Thông tin chung:
Công trình: Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais (Nord - Pas de Calais Mining Basin)
Địa điểm: Hauts-de-France, Pháp (N50 27 45 E3 32 46)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích khu vực Di sản 3943 ha; Vùng đệm 18.804 ha
Năm hình thành: Thế kỷ 18
Giá trị: Di sản thế giới (2012; hạng mục ii, iv, vi)
Pháp (France) là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại.
Pháp có tổng diện tích 643.801 km2, dân số gần 67,3 triệu người (năm 2018), thủ đô là thành phố Paris.
Trong thời đại đồ sắt (Iron Age), bắt đầu vào thế kỷ 12 trước Công nguyên (TCN), nước Pháp (không kể phần lãnh thổ hải ngoại) là nơi cư trú của bộ tộc người Gaulois thuộc Celt, là nhóm các bộ tộc đa dạng ở châu Âu.
Người La Mã (Roma) thống trị khu vực từ năm 51 TCN đến năm 476 sau Công nguyên. Từ năm 476, người Frank thuộc nhóm bộ tộc Germain, sống tại hạ lưu và trung lưu sông Rhine đã chinh phục vùng đất, thành lập Vương quốc Pháp (Kingdom of Francia).
Pháp nổi lên thành một đế chế hùng mạnh tại châu Âu vào cuối thời Trung Cổ, thế kỷ 14 và 15. Việc giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Trăm năm (1337-1453, giữa Anh và Pháp) giúp Pháp củng cố quốc gia và tập trung hóa chính trị.
Trong thời kỳ Phục Hưng (thế kỷ 15 đến 17) văn hóa Pháp phát triển mạnh mẽ và nước Pháp dần trở thành một trong những đế quốc thực dân toàn cầu (Grande France).
Dưới thời vua Louis 14 (trị vì 1643 – 1715), còn gọi là Vua Mặt trời) Pháp trở thành thế lực chi phối văn hoá, chính trị và quân sự tại châu Âu.
Đến cuối thế kỷ 18, Cách mạng Pháp lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên một trong các nền cộng hoà sớm nhất trong lịch sử hiện đại. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, nền tảng của cuộc Cách mạng và biểu thị ý thức hệ của nước Pháp thời bấy giờ vẫn tiếp tục là đức tin mãnh liệt cho đến ngày nay.
Trong thế kỷ 19, hoàng đế Napoléon Bonaparte (trị vì năm 1804- 1814) lập ra Đệ Nhất Đế chế Pháp (First French Empire) và tiến hành các cuộc chiến tranh tại châu Âu. Sau khi Đế chế Pháp sụp đổ, Pháp trải qua giai đoạn các chính phủ kế tiếp nhau với đỉnh cao là thành lập Đệ Tam Cộng hòa Pháp (French Third Republic) vào năm 1870. Trong thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, Pháp đã trở thành đế quốc thực dân lớn thứ 2 thế giới sau đế quốc Anh.
Nước Pháp là một bên tham chiến chính trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và giành được phần thắng. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Pháp thuộc khối Đồng Minh, bị phe Trục (Đức, Ý, Nhật) chiếm đóng vào năm 1940 và được giải phóng vào năm 1944. Đệ Tứ Cộng hòa Pháp (French Fourth Republic) được thành lập năm 1946, song sau đó bị giải thể trong chiến tranh Algérie.vào năm 1958. Nền Đệ Ngũ cộng hoà (Fifth Republic) dưới quyền của tổng thống Charles de Gaulle (nhiệm kỳ năm 1959 – 1969) được thành lập vào năm 1958 và tồn tại cho đến ngày nay.
Hiện tại, Pháp được phân thành thành 18 vùng hành chính, gồm 13 vùng tại chính quốc và 5 vùng hải ngoại. Mỗi vùng chia thành 2 đến 18 tỉnh. Mỗi vùng hải ngoại tương đương 1 tỉnh.
Pháp thuộc nhóm Quốc gia phát triển và từ lâu đã có vị thế là một trung tâm của thế giới về nghệ thuật, khoa học và triết học, có số Di sản thế giới nhiều thứ 3 tại châu Âu (số liệu đến năm 2019: Ý 55 Di sản; Tây Ban Nha 48, Đức 46, Pháp 45).
Lưu vực khai thác Nord-Pas de Calais tương ứng với vỉa than tây bắc châu Âu, phần thuộc Pháp.
Khu vực mỏ than nằm trên một đồng bằng rộng mở, kéo dài khoảng 120 km, thuộc tại tỉnh Nord và Pas-de-Calais, vùng Hauts-de-France.
Vào năm 1720, mỏ than đầu tiên của Nord - Pas de Calais được phát hiện.
Thế kỷ 19 tại châu Âu được dánh dấu bởi những tiến bộ về công nghệ - sự xuất hiện động cơ hơi nước, mở đầu cho cuộc cách mạng công nghiệp với sự xuất hiện của nhiều ngành công nghiệp mới. Các ngành công nghiệp này có nhu cầu rất lớn về than (cho máy hơi nước) dẫn đến sự bùng nổ việc khai thác than, đi kèm với đó là sự hình thành các thị trấn dân cư cho những người lao động mỏ.
Các khu vực khai thác khoáng sản tại châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ nhất cho đến năm 1920. Giai đoạn tiếp sau dần được phục hồi, đánh dấu bởi sự xuất hiện của các mỏ than tại Ba Lan và Ý.
Mỏ than Nord - Pas de Calais cũng như toàn bộ ngành khai thác than tại Pháp lại tiếp tục bị ngừng trệ trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau chiến tranh, các mỏ than tại Nord - Pas de Calais được quốc hữu hóa và phục hồi theo các chương trình hiện đại hóa sản xuất đáp ứng các nhu cầu của Pháp. Vào những năm 1960, do suy thoái kinh tế, các mỏ than dần đóng lại vào năm 1990.
Vùng mỏ than này thể hiện một cảnh quan văn hóa đáng chú ý về tính liên tục và đồng nhất; cung cấp một ví dụ quan trọng và được bảo tồn tốt về khai thác than, quy hoạch đô thị có liên quan trong suốt hai thế kỷ, từ cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 20, thông qua các phương pháp khai thác công nghiệp liên quan đến rất nhiều công nhân. Cảnh quan được tạo bởi ngành công nghiệp khai thác than gồm: các thành phần địa lý và vật lý (đống xỉ, đất canh tác, hố sụt lún do khai thác và rừng), di tích công nghiệp khai thác (hầm lò, các tòa nhà công nghiệp còn sót lại, các tháp nâng), dấu tích của các thiết bị vận chuyển (kênh đào, đường sắt, băng tải), nhà ở công nhân và quy hoạch đô thị đặc trưng (làng công nhân mỏ, thành phố vườn, khu nhà ở biệt lập và chung cư), các thành phần kiến trúc hoành tráng minh chứng cho cuộc sống cộng đồng (nhà thờ , trường học, dinh thự của các nhà quản lý, trụ sở của công ty, cơ sở công đoàn, nhà ga, tòa thị chính, bệnh viện, hội trường cộng đồng và cơ sở thể thao), đài tưởng niệm vùng mỏ và những người thợ mỏ.
Vị trí Khu mỏ than Nord - Pas de Calais, vùng Hauts-de-France, Pháp
Vị trí của các điểm dân cư gắn với Khu mỏ than Nord - Pas de Calais, vùng Hauts-de-France, Pháp
Mỏ than Nord - Pas de Calais, vùng Hauts-de-France, Pháp được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 2012) với tiêu chí:
Tiêu chí (ii) : Mỏ than Nord-Pas de Calais cung cấp bằng chứng đặc biệt về việc giao lưu, ảnh hưởng liên quan đến các phương pháp khai thác than dưới lòng đất, thiết kế nhà ở công nhân và quy hoạch đô thị, cũng như sự di cư của những người lao động đa quốc gia, gắn với quá trình công nghiệp hóa tại Châu Âu.
Tiêu chí (iv) : Cảnh quan khai thác của Mỏ than Nord-Pas de Calais là một ví dụ nổi bật về sự phát triển với quy mô lớn của hoạt động khai thác than trong thế kỷ 19 và 20, bởi các công ty công nghiệp lớn và lực lượng lao động đáng kể. Đây là không gian được cấu trúc bởi quy hoạch đô thị, các công trình công nghiệp đặc thù và các dấu tích vật chất xuất hiện trong quá trình khai thác than (đống xỉ và sụt lún).
Tiêu chí (vi) : Các sự kiện xã hội, kỹ thuật và văn hóa gắn liền với lịch sử của Mỏ than đã có tác động quốc tế. Chúng là một minh họa độc đáo và đặc biệt về sự nguy hiểm của hoạt động hầm mỏ và lịch sử của những thảm họa lớn của nó (Courrières); là bằng chứng cho sự phát triển các điều kiện xã hội và kỹ thuật khai thác than. Mỏ là đại diện cho địa điểm như một biểu tượng chính về thực trạng của người lao động và tình đoàn kết của họ trong những năm 1850 - 1990; là bằng chứng về việc phổ biến các lý tưởng của Chủ nghĩa công đoàn và Chủ nghĩa xã hội.
Phạm vi Khu vực Di sản Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Hauts-de-France, Pháp, gồm 13 khu và 109 địa điểm
Khu vực Di sản Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, vùng Hauts-de-France, Pháp được phân thành 13 khu vực với 109 địa điểm, tổng diện tích khoảng 3943 ha, kéo dài trên 120km (đến tận biên giới vói Bỉ), liên quan đến 87 điểm dân cư; 38 mỏ (mỏ lâu đời nhất có niên đại vào năm 1850); 51 khu phế thải (có khu vực rộng đến 90ha và cao đến 140m); 3 nhà ga; 124 bất động sản; 38 trường học, 26 công trình tôn giáo; trung tâm cộng đồng và 4000 cảnh quan gắn với 3 thế kỷ khai thác than.
Các khu mỏ than đều gắn liền với các công ty khai thác mỏ. 13 Khu mỏ than trong Khu vực Di sản gồm:
1) Khu mỏ than của Công ty Anzin
Khu mỏ than của Công ty Anzin (Compagnie des mines d'Anzin) nằm tại đầu phía đông Khu vực Di sản.
Công ty Anzin được thành lập vào năm 1757, năm 1946 được quốc hữu hóa.
Công ty vận hành 180 mỏ. Các mỏ của Công ty được hình thành vào năm 1757, là một trong những mỏ than lâu đời nhất của Khu vực Di sản. Công ty khai thác mỏ Anzin cũng là một trong những công ty công nghiệp đầu tiên tại châu Âu.
Anzin được coi là một trong những nguyên mẫu của xã hội tư bản, và cũng là biểu tượng của các phong trào xã hội tại châu Âu (đình công, lập hội, đoàn).
Vào năm 1789, Công ty có 27 hầm mỏ, 12 động cơ hơi nước và 0,4 vạn lao động tạo ra một phần ba sản lượng than của Pháp. Vào năm 1938, Công ty có 1,76 vạn lao động, trong đó có 2040 kỹ sư và giám sát viên.
Hình ảnh cảnh quan điển hình của một khu mỏ thuộc Công ty Anzin, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Trạm vận chuyển than từ mỏ và nhà máy luyện than, Khu mỏ thuộc Công ty Anzin, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Tàn tích của các giếng mở được lưu lại, Khu mỏ thuộc Công ty Anzin, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
- Địa điểm ký hiệu 1: Khu tưởng niệm của Công ty Anzin (Compagnie des Mines d’Anzin: Ensemble commémoratif) ghi nhớ sự kiện phát hiện ra mỏ than vào năm 1720 tại thị trấn Fresnes-sur-Escaut; Công trình nằm gần Hầm mỏ Jeanne Colard, xây dựng vào năm 1718; Diện tích Di sản 0,1818 ha;
- Địa điểm ký hiệu 2: Lâu đài Hải quan (Château des Douaniers) tại thị trấn Fresnes-sur-Escaut; Diện tích Di sản 0,2269 ha;
- Địa điểm ký hiệu 3: Lâu đài Hermitage (Château de l’Hermitage) tại thị trấn Condé-sur-l'Escaut; Diện tích Di sản 13ha;
- Địa điểm ký hiệu 4: Máy bơm chữa cháy Hầm mỏ Sarteau (Pompe à feu de la fosse du Sarteau) của Công ty Anzin tại thị trấn Fresnes-sur-Escaut, có từ thế kỷ 19; Diện tích Di sản 0,1766 ha;
- Địa điểm ký hiệu 5: Phức hợp khai thác và cảnh quan Amaury (Paysage et ensemble miniers du secteur d’Amaury); gồm 3 khu vực liên kết với nhau bởi sông Escaut (Scheldt): Hầm mỏ Sophie tại thị trấn Hergnies; Hố sụt lún tại thị trấn Hergnies; Khu phố vườn Taffin; Khu vực nằm gần Hầm mỏ Vieux-Condé của Công ty mỏ Anzin; Diện tích Di sản 86ha;
- Địa điểm ký hiệu 6: Khu liên hợp khai thác Thivencelle (Ensemble minier de la Compagnie des mines de Thivencelle), tại thị trấn Fresnes-sur-Escaut gồm: Hầm mỏ số 1 của mỏ Thivencelle, khu vực cũ của thị trấn Soult; văn phòng của Công ty Thivencelle đã được chuyển đổi thành trạm y tế của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ (Société de Secours Minière), Lâu đài Château Desandrouin của Công ty Anzin: Diện tích Di sản 9,97 ha;
- Địa điểm ký hiệu 7: Khu nhà ở Solitude (City of Solitude) là một khu nhà có vườn tại thị trấn Old Conde liên quan đến Hầm mỏ Ledoux của Công ty Anzin; Diện tích Di sản 8,63 ha;
- Địa điểm ký hiệu 8: Khu phức hợp cảnh quan và khai thác than Chabaud-Latour và Sabatier (Paysage et ensemble miniers de Chabaud-Latour et Paysage et ensemble miniers de Sabatier); Diện tích Di sản 715 ha. Đây là một trong những địa điểm lớn nhất và rộng nhất trong Khu vực Di sản, gồm:
Tại phía tây nam và phía nam: Hầm mỏ Sabatier của Công ty Anzin ở thị trấn Raismes; Đống xỉ hình nón cụt số 174 tại Sabatier Sud; Đống xỉ hình nón số 175 tại Sabatier North; Đống xỉ số 175A; Nhà chung cư tại Sabatier Nord, cũng như thị trấn ngoại ô Sabatier, khu nhà ở có vườn Pinson, nhà thờ, trường học và thị trấn mới Pinson;
Tại trung tâm: Đống xỉ số 176, Lavoir Rousseau tại thị trấn Raismes;
Tại phía đông: Khu dân cư hiện đại Ledru-Rollin, Thiers tại thị trấn Bruay-sur-l'Escaut, Khu dân cư Brunehaut, trường học tại thị trấn Escautpont gắn với Hầm mỏ Thiers, cũng như Khu dân cư ngoại ô Lagrange tại thị trấn Raismes gắn với Hầm mỏ La Grange.
Tại phía đông bắc: Tháp vận chuyển số 1, Khu nhà ở có vườn Acacias, Khu dân cư ngoại ô Chabaud-Latour và Lorette; Hố sụt lún Chabaud-Latour, Đống xỉ số 195 và 195A, 196 gắn liền với Hầm mỏ Ledoux của Công ty Anzin;
Tất cả các khu vực này, đôi khi cách xa nhau vài km, được liên kết với nhau bằng đường sắt.
- Địa điểm ký hiệu 9: Khu dân cư cổ Rivage (Cité du Rivage ancienne) được hình thành bởi mô hình khu nhà ở có vườn ở thị trấn Bruay-sur-l'Escaut;
- Địa điểm ký hiệu 10: Bao gồm các vị trí liên quan đến Hầm mỏ Bleuse của Công ty mỏ Anzin (Fosse Bleuse Borne des mines d'Anzin) nằm tại ngoại ô thị trấn Mont Vein và Đống xỉ than 189A và 189B tại thị trấn hiện đại Mill,
- Địa điểm ký hiệu 11: Lâu đài Dampierre (Château Dampierre) tại thị trấn Anzin; Diện tích Di sản 0,0547 ha;
- Địa điểm ký hiệu 12: Khu định cư Coron des 120 (Coron des 120) tại thị trấn Anzin và Valenciennes; Diện tích Di sản 4,67ha;
- Địa điểm ký hiệu 13: Khu liên hợp khai thác La Sentinelle (Ensemble minier de La Sentinelle) được tạo thành từ Hầm mỏ La Sentinelle của Công ty mỏ Anzin ở thị trấn La Sentinelle; Diện tích Di sản 2,97 ha. Sau này một phần khu vực chuyển đổi thành nhà thờ Sainte-Barbe, trạm y tế của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ;
- Địa điểm ký hiệu 14: Tháp vận chuyển Hầm mỏ Dutemple (Chevalement de la fosse Dutemple) thuộc Công ty mỏ Anzin tại thị trấn Valenciennes; Khung tháp bằng bê tông cốt thép; Diện tích Di sản 0,0862 ha;
- Địa điểm ký hiệu 15: Khu phức hợp cảnh quan và khai thác Wallers-Arenberg và Haveluy (Paysage et ensemble miniers de Wallers-Arenberg et paysage et ensemble miniers d’Haveluy); Diện tích Di sản 224 ha. Đây là một trong những khu vực rộng lớn nhất về quy mô và lưu vực khai thác Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, được chia thành hai phần: Về phía nam bao quanh Hầm mỏ Haveluy với các Đống xỉ số 157 và 158 của Công ty mỏ Anzin; Về phía bắc bao gồm khu dân cư Bellaing, Wallers liên quan đến Hầm mỏ Arenberg của Công ty mỏ Anzin với các công trình hội trường cộng đồng, trường học, nhà thờ, trạm y tế của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ, nhà ở; Hố mỏ Goriaux (Mare à Goriaux), Đống xỉ số 171…
- Địa điểm ký hiệu 16: Khu dân cư cũ Chabaud-Latour và khu vực ngoại ô mới (Cités Chabaud-Latour ancienne et nouvelle), nằm gần Hầm mỏ Chabaud- Latour của Công ty mỏ Anzin ở thị trấn Denain; Diện tích Di sản 10 ha;
- Địa điểm ký hiệu 17: Hầm mỏ Mathilde (Fosse Mathilde) của Công ty mỏ Anzin ở thị trấn Denain; Diện tích Di sản 0,0656 ha;
- Địa điểm ký hiệu 18: Đống xỉ hình nón (Terril Renard) số 162 thuộc Hầm mỏ Renard của Công ty mỏ Anzin ở thị trấn Denain; Diện tích Di sản 4,11 ha;
- Địa điểm ký hiệu 19: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan Escaudain (Paysage et ensemble miniers d’Escaudain) được hình thành từ các thành phần gắn với Hầm mỏ Audiffret-Pasquier của Công ty mỏ Anzin ở thị trấn Escaudain, gồm: Đống xỉ hình nón số 153 tại khu dân cư ngoại ô Alsace, Audiffret; các ngôi nhà của kỹ sư, phòng thí nghiệm, trạm y tế của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ, trường học, khu nhà ở Couture; Diện tích Di sản 39 ha;
- Địa điểm ký hiệu 20: Đài tưởng niệm Charles Mathieu (Monument commémoratif Charles Mathieu, 1798- ?, thị trưởng thị trấn Lourches, giám đốc Công ty khai mỏ Douchy) tại thị trấn Lourches, gần Hầm mỏ Saint-Mathieu của Công ty mỏ Douchy; Diện tích Di sản 0,1916 ha.
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ Arenberg (Fosse Arenberg) của Công ty Anzin, thuộc Địa điểm Di sản ký hiệu 15. Hầm mỏ bao gồm các cụm giếng mỏ:
Giếng mỏ số 1 (Puits Arenberg n° 1), hình thành năm 1900, vận hành năm 1903, trục mỏ sâu 606m; ngừng hoạt động vào năm 1989;
Giếng mỏ số 1 (Puits Arenberg n° 2, hình thành năm 1900, vận hành năm 1903, trục mỏ sâu 416m; ngừng hoạt động vào năm 1989;
Giếng mỏ số 3- 4 (Puits Arenberg n° 3 - 4), hình thành năm 1954, vận hành năm 1961, trục mỏ sâu 689m; ngừng hoạt động vào năm 1989.
Hầm mỏ Arenberg liên quan đến thị trấn mỏ Bellaing và Arenberg, thị trấn hiện đại Drève và Bosquet. Tại đây có hội trường, trường học, nhà thờ, Sainte-Barbe, trạm xá của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ…gắn liền với các khu định cư của công nhân mỏ.
Trường học tại thị trấn mỏ Arenberg, Công ty mỏ Anzin, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Hố mỏ Goriaux (Mare à Goriaux) tạo thành hồ nhân tạo có diện tích 90ha, sâu 1,3m, nhìn từ đống xỉ số 171, Khu mỏ than của Công ty Anzin, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
2) Khu mỏ than của Công ty Aniche
Khu mỏ than của Công ty Aniche (Compagnie des mines d'Aniche) nằm tại giữa Khu vực Di sản.
Công ty Aniche được thành lập vào năm 1773, năm 1946 được quốc hữu hóa.
Công ty vận hành 30 cụm mỏ với 55 hầm mỏ. Mỏ than đầu tiên được khai thác vào năm 1779.
Năm 1785, Công ty khai thác được 70 ngàn tấn than. Những năm tiếp sau, việc khai thác bị bỏ dở. Các hoạt động khai thác trở lại vào năm 1804 cùng với việc tìm kiếm các mỏ than mới.
Năm 1873, tổng sản lượng các mỏ của Công ty Aniche là 0,6 triệu tấn. Năm 1894, Công ty đã khai thác được 0,88 triệu tấn than với khoảng 0,4 vạn lao động.
Năm 1939, Công ty sản xuất được 3,18 triệu tấn than, một triệu viên than và 0,3 triệu tấn than cốc với 1,5 vạn lao động. Công ty có một quỹ hỗ trợ, 7000 ngôi nhà ở cho người lao động, 9 phòng khám bệnh, 2 trường học.
Hình ảnh một khu khai thác mỏ của Công ty Aniche với hệ thống đường sắt vận chuyển than, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Cảnh quan điển hình của một khu mỏ thuộc Công ty Aniche, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Các tháp vận chuyển than xưa xen lẫn với các khu nhà ở ngày nay, Khu mỏ thuộc Công ty Aniche, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Khu mỏ than của Công ty Aniche có 13 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 21 đến số 33):
- Địa điểm ký hiệu 21: Gò xỉ than số 125A (Terril 125a), tại khu vực Sainte Marie Ouest, gắn với hoạt động của Hầm mỏ Sainte-Marie của Công ty mỏ Aniche ở thị trấn Auberchicourt; Diện tích Di sản 4,35 ha;
- Địa điểm ký hiệu 22: Khu nhà ở hiện đại và khu nhà ở có vườn Champ Fleuri (Cités du Champ Fleuri and Garage) cũng như trường học, nhà thờ liên quan đến Hầm mỏ Vuillemin của Công ty mỏ Aniche tại thị trấn Masny; Diện tích Di sản 45 ha;
- Địa điểm ký hiệu 23: Trung tâm Lịch sử khai thác mỏ Fosse Delloye (Fosse Delloye, Centre Historique Minier), được hình thành bởi Hầm mỏ Delloye của Công ty mỏ Aniche ở thị trấn Lewarde; Diện tích Di sản 8,5 ha;
- Địa điểm ký hiệu 24: Khu dân cư Guesnain, Balance và Malmaison (Cités de Guesnain, de la Balance et de la Malmaison), gồm trạm y tế của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ, khu nhà có vườn Balance và Malmaison, khu dân cư hiện đại Guesnain. Các khu dân cư được xây dựng phục vụ cho Hầm mỏ St. Rene của Công ty mỏ Aniche tại thị trấn Guesnain; Diện tích Di sản 33 ha;
- Địa điểm ký hiệu 25: Bao gồm khu nhà ở có vườn Clochette tại thị trấn Douai; nhà thờ, trường học, nhà bảo trợ, nghĩa trang của người Pháp và Ba Lan tại thị trấn Waziers; Diện tích Di sản 22 ha;
- Địa điểm ký hiệu 26: Khu nhà ở tại ngoại ô thị trấn Beaurepaire, Bois-Brûlé, Moulin, Ferme Beaurepaire và thị trấn hiện đại Beaurepaire, Nhà nguyện Sainte-Barbe và Tu viện Beaurepaire; Diện tích Di sản 34 ha. Các khu này gắn liền với Hầm mỏ De Sessevalle ở thị trấn Somain của Công ty mỏ Aniche;
- Địa điểm ký hiệu 27: Khu liên hợp khai thác Argales (Ensemble minier des Argales); Diện tích Di sản 93 ha; bao gồm hố sụt lún Rieulay và phần lớn là Đống xỉ ở số 144 Rieulay tại thị trấn Rieulay và thị trấn Pecquencourt, liên quan đến Hầm mỏ De Sessevalle và Lemay thuộc Công ty mỏ Aniche;
- Địa điểm ký hiệu 28: Khu dân cư Lemay, Sainte-Marie tại Pecquencourt (Cités Sainte-Marie, Lemay et de Pecquencourt); Diện tích Di sản 38 ha; bao gồm khu nhà ở, khu nhà vườn, 2 trạm y tế của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ gắn lền với Hầm mỏ Lemay thuộc Công ty mỏ Aniche;
- Địa điểm ký hiệu 29: Đống xỉ than số 143 và 143a (Terrils 143 et 143a) được hình thành trong quá trình khai thác tại Hầm mỏ Barrois của Công ty Aniche nằm ở các thị trấn Pecquencourt, Lallaing, Flines-lez-Raches và Marchiennes; Diện tích Di sản 187 ha.
- Địa điểm ký hiệu 30: Khu dân cư Barrois (Cité Barrois) là các khu dân cư có vườn thuộc Công ty mỏ Aniche, tại thị trấn mỏ Pecquencourt; Diện tích Di sản 17ha;
- Địa điểm ký hiệu 31: Khu dân cư Montigny và Moucheron (Cités de Montigny et du Moucheron) bao gồm khu nhà ở có vườn Montigny, trường học, nhà thờ Saint-Charles, trạm ý tế của Hiệp hội Cứu trợ Khai thác mỏ Lâu đài Château Lambrecht và khu nhà ở có vườn Moucheron. Những địa điểm này liên quan đến Hầm mỏ Barrois của Công ty mỏ Aniche tại thị trấn Montigny-en-Ostrevent; Diện tích Di sản 17ha;
- Địa điểm ký hiệu 32: Hố mỏ số 2 của mỏ Flines (Fosse n ° 2 de Flines) của Công ty mỏ Aniche tại thị trấn Anhiers; Diện tích Di sản 0,4882 ha;
- Địa điểm ký hiệu 33: Khu dân cư Solitude, La Ferronnière, Saint-Joseph và Godion (Cités de la Solitude, de la Ferronnière, Saint-Joseph et du Godion), bao gồm khu nhà ở có vườn Solitude và trường học; khu dân cư La Ferronnière, Saint-Joseph và Godion tại thị trấn Douai; Nhũng khu vực này liên quan đến Hầm mỏ Déjardin và Bernard của Công ty mỏ Aniche; Diện tích Di sản 24ha;
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ Fosse Sainte-Marie của Công ty mỏ Aniche (Fosse Sainte-Marie des Mines d'Aniche), thuộc Địa điểm Di sản ký hiệu 21. Hầm mỏ gồm 2 giếng: Giếng số 1 (Puits Sainte-Marie n° 1) hình thành vào năm 1856/1857, vận hành năm 1863; Trục lò đứng sâu 516m; trục lò ngang tại các cao độ 265, 348, 428 và 508m; Bắt đầu dừng hoạt động vào năm 1960;
Giếng số 2 (Puits Sainte-Marie n° 2) hình thành năm 1907; Trục lò đứng sâu 523m; trục lò ngang tại các cao độ 265, 348, 428 và 508m; Bắt đầu dừng hoạt động vào năm 1960.
Tại đây có 2 đống xỉ: Đống xỉ ký hiệu 125 (Terril n° 125) St. Mary East và Đống xỉ 125A (Terril n° 125A), St. Mary West, được cây cối bao phủ.
Hầm mỏ Fosse Sainte-Marie liên quan đến thị trấn Auberchicourt với sự đa dạng về nhà ở của công nhân.
Hầm mỏ Sainte-Marie khoảng năm 1960, bên trái Giếng lò số 1, bên phải là Giếng lò số 2,
Công ty mỏ Aniche, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
3) Khu mỏ của Công ty Escarpelle
Khu mỏ của Công ty Escarpelle (Compagnie des de l'Escarpelle) nằm tại giữa của Khu vực Di sản, Công ty khai thác Escarpelle vận hành các mỏ than tại các thị trấn Roost-Warendin, Leforest, Pont-de-la-Deûle, Dorignies, Courcelles-les-Lens và Auby.
Công ty được thành lập vào năm 1847, khai thác và vận hành 10 hầm lò.
Sản lượng của các mỏ Escarpelle là từ năm 1850 đến 1859, 363.276 tấn; từ năm 1860 đến 1869 là 1.157.988 tấn; từ năm 1870 đến 1878 là 2.102 001 tấn. Vào năm 1875, số công nhân của các mỏ Escarpelle đạt tới 1.441 công nhân bao gồm 1.154 công việc dưới lòng đất.
Một khu phố dành cho người lao động đầu tiên đã được thành lập tại thị trấn Roost-Warendin vào năm 1853 và tại một số thị trấn khác.
