Catur Angga Batukaru, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Đền thờ nước Hoàng gia Pura Taman Ayun
Đền Pura Taman Ayun (Pura Taman Ayun Temple) được xây dựng vào năm 1634, trùng tu vào năm 1750, là ngôi chùa Hoàng gia lớn nhất của Bali thời bấy giờ. Công trình là đại diện tiêu biểu cho tầm quan trọng và sự mở rộng tối đa của của hệ thống Subak dưới thời vương quốc Bali.
Pura Taman Ayun có nghĩa là khu vườn xinh đẹp và được coi là một trong những ngôi đền hấp dẫn nhất của Bali. Đền nằm trong một công viên, gần làng Mengwi, Badung, Bali; được bao quanh 3 phía (đông, nam và tây) bởi hệ thống kênh. Lối chính vào đền thông qua một cây cầu tại phía nam. Đền có hai cổng: Cổng ngoài (Split Gate) và cổng trong (Covered Gate). Khu vực đền nội có mặt bằng hình chữ nhật, được giới hạn bởi một hào nước.
Sơ đồ mặt bằng Đền Pura Taman Ayun, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Cổng ngoài Đền Pura Taman Ayun, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Cổng vào đền nội, Đền Pura Taman Ayun, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Đền nội được bao quanh bởi một hào nước thả sen
Bên trong đền nội Pura Taman Ayun, Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
Bảo tàng Subak.
Bảo tàng Subak (Subak Museum) nằm tại Banjar Anyar, Kediri, Bali, được xây dựng vào năm 1981. Bảo tàng gồm hai phần riêng biệt: Bảo tàng trong nhà và ngoài trời.
Bảo tàng trong nhà gồm hai tòa nhà chính có chức năng như một trung tâm thông tin và triển lãm, là nơi trưng bày và giới thiệu các tư liệu, hiện vật, hình ảnh, chương trình nghe nhìn về hệ thống Subak; thư viện, phòng mô hình thu nhỏ của hệ thống Subak cổ đại. Bảo tàng ngoài trời là cánh đồng lúa sử dụng phương pháp tưới Subak.
Bảo tàng Subak, Bali, Indonesia
Bên trong Bảo tàng Subak, Bali, Indonesia
Hệ thống canh tác Subak là một tổ chức xã hội và tôn giáo độc đáo của người dân Bali, một hệ thống dân chủ và bình đẳng trong việc quản lý nước, gắn với truyền thống sử dụng nước theo khái niệm triết học cổ đại Tri Hita Karana và phong tục, tập quán tôn giáo liên quan đến nước, nhằm duy trì mối quan hệ hài hòa với thế giới tự nhiên và tinh thần, đã tạo lên một truyền thống văn hóa và cảnh quan văn hóa đặc sắc trong suốt lịch sử hàng ngàn năm qua tại Bali, Indonesia.
Hệ thống canh tác Subak không chỉ là một hệ thống công nghệ canh tác lúa mang tính truyền thống, văn hóa và lâu đời nhất tại Bali mà còn tiếp tục là một hệ thống công nghệ hiệu quả đến tận ngày nay.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
http://whc.unesco.org/en/list/1194
https://en.wikipedia.org/wiki/Subak_(irrigation)
http://www.baliglory.com/2016/04/subak-bali.html
https://en.wikipedia.org/wiki/Pura_Ulun_Danu_Batur
https://www.openabm.org/book/33102/12-bali-irrigation
http://america.pink/subak-irrigation_4204892.html
http://www.baliglory.com/2016/04/subak-bali.html
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|
Cập nhật ( 07/09/2020 )
|
Tin mới đưa:- Các thị trấn Baroque muộn tại Val di Noto, Sicily, Ý
- Samarkand – Ngã tư văn hóa, Uzbekistan
- Hang động Vân Cương, Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc
- Công trình Villa d'Este, Tivoli, Rome, Ý
- Cột Chúa Ba Ngôi ở Olomouc, Czech
- Thung lũng Loire giữa Sully-sur-Loire và Chalonnes, Pháp
- Quần thể Tu viện Ferapontov, Vologda, Nga
- Nhà thờ St James ở Šibenik, Croatia
- Mỏ đá lửa Thời kỳ Đồ đá mới ở Spiennes, Mons, Bỉ
- Lăng mộ Hoàng gia của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, Trung Quốc
- Hang động Long Môn, Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc
- Vương cung thánh đường San Francesco và địa điểm khác của Dòng Phanxicô tại Assisi, Ý
- Công trình Villa Adriana, Tivoli, Rome, Ý
- Địa điểm khảo cổ Mycenae và Tiryns tại Argolis, Hy Lạp
- Di tích Thời kỳ Đồ đá mới ở Orkney, Scotland, Vương quốc Anh
Tin đã đưa:- Di sản khảo cổ tại Thung lũng Lenggong, Malaysia
- Khu khảo cổ người tiền sử Sangiran ở đảo Java, Indonesia
- Quần thể đền Prambanan, Indonesia
- Các nhà thờ kiểu Baroque tại Philippines
- Di sản Mỏ thủy ngân ở Almaden, Tây Ban Nha
- Thị trấn đồng hồ La Chaux-de-Fonds và Le Locle, Thụy Sĩ
- Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
- Khu mỏ đồng tại Falun, Dalama, Thụy Điển
- Cảnh quan và cơ sở công nghiệp Agave Tequila, Jalisco, Mexico
- Cảnh quan công nghiệp tại Fray Bentos, Uruguay
- Thị trấn mỏ Sewell, Cachapoal, Chile
- Cơ sở khai thác và sản xuất phân bón tại Humberstone và Santa Laura, Chile
- Di sản công nghiệp Rjukan – Notodden, Telemark, Na Uy
- Cộng đồng công nghiệp Crespi d'Adda, Lombardy, Ý
- Mỏ Rammetlsberg, Thị trấn lịch sử Goslar và Hệ thống quản lý nước Upper Harz, Niedersachsen, Đức
|