Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
Việt Nam nằm trên bờ biển Đông, có đường bờ biển dài, với hơn khoảng 3260km, trung bình khoảng 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển (cao gấp 6 lần tỷ lệ trung bình của thế giới); Vùng lãnh hải của Việt Nam trải rộng hơn 1 triệu km2 với khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ. Dọc theo bờ biển là 28 tỉnh, thành phố với trên 13 triệu dân có nhiều truyền thống sinh kế, văn hóa gắn bó với biển.
Biển Đông là một trong 6 biển lớn nhất thế giới, nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, và “được chia sẻ” giữa 9 quốc gia: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Đây cũng là con đường chiến lược của giao thương quốc tế, với 5/10 tuyến đường hàng hải lớn nhất đi qua.
Tổng trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền công nghiệp dầu khí. Dưới lòng đáy biển và dọc bờ biển Việt Nam có nhiều tài nguyên khoáng sản quý. Tại đây nguồn lợi hải sản được đánh giá vào loại phong phú với nhiều loại có giá trị kinh tế cao, tổng trữ lượng lớn. Dọc ven biển có trên 37 vạn ha mặt nước, 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ cho khả năng nuôi trồng thủy sản. Dọc bờ biển có trên 100 địa điểm xây dựng được hải cảng, kể cả cảng trung chuyển quốc tế. Ven biển Việt Nam có khoảng 125 bãi biển có cảnh quan đẹp, trong đó có 20 bãi biển đạt tiêu chuẩn quốc tế để phát triển du lịch biển, như vịnh Hạ Long, vịnh Nha Trang..;
Tuy nhiên, so sánh với thế giới, khai thác lợi thế từ biển của Việt Nam còn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, giá trị tổng sản phẩm hàng năm còn rất nhỏ. Tính trung bình trên 1 km2 biển, Việt Nam mới chỉ đạt bằng 1/20 của Trung Quốc; 1/94 của Nhật Bản; 1/7 của Hàn Quốc và 1/20 kinh tế biển của thế giới.
Trong điều kiện các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, không gian kinh tế truyền thống trở nên chật chội và bó hẹp, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xác định thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương. Muốn tồn tại và phát triển Việt Nam phải có ý chí và quyết tâm trở thành một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển.
Nhằm đạt mục tiêu trên, Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/02/2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã xác định năm lĩnh vực được lựa chọn ưu tiên chiến lược là: (1) Khai thác, chế biến dầu, khí; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác và chế biến hải sản; (4) Du lịch biển và kinh tế hải đảo; (5) Xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển.
Ngày 21/6/2012, Quốc hội của Việt Nam đã thông qua Luật Biển Việt Nam - Luật số 18/2012/QH13, trong đó quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Năm 2003, khu kinh tế ven biển đầu tiên – KKT ven biển Chu Lai, được hình thành.
KKT ven biển là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt, với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, có quy mô diện tích lớn, bình quân mỗi KKT ven biển đến hơn 30 ngàn ha. KKT ven biển về cơ bản phân thành: Khu phi thuế quan gắn với cảng (cảng tự do, thương mại dịch vụ, khu chế xuất, kho ngoại quan, văn phòng đại diện...); Khu thuế quan là toàn bộ khu vực còn lại bao gồm các khu chức năng như: KCN của các ngành đóng tàu, hoá dầu, nuôi trồng chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần cảng; Khu du lịch và Khu dân cư đô thị...
Trong các KKT ven biển được đầu tư về kết cấu hạ tầng hiện đã có nhiều dự án đi vào hoạt động, bước đầu thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đô thị, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm tại địa phương, từng bước khai thác tiềm năng kinh tế biển và hình thành văn hóa sinh tồn gắn với biển. Trong đó nổi bật là một số dự án lớn như các nhà máy lọc dầu ở KKT Nghi Sơn, Dung Quất và Nam Phú Yên; các nhà máy đóng tàu ở KKT Nghi Sơn, Dung Quất; nhà máy thép Quảng Liên, Khu liên hợp gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương, nhà máy cơ khí nặng Doosan, các nhà máy nhiệt điện tại các KKT Nghi Sơn, Vũng Áng, Dung Quất, Định An…Ngoài ra, hệ thống cảng biển, tuyến cáp xuyên biển Hà Tiên – Phú Quốc, tuyến đường bộ ven biển, cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, sân bay Phú Quốc… phục vụ cho phát triển các KKT ven biển cũng đang triển khai đầu tư xây dựng…
Đã hơn 10 năm triển khai mô hình KKT ven biển, song do phần lớn các KKT đều được thành lập ở những tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn và ở những khu vực mà hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu còn chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ nên nhu cầu nguồn vốn đầu tư rất lớn, trong đó đa phần là dựa vào nguồn vốn nhà nước. Do nguồn vốn ngân sách hỗ trợ từ ngân sách trung ương còn hạn chế nên việc triển khai đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng của các KKT ven biển kéo dài, các dự án chậm đi vào hoạt động, làm lỡ đi các cơ hội phát triển và bắt kịp với khu vực, thế giới.