Cuối năm 1876, Công ty cung cấp 494 ngôi nhà cho người lao động, đáp ứng cho khoảng một nửa số lao động. Ngoài ra, Công ty còn xây dựng trường học, nhà thờ và trại tị nạn; thành lập Quỹ cứu trợ bằng cách trích 3% tiền lương của công nhân và đóng góp 1% tổng số tiền Quỹ, để hỗ trợ tiền, chăm sóc y tế cho người lao động bị ốm, tan nạn, lương hưu, góp phụ, trẻ mồ côi…
Khu mỏ than của Công ty Escarpelle có 4 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 34- 37):
- Địa điểm ký hiệu 34: Khung vận chuyển của Hầm mỏ số 9 (Chevalement de la fosse n° 9) thuộc Công ty mỏ Escarpelle tại thị trấn Roost-Warendin; Diện tích Di sản 0,116ha;
- Địa điểm ký hiệu 35: Khu liên hợp khai thác mỏ Belleforière (Ensemble minier de la Belleforière) bao gồm các khu dân cư Belleforière xây dựng cho người lao động tại Hầm mỏ số 9 của Công ty mỏ Escarpelle tại thị trấn Roost-Warendin. Đống xỉ số 139 tại Pâturelles; Đống xỉ số 123 tại Escarpelle; Đống xỉ 141, tại Nouveau Est bắt nguồn từ Hầm mỏ số 1 của Công ty mỏ Escarpelle tại thị trấn Roost-Warendin; Diện tích Di sản 90ha;
- Địa điểm ký hiệu 36: Đống xỉ số 140 tại Marais du Vivier Ouest, thuộc thị trấn Auby; Diện tích Di sản 1,75 ha;
- Địa điểm ký hiệu 37: Khu dân cư Justice và Mill (Cités de la Justice et du Moulin) gồm khu dân cư mỏ Justice và bệnh xá của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ; khu nhà ở có vườn Mill. Các công trình liên quan đến Hầm mỏ số 8 của Công ty mỏ Escarpelle, tại thị trấn Auby; Diện tích Di sản 22ha.
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm lò số 9 của Công ty Escarpelle (Fosse n° 9 des Mines de l'Escarpelle), thuộc Địa điểm Di sản ký hiệu 35.
Hầm lò số 9 được xây dựng vào năm 1909; Trục lò đứng có chiều sâu 592m, 3 trục lò ngang tại cao độ 206, 227, 410m. Mỏ dừng hoạt động vào năm 1990. Mỏ thải ra 3 đống xỉ: Đống xỉ số 136 (Terril n° 136), Roost Lains West cao đến 5,9m; Đống xỉ 136A (Terril n° 136A) East Roost Lains; Đống xỉ 138 (Terril n° 138) Escarpelle cao 15m tại thị trấn Roost-Warendin.
Hầm mỏ số 9 của Công ty Escarpelle liên quan đến thị trấn Roost-Warendin. Tại đây một số lượng lớn nhà ở cho công nhân đã được xây dựng.
Tàn tích Hầm lò số 9, Công ty mỏ Escarpelle, năm 1975, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
4) Khu mỏ của Công ty Ostricourt
Khu mỏ của Công ty Ostricourt (Compagnie des mines de Ostricourt) nằm tại phía bắc của Khu vực Di sản.
Công ty thành lập vào năm 1860, năm 1946 được quốc hữu hóa.
Công ty Ostricourt vận hành 8 cụm mỏ.
Năm 1938, công ty đã sản xuất được 1.270.162 tấn than và có 5.919 công nhân làm việc.
Khu công nhân mỏ có tới 3.002 căn hộ; Quỹ Cứu trợ được thành lập vào năm 1856, hỗ trợ các khoản cứu trợ, lương hưu, chi trả việc chữa bệnh, giáo dục con công nhân...
Khu mỏ than của Công ty Ostricourt có 3 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 38- 40):
- Địa điểm ký hiệu 38: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan Libercourt (Paysage et ensemble miniers de Libercourt), được tạo thành từ Đống xỉ số 115, 2 cáp treo và các công trình trường học, nhà thờ Saint-Henri, khu dân cư hiện đại và khu dân cư cổ có từ năm 1940. Các công trình này liên quan đến Hầm mỏ số 2 của Công ty mỏ Ostricourt tại thị trấn Libercourt; Diện tích Di sản 77ha;
- Địa điểm ký hiệu 39: Hầm mỏ số 2 và cảnh quan mỏ (Ancienne fosse n° 2 et mine-image); Diện tích Di sản 6,23 ha. Khu vực Di sản bao gồm Hầm mỏ số 2 của Công ty mỏ Oignies và cảnh quan có liên quan như Đống xỉ số 115A, tại thị trấn Libercourt;
- Địa điểm ký hiệu 40: Tòa thị chính (Hôtel de ville) của thị trấn Carvin; Diện tích Di sản 1,19ha;
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ số 2 (Fosse n° 2 des Mines d'Ostricourt), thuộc Địa điểm Di sản ký hiệu 38 và 39.
Hầm mỏ được hình thành năm 1860, vận hành năm 1863. Giếng mỏ có đường kính rộng 5,3m, chiều sâu 505m. Hầm lò dừng hoạt động vào năm 1976. Vào những năm 2000, các phân xưởng trong mỏ bị phá hủy, song vẫn bảo tồn được một số công trình trình như phòng máy, nhà để xe, phòng cứu hộ, máy biến áp và phòng tắm...là một phần của Địa điểm Di sản ký hiệu 39.
Tại đây còn lưu lại 3 đống xỉ than: Đống số 115, 115A và 247 tại thị trấn Libercourt.
5) Khu mỏ than của Công ty Dourges
Khu mỏ than của Công ty Dourges (Compagnie des mines de Dourges) nằm tại giữa của Khu vực Di sản.
Công ty được thành lập vào năm 1855. Năm 1946 Công ty được quốc hữu hóa và phân thành 2 tập đoàn: Nhóm Henin-Liétard và Groupe d'Oignies.
Công ty Dourges vận hành 16 cụm mỏ. Các mỏ đầu tiên bắt đầu sản xuất vào năm 1856.
Năm 1875, Công ty khai thác được 0,12 triệu tấn than; Năm 1878, khai thác được 0,2 triệu tấn với số lượng lao động khoảng 0,2 vạn người.
Năm 1897, Công ty có một nhà máy tuyển than, 60 lò luyện than cốc, 7,5km đường tàu và một bến tàu, sử dụng khoảng 0,28 vạn lao động, trong đó có đến 600 trẻ em.
Năm 1913, Công ty sản xuất được 1,4 triệu tấn than.
Năm 1938, Công ty sản xuất được 1,7 triệu tấn than, 0,3 triệu tấn than cốc, và 37 ngàn tấn bánh than với khoảng 0,4 vạn lao động.
Cơ sở chế biến than của Công ty gồm 2 nhà máy tuyển than, 130 lò luyện than cốc và một nhà máy sản xuất bánh than.
Công ty xây dựng được 4022 ngôi nhà cho công nhân thuê, 3 trường học tiểu học, 2 trường trung học cơ sở, 9 trạm xá và bệnh viện, 2 quỹ hỗ trợ cho người lao động bị tai nạn, ốm, trả tiền hưu cho công nhân cũ, trẻ mồ côi...
Cảnh quan một khu mỏ và khu dân cư thuộc Công ty Dourges, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Một tuyến phố với các ngôi nhà trong một thị trấn mỏ Công ty Dourges, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Cảnh quan thời hiện tại với một gò núi từ phế thải than, Công ty Dourges, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Khu mỏ than của Công ty Dourges có 9 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 41- 49):
- Địa điểm ký hiệu 41: Đài tưởng niệm bà Declercq (Monument à Madame Declercq) tại thị trấn Oignies. Đây là tượng đài Henriette de Clercq (nhà công nghiệp người Pháp, năm 1812–1878), người sáng lập và giám đốc Công ty Dourges; Diện tích Di sản 0,0134 ha;
- Địa điểm ký hiệu 42: Khu liên hợp khai thác và cảnh quan của Hầm mỏ số 9 - 9A (Paysage et ensemble miniers de la fosse n° 9 - 9A) của Công ty mỏ Dourges tại thị trấn Oignies, bao gồm Hầm mỏ số 9 - 9A, Đống xỉ số 110 bắt nguồn từ Hầm mở số 9 - 9A của Công ty Dourges, khu dân cư có vườn Declercq, một trạm xá của Hiệp hội Cứu trợ Khai thác mỏ, khu dân cư hiện đại tại Bonniers và Dourges; Đống xỉ số 116, 117 tại thị trấn Oignies, bắt nguồn từ Hầm mỏ số 10 của tập đoàn Groupe d'Oignies (sau khi quốc hữu hóa); Diện tích Di sản 37ha;
- Địa điểm ký hiệu 43: Khu liên hợp khai thác mỏ Cornuault (Ensemble minier de la fosse Cornuault) nằm tại thị trấn Evin-Malmaison, bao gồm tháp nâng giếng số 8 của Hầm mỏ số 8- 8A thuộc Công ty mỏ Dourges và khu nhà ở có vườn Cornuault; Diện tích Di sản 32ha;
- Địa điểm ký hiệu 44: Khu dân cư Bruno (Cité Bruno) thuộc thị trấn Dourges, được tạo bởi khu dân cư có vườn Bruno (cũ và mới), trường học, nhà thờ Saint-Stanislas, nhà thờ cũ và hội trường; Diện tích Di sản 18ha;
- Địa điểm ký hiệu 45: Khu dân cư Foch (Cité Foch) gồm khu nhà ở có vườn Foch, trường âm nhạc và trạm xá của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ tại thị trấn Henin-Beaumont, được Công ty mỏ Dourges xây dựng phục vụ cho Hầm mỏ số 2 - 2A; Diện tích Di sản 20ha;
- Địa điểm ký hiệu 46: Đống xỉ 87 và 92 (Terrils 87 et 92). Đống xỉ 87 là đống xỉ hình nón, nằm tại Lavoir Hénin Est; Đống xỉ số 02 nằm tại Lavoir Hénin Ouest tại thị trấn Hénin-Beaumont và Dourges. Hai đống xỉ này nằm gần Hầm mỏ số 2 - 2A của Công ty mỏ Dourges; Diện tích Di sản 25ha;
- Địa điểm ký hiệu 47: Khu dân cư Crombez (Cité Crombez) nằm tại thị trấn Noyelles-Godault, là một khu nhà ở có vườn của những người thợ Hầm mỏ số 4 - 4A thuộc Công ty mỏ Dourges; Diện tích Di sản 17ha;
- Địa điểm ký hiệu 48: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan Drocourt (Paysage et ensemble miniers de Drocourt) có quy mô tương đối lớn; Diện tích Di sản 238ha, gồm:
Đống xỉ số 205 nằm tại thị trấn Drocourt và Henin-Beaumont;
Đống xỉ số 101 thuộc Khu tuyển than Lavoir de Drocourt, tại các thị trấn Billy-Montigny, Hénin-Beaumont và Rouvroy;
Đống xỉ hình nón ở số 84 tại phía nam của mỏ Drocourt, thị trấn Nouméa (Residence de la Motte), nhà thờ Saint-Louis và các nhà thờ khác của người Pháp và Ba Lan, trường học nữ sinh và nam sinh. Tất cả các di tích này liên quan đến Hầm mỏ số 2 của Khu mỏ Drocourt;
Khu dân cư tại thị trấn Billy-Montigny và Rouvroy, gần Hầm mỏ số 10 - 20 của Khu mỏ Courrières;
Khu dân cư có vườn Darcy tại thị trấn Hénin-Beaumont gắn với Hầm mỏ số 6 của Khu mỏ Dourges;
Khu dân cư có vườn Parc tại thị trấn Méricourt gắn với Hầm mỏ số 4 - 5 của Khu mỏ Drocourt;
Tuyến vận chuyển than từ thị trấn Rouvroy đến thị trấn Hénin-Beaumont;
- Địa điểm ký hiệu 49: Khu dân cư Parisienne (Cité de la Parisienne) bao gồm khu nhà trọ cho người lao động vị thành niên tại Parisienne (Corons de la Parisienne), trường học và nhà thờ Sainte-Barbe, ở thị trấn Drocourt. Những công trình này được Công ty Dourges xây dựng cho người lao động tại Hầm mỏ số 1 tại thị trấn Hénin-Beaumont; Diện tích Di sản 7ha.
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ số 6 của Công ty Dourges (Fosse n° 6 des Mines de Dourges), là một phần của Địa điểm Di sản ký hiệu 48.
Hầm mỏ được hình thành vào năm 1885, vận hành năm 1888; Trục lò đứng sâu 528m; Các trục lò ngang tại cao độ 211, 277m. Mỏ dừng khai thác vào năm 1951.
Bên cạnh Hầm lò số 6 là Hầm lò số 6A (Fosse n° 6 bis des mines de Dourges), bị phá hủy trong Thế chiến 1 và sau đó được xây dựng lại. Phế thải của Hầm mỏ số 6 là Đống xỉ số 90 (Terril n o 90) East Dourges, ban đầu cao 22m, sau chỉ còn phần đế.
Hầm mỏ số 6 liên quan đến khu dân cư có vườn Darcy thuộc thị trấn Hénin-Beaumont.
6) Khu mỏ than của Công ty Courries
Khu mỏ than của Công ty Courries (Compagnie des mines de Courrières) nằm tại giữa của Khu vực Di sản.
Công ty Courries được thành lập vào năm 1849, năm 1946 được quốc hữu hóa (hợp nhất vào Công ty Khai thác Drocourt).
Công ty Dourges vận hành 14 cụm mỏ.
Mỏ đầu tiên hoạt động vào năm 1850.
Năm 1890, Công ty sản xuất được 1,29 triệu tấn than với số lao động là 0,43 vạn người, trong đó có 560 trẻ em.
Năm 1903, Công ty đã sản xuất được khoảng 2,2 triệu tấn than với số lao động khoảng 0,7 vạn người.
Năm 1906, tại mỏ xảy ra thảm họa làm chết 1099 người.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, mỏ bị phá hủy.
Hoạt động của Công ty được phục hồi vào năm 1920.
Năm 1938, Công ty sản xuất được 3,4 triệu tấn than, 0,33 triệu tấn than cốc với khoảng 1,6 vạn lao động.
Năm 1878, Công ty đã xây dựng được 694 căn nhà cho 2800 người lao động. Các ngôi nhà này có 3 loại: Loại nhỏ có 1 tầng hầm, 2 tầng nổi, mỗi tầng một phòng; Loại trung bình có 1 tầng hầm, 2 tầng nổi, mỗi tầng hai phòng. Loại lớn có 1 tầng hầm, 2 tầng nổi, mỗi tầng có hai phòng lớn. Mỗi ngôi nhà đều có một khu vườn nhỏ riêng.