Hiện tại, tổng diện tích chiếm đất của các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh trong các KKT ven biển mới chỉ khoảng 9% tổng diện tích đất dành cho các dự án sản xuất kinh doanh trong các KKT. Nếu so với các KCN, quy mô các KKT lớn gấp 10 lần nhưng sự đóng góp về chỉ tiêu sản xuất và nộp ngân sách thì thấp hơn rất nhiều. Trong vài năm gần đây tổng doanh thu hằng năm của các KKT ven biển khoảng 6 đến 8 tỷ USD. Ðóng góp ngân sách hằng năm chỉ khoảng 500 đến 600 triệu USD, chủ yếu từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Ngày 23/9/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1353/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các KKT ven biển của Việt Nam đến năm 2020” với nội dung cơ bản:
- Mục tiêu: hình thành các KKT động lực trong phạm vi lãnh thổ nhất định, trên cơ sở phát triển đa ngành, thúc đẩy phát triển chung và các vùng ven biển của Việt Nam; Làm cơ sở cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo; Tạo tiền đề thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư nước ngoài.
- Nguyên tắc phát triển: Gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương và của vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cao nhất và bảo đảm phát triển bền vững; Sử dụng hiệu quả quỹ đất, mặt nước và không gian của KKT ven biển; Mỗi KKT ven biển phải hướng tới hình thành chức năng nòng cốt, chủ đạo và gắn kết chặt chẽ với phát triển vùng; Chú ý tới yêu cầu bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng. Các KKT ven biển được phát triển theo từng giai đoạn, được hỗ trợ tài chính bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội.
- Phương hướng chung phát triển: Hình thành hệ thống 18 KKT (mới bổ sung 3 KKT năm 2010) với tổng diện tích mặt đất và mặt biển lên đến hơn 730.553 ha, bằng khoảng 2,2% tổng diện tích của cả nước. 5 nhóm KKT ven biển được tập trung đầu tư giai đoạn đầu là: KKT Chu Lai (Quảng Nam) - Dung Quất (Quảng Ngãi); KKT Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng); KKT Nghi Sơn (Thanh Hóa); KKT Vũng Áng (Hà Tĩnh); KKT đảo Phú Quốc và cụm đảo Nam An Thới (Kiên Giang). Phấn đấu đến năm 2020 các KKT ven biển thu hút được khoảng 1.500- 2.000 dự án, trong đó khoảng 60% là dự án đầu tư nước ngoài và 40% là dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 70-80 tỷ USD và 320- 350 nghìn tỷ đồng, đóng góp vào tổng GDP của cả nước khoảng 15 – 20% và tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khoảng 1,3 – 1,5 triệu người.
Các vấn đề hiện đang tập trung giải quyết phát triển các KKT ven biển:
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách: Từng bước xây dựng và cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và quản lý nhà nước, đầu tư, đất đai, thuế theo nguyên tắc liên ngành có liên quan; Xây dựng cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ương đối với đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng làm động lực phát triển;
- Thúc đẩy đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng: Đến nay, ngoài một số các KKT ven biển là Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây – Lăng Cô, Vân Phong, Vân Đồn, Nam Phú Yên đã cơ bản hoàn thành các công tác quy hoạch xây dựng, đang đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội và các khu tái định cư, các KKT ven biển khác hiện đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, hoàn thiện bộ máy và nhân sự, huy động vốn đầu tư giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng…
- Xây dựng các tuyến giao thông ven biển nối liền các KKT, làm cơ sở để tạo mối liên kết, tương hỗ lẫn nhau giữa các KKT, làm tiền đề hình thành trục động lực phát triển ven biển;
- Nghiên cứu các giải pháp nhằm huy động tổng hợp nguồn vốn đầu tư từ nhiều nguồn lực khác nhau (ODA, FDI, ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ), để đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KKT. Thúc đẩy các chương trình quảng bá và xúc tiến đầu tư quốc gia nhằm thu hút các dự án đầu tư mang tính động lực cho phát triển;
- Đào tạo và nâng cao trình độ của cán bộ quản lý KKT, phù hợp với quản lý kinh tế hiện đại, có khả năng áp dụng luật pháp quốc tế cao...;
- Hình thành, phát triển các mô hình KKT mới gắn với cơ chế chính sách đặc thù theo hướng mở để tạo bước đột phá phát triển cho các KKT ven biển, như KKT Phú Quốc, Kiên Giang, KKT Vân Đồn, Quảng Ninh…
KKT ven biển là mô hình kinh tế - xã hội mới được đề xuất. Việc phát triển các KKT ven biển (cũng như KKT cửa khẩu) đang trong giai đoạn thử nghiệm, điều chỉnh, đặt ra cho các nhà quản lý, khoa học và nhà đầu tư nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu, trước hết là:
- Đổi mới tư duy kinh tế (và văn hóa), từ lãnh đạo đến người dân để tạo sự đồng thuận, khát vọng và quyết tâm từ một quốc gia ven biển trở thành quốc gia biển và cường quốc biển, hòa nhập với thế giới; Coi phát triển kinh tế biển là một trong những khâu đột phá của quá trình tái cấu trúc nền kinh tế;
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên cơ sở xây dựng niềm tin, theo mô hình hợp tác đa phương phù hợp với luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền, các bên đều bình đẳng cùng có lợi;
- Thúc đẩy phát triển các tổ chức và hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ, đào tạo về không gian đới bờ (ven biển), biển và hậu cần biển…tạo tiềm lực về khoa học – công nghệ, con người cho kinh tế biển; (Các lĩnh vực khoa học công nghệ hiện đang được triển khai: Điều tra cơ bản tài nguyên biển; Nghiên cứu công nghệ phục vụ bảo tồn, bảo vệ môi trường, công nghệ viễn thám, đóng tàu, khai thác nguồn năng lượng biển, quản lý tổng hợp đới bờ, luật pháp quốc tế về biển, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu…);
- Tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp kinh tế biển có khả năng hiện diện trên biển và đại dương (hàng hải viễn dương, hàng không, du lịch biển đảo, dầu khí, đánh bắt thuỷ sản…), đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và toàn cầu về kinh tế biển ;
- Thúc đẩy nhanh và có trọng tâm việc đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng cảng biển, giao thông, logistics gắn kết các khu công nghiệp, khu đô thị nằm sâu trong đất liền với các khu kinh tế biển...;
- Xây dựng chiến lược đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng...
WEB bmktc.com lần lượt đăng tải các dự án quy hoạch xây dựng các KKT ven biển, phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học – công nghệ, trước hết trong lĩnh vực xây dựng...Qua đó góp phần thực hiện “Quy hoạch phát triển các KKT ven biển Việt Nam đến năm 2020”, được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1353/QĐ-TTg, ngày 25/4/2008.
Danh mục hệ thống các KKT ven biển tại Việt Nam đến năm 2020
1) Vân Đồn (Quảng Ninh);
- Quyết định số 1296/QĐ-TTG phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng KKT Vân Đồn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
- Quyết định số 1856/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050
- Quyết định số 232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt Nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050
- Quy hoạch chung KKT ven biển Vân Đồn, Quảng Ninh
- Quyết định số 2428/QĐ-TTg về một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với tỉnh Quảng Ninh và Khu kinh tế Vân Đồn
2) Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng);
3) Nghi Sơn (Thanh Hóa):
- Dự án QHC xây dựng KKT Nghi Sơn, Tĩnh Gia, Thanh Hoá; Quy mô 18612 ha;
- Quyết định 18/2015/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế hoạt động của KKT Nghi Sơn, Thanh Hóa
- Quyết định số 1699/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt điều chỉnh, mở rộng Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050
4) Đông Nam Nghệ An (Nghệ An);
- Mở rộng KKT Đông Nam Nghệ An
5) Vũng Áng (Hà Tĩnh):
- Dự án QHC xây dựng KKT ven biển Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Quy mô 22781 ha
6) Hòn La (Quảng Bình);
7) Đông Nam (Quảng Trị)
- Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị
8) Chân Mây – Lăng Cô (Thừa Thiên Huế):
- Dự án QHC KKT ven biển Chân Mây – Lăng Cô, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế: Quy mô 10000 ha;
9) Chu Lai (Quảng Nam);
- Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng KKT mở Chu Lai đến năm 2035
10) Dung Quất (Quảng Ngãi);
11) Nhơn Hội (Bình Định);
- Dự án QHC xây dựng KKT ven biển Nhơn Hội, Quy Nhơn, Bình Định; Quy mô 12000 ha;
12) Nam Phú Yên (Phú Yên);
13) Vân Phong (Khánh Hòa);
- Dự án Điều chỉnh QHC xây dựng KKT Vân Phong, Khánh Hoà; Quy mô 150000 ha;
14)Phú Quốc- Nam An Thới (Kiên Giang);
15) Định An (Trà Vinh);
16) Năm Căn (Cà Mau);
17) Thái Bình (Thái Bình):
18) Ninh Cơ (Nam Định);
--------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCH TW Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
- Luật Biển Việt Nam được Quốc hội Việt Nam thông qua vào ngày 21/6/2012;
- Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008 của Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển các KTT ven biển Việt Nam đến năm 2020;
- Xem thêm các bài viết về phát triển các KKT ven biển trên WEB bmktcn.com
- Học liệu mở: Quy hoạch xây dựng KKT ven biển (dành cho học viên cao học, ĐHXD) trên WEB bmktcn.com
WEB bmktc.com
|