Công ty xây dựng 3 trường học cho 1900 học sinh, thư viện, nhà nguyện, một nghĩa trang, một bệnh viện chữa bệnh và cung cấp thuốc miễn phí cho người lao động; một quỹ hỗ trợ…
Hình ảnh một khu mỏ than và thị trấn mỏ thuộc Công ty Courries, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Nhà máy khai mỏ và luyện than thuộc Công ty Courries - ngày trước và hiện tại, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Khu mỏ than của Công ty Courries có 8 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 50- 57):
- Địa điểm ký hiệu 50: Khu dân cư Saint-Paul (Cité Saint-Paul) được xây dựng tại thị trấn Carvin cho người lao động vị thành niên tại Hầm mỏ số 24, 25 thuộc Công ty mỏ Courries; Diện tích Di sản 62 ha;
- Địa điểm ký hiệu 51: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan ở Estevelles và Harnes (Paysage et ensemble miniers d’Estevelles et de Harnes ), gồm 3 phần:
Về phía bắc, tại thị trấn Estevelles, gồm Hầm mỏ số 24; Bãi xỉ số 98, 24 Nord de Courrières;
Ở trung tâm, gồm các Gò phế thải số 248, 207 tại thị trấn Estevelles, Pont-à-Vendin, Annay
và Harnes;
Về phía nam, gồm các Gò phế thải số 93, 21 tại thị trấn Harnes, bắt nguồn từ Hầm mỏ số 21 và 22 thuộc Công ty mỏ Courries; Diện tích Di sản 40ha;
- Địa điểm ký hiệu 52: Nhà lắp ghép (Camus Haut) bao gồm các tòa nhà 1 đến 3 tầng tại thị trấn Annay-sous-Lens, hiện chỉ còn lại một số tàn tích; Công trình có diện tích 30 – 40m2, sau này có diện tích lớn hơn. Cấu trúc ban đầu là khung BTCT, tường gạch, mái lợp fibro xi măng, cửa sổ băng; sau này được cải tiến thành dạng tấm lớn lắp ghép (tấm được chế tạo tại nhà máy, lắp ráp tại chỗ bằng cần cẩu); Diện tích Di sản 0,1316ha;
- Địa điểm ký hiệu 53: Khu dân cư cổ Bellevue (Cité Bellevue ancienne) bao gồm khu dân cư, nhà thờ, trường học, được xây dựng cho người lao động tại Hầm mỏ số 21, 22 thuộc Công ty mỏ Courries tại thị trấn Harnes; Diện tích Di sản 27ha;
- Địa điểm ký hiệu 54: Khu dân cư Moulin (Cité du Moulin) gồm khu dân cư và trạm xá của Hiệp hội Cứu trợ Khai thác mỏ. Các công trình này được xây dựng cho người lao động tại Hầm mỏ số 7 – 19 thuộc Công ty mỏ Courries tại thị trấn Fouquières-lez-Lens’; Diện tích Di sản 7,9 ha;
- Địa điểm ký hiệu 55: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan từ Fouquières-lès-Lens đến Billy-Montigny (Paysage et ensemble miniers de Fouquières-lès-Lens à Billy-Montigny) nằm tại trung tâm Khu mỏ than của Công ty Courries; Diện tích Di sản 116ha, gồm:
Di tích Hầm mỏ và con đường của những người sống sót (Le silo et le chemin des rescapés) ở thị trấn Billy-Montigny và Méricourt. Di tích này liên quan đến Thảm họa Courrières (Catastrophe de Courrières) là một trong những thảm họa được biết đến nhiều nhất tại châu Âu và trên thế giới sau thảm họa tại Benxi (Bản Khê, Liêu Ninh, Trung Quốc vào năm 1942 làm 1.549 người chết); vụ nổ mỏ xảy ra vào ngày 10/3/1906 làm chết 1.099 người, tàn phá 110km đường hầm;
Đống sỉ số 260 tại Laundry Fouquières, thị trấn Fouquieres-lez-Lens;
Tuyến vận tải than từ thị trấn Fouquières-lez-Lens đến thị trấn Billy-Montigny;
Khu dân cư Courtaine, bệnh viện tại thị trấn Fouquières-lez-Lens và Noyelles-sous-Lens;
Khu dân cư Anchin tại thị trấn Noyelles-sous-Lens, Sallaumines và các công trình hạ tầng kỹ thuật của thị trấn Sallaumines;
- Địa điểm ký hiệu 56: Khu dân cư Deblock (Cité Deblock), bao gồm các ngôi nhà trong thị trấn và ngoại ô cho các kỹ sư làm việc trong Hầm mỏ số 5 – 12 của Công ty mỏ Courrières tại thị trấn Sallaumines; Diện tích Di sản 4,42ha;
- Địa điểm ký hiệu 57: Tượng đài Thảm họa Courrières (Monument commémoratif de la Catastrophe de Courrières); Diện tích Di sản 0,0382 ha;
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ số 24 và 25 của Công ty Courries (Fosse n° 24 - 25 des Mines de Courrières) tại thị trấn Estevelles, liên quan đến Địa điểm Di sản ký hiệu 50, 51, 52.
Hầm mỏ số 24 hình thành vào năm 1931, dừng khai thác vào năm 1971. Giếng mỏ có độ sâu 691m.
Hầm mỏ số 25 hình thành vào năm 1935, dừng khai thác vào năm 1971. Giếng mỏ có độ sâu 590m. Tại đây vẫn còn tồn tại nhiều tòa nhà; 2 Đống xỉ than số 98 North Courrieres và số 248 Cavalier vẫn được lưu giữ.
Hầm mỏ số 24 và 25 liên quan đến khu dân cư tại thị trấn Estevelles và Carvin.
Tàn tích một nhà lắp ghép tấm lớn tại thị trấn Annay-sous-Lens
7) Khu mỏ than của Công ty Lens
Khu mỏ than của Công ty Lens (Compagnie des mines de Lens) nằm tại giữa của Khu vực Di sản, gồm 12 địa điểm (ký hiệu 58- 69).
Công ty Lens được thành lập vào năm 1852, năm 1946 được quốc hữu hóa, là một trong số các công ty than lớn nhất nước Pháp.
Công ty vận hành 26 cụm mỏ than tại thị trấn Lens, nằm tại trung tâm khu vực Di sản.
Năm 1880, với 6 mỏ Công ty đã sản xuất được 0,92 triệu tấn than.
Năm 1913, Công ty đã sản xuất 3,86 triệu tấn than, 0,66 triệu tấn than cốc với số lượng lao động lên đến 1,6 vạn người. Các mỏ của Công ty có 548 lò luyện than cốc, 210 km đường sắt…
Công ty đầu tư xây dựng 7474 nhà ở, 9 trường tiểu học, nhà trẻ, 5 trường phổ thông trung học, hai trạm xá, nhà tắm.
Cảnh quan chung một khu mỏ của Công ty Lens, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Hình ảnh người công nhân tại trạm phát điện bằng động cơ hơi nước, Khu mỏ của Công ty Lens, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Tháp vận chuyển than từ hầm mỏ của Công ty Lens, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Khu mỏ than của Công ty Lens có 12 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 58- 69):
- Địa điểm ký hiệu 58: Hầm mỏ số 5 (Fosse n° 5) thuộc Công ty mỏ Meurchin (Compagnie de Meurchin, được Công ty Lens mua lại vào năm 1920) nằm tại thị trấn Billy-Berclau; Diện tích Di sản 2,33ha;
- Địa điểm ký hiệu 59: Khu dân cư Gare (Cité de la Gare) được hình thành bởi ga xe lửa ngoại ô thị trấn Wingles, có liên quan đến Hầm mỏ số 7 – 7A của Công ty mỏ Lens; Diện tích Di sản 3,89ha;
- Địa điểm ký hiệu 60: Khu dân cư Pont (Cité du Pont) được hình thành từ các cụm nhà của người lao động tại thị trấn Wingles, liên quan đến Hầm mỏ số 7 – 7A của Công ty mỏ Lens; Diện tích Di sản 6,23ha;
- Địa điểm ký hiệu 61: Khu dân cư Sports Wingles (Cité des Sports Wingles) được hình thành bởi các khu phố ngoại ô thị trấn Wingles liên quan đến Hầm mỏ số 7 – 7A của Công ty mỏ Lens; Diện tích Di sản 11ha;
- Địa điểm ký hiệu 62: Hầm mỏ số 13A (Fosse n° 13 bis) gắn với hệ thống thông gió của Công ty mỏ Lens tại thị trấn Bénifontaine;
- Địa điểm ký hiệu 63: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan từ Auchy-les-Mines đến Lens (Paysage et ensemble miniers d’Auchy-les-Mines à Lens) là một trong những nơi phong phú về các di tích liên kết với nhau, từ thị trấn Auchy-les-Mines đến Haisnes; từ Haisnes đến Douvrin, từ Douvrin đến Hulluch, từ Wingles đến Loos-en-Gohelle, qua Vendin-le-Vieil và Lens. Các khu vực đôi khi cách xa nhau vài km. Diện tích Di sản 507ha, gồm:
Hầm mỏ số 6 của Công ty mỏ Lens tại thị trấn Haisnes;
Khu dân cư ngoại ô Saint-Élie tại thị trấn Haisnes và Hulluch, liên quan đến hoạt động của Hầm mỏ số 13 của Công ty mỏ của Lens;
Khu nhà ở ngoại ô số 12, nhà thờ Saint-Édouard, trường học với nhà của ban giám hiệu, tàn tích tượng đài Công ty mỏ Lens, khu phố hiện đại 12A tại thị trấn Lens, Hầm mỏ số 12 của Công ty mỏ Lens, nhà của kỹ sư ở thị trấn Loos-en-Gohelle;
Khu dân cư số 1 gần Hầm mỏ số 1 của Công ty mỏ Lens ở thị trấn Lens;
Khu dân cư, nhà văn phòng, trường học với nhà của ban giám hiệu, ký túc xá cho nữ sinh tại thị trấn Lens; Khu dân cư Saint-Albert ở thị trấn Liévin và Loos-en-Gohelle; Trường học, nhà ở của kỹ sư tại thị trấn Liévin; Đống xỉ số 74 tại Lens East, 74A Lens Ouest và 74B tại Lens Nouveau của Hầm mỏ số 11- 19 của Công ty mỏ Lens tại thị trấn Loos-en-Gohelle;
Gian hàng khu phố 9, nhà thờ St. Theodore, trường học, nhà ở giáo viên, nhà kỹ thuật, khu dân cư ngoại ô Joan of Arc, các hạng mục vận hành của Hầm mỏ số 9 của Công ty mỏ Lens tại thị trấn Lens;
Các đống xỉ số 70, 70A, 70B, 70D và 70C1 + C2 và các hố sụt lún liên quan đến Hầm mỏ số 3- 4 của Công ty mỏ Lens tại thị trấn Wingles;
- Địa điểm ký hiệu 64: Văn phòng chính của Công ty mỏ Lens (Grands Bureaux de la Société des Mines de Lens) tại thị trấn Lens; Diện tích Di sản 4,61ha;
- Địa điểm ký hiệu 65: Khu dân cư số 62 Pas-de-Calais (Cité n° 62 Pas-de-Calais) được xây dựng cho những người thợ mỏ thuộc Hầm mỏ số 2 - 2A của Công ty Công ty mỏ Lens tại thị trấn Lens; Diện tích Di sản 0,0825 ha;
- Địa điểm ký hiệu 66: Nhà công đoàn Lens (Maison syndicale Lens) dành cho trẻ vị thành niên tại thị trấn Lens;
- Địa điểm ký hiệu 67: Tượng đài Émile Basly (Monument Émile Basly) tại thị trấn Lens; Diện tích Di sản 0,0299ha;
- Địa điểm ký hiệu 68: Nhà ga Lens (Gare de Lens) là nhà ga đường sắt nằm gần trung tâm của thị trấn Lens; Diện tích Di sản 0,2468 ha;
- Địa điểm ký hiệu 69: Đài tưởng niệm chiến tranh 1914- 1918 (Monument aux morts 1914-1918) là đài tưởng nhớ những con người đã thiệt mạng trong cuộc Chiến tranh thế giới 1 tại thị trấn Lens; Diện tích Di sản 0,0191ha.
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ số 9 của Công ty Lens (Fosse n° 9 des mines de Lens), liên quan đến Địa điểm Di sản ký hiệu 63.
Hầm mỏ số 9 hình thành vào năm 1884, dừng khai thác vào năm 1960. Trục đứng mỏ có chiều sâu 605m, đường kính 4,6m; Trục lò ngang tại cao độ 238, 336m;
Tại đây hiện vẫn còn Hố mỏ số 68 và Gò xỉ số 68A, được phủ kín bởi cây cỏ.
Khu di tích hiện đã cải tạo lại. Một số công trình đã bị phá hủy để xây dựng Bảo tàng Louvre-Lens (Louvre-Lens Museum), mở cửa năm 2012, là một trong những biểu tượng của sự chuyển đổi tại Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais.
Hầm mỏ số 9 liên quan đến khu dân cư Jeanne d'Arc, tại thị trấn Lens, trong đó có khu phố được gọi là "Phố Saint-Théodore" với nhà thờ, trường học, nhà ở của giáo viên, kỹ sư, bác sĩ…
8) Khu mỏ than của Công ty Lievin
Khu mỏ của Công ty Lievin (Compagnie des mines de Liévin) nằm tại phía nam Khu vực Di sản, gồm 7 địa điểm (ký hiệu 70- 76).
Công ty Lievin vận hành các mỏ than tại thị trấn Liévin, Éleu-dit-Leauwette, Jet và Angres.
Công ty được thành lập vào năm 1862, năm 1946 được quốc hữu hóa.
Các mỏ than tại đây bắt đầu hoạt động vào năm 1858.
Vào năm 1894, Công ty đã sản xuất được 0,66 triệu tấn than, sử dụng khoảng 0,24 vạn lao động.
Năm 1938, 8 cụm mỏ than của Công ty đã sản xuất khoảng 1,4 triệu tấn than và sử dụng đến 0,6 ngàn thợ mỏ. Vận chuyển than trong các mỏ được thực hiện bằng tuyến đường sắt dài khoảng 5km với 3 đầu máy xe lửa.
Tàn tích nổi tiếng của các mỏ than là các khung đỡ các thiết bị vận chuyển than từ hầm mỏ lên mặt đất và các đống phế thải.
Năm 1938, các khu dân cư của người lao động mỏ có tới 6543 căn nhà, cung cấp chỗ ở cho khoảng hai phần ba số lao động. Trường học được thành lập vào năm 1872 cho 750 trẻ em. Tất cả con em người lao động được học cho đến mười hai tuổi. Công ty cũng đã thành lập quỹ cứu trợ trích chủ yếu từ khoản 3% quỹ tiền lương. Từ năm 1874, tại các khu nhà ở của người lao động đều có hợp tác xã tiêu dùng.
Hình ảnh một cơ sở khai thác và tuyển than của Công ty Lievin, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Tháp vận chuyển than từ hầm mỏ của Công ty Lievin, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Công trình nhà tắm cho công nhân, Khu mỏ của Công ty Lievin, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
9) Khu mỏ than của Công ty Bethune
Khu mỏ than của Công ty Bethune (Compagnie des mines de Béthune/Grenay) nằm tại giữa của Khu vực Di sản.
Công ty Bethune được thành lập vào năm 1851, năm 1946 được quốc hữu hóa.
Công ty vận hành 13 cụm mỏ.
Các mỏ than của Công ty bắt đầu hoạt động vào năm 1853.
Năm 1878, Công ty khai thác được 0,46 triệu tấn than với khoảng 2,7 vạn lao động.
Vận chuyển than rất đa dạng, bằng đường bộ, đường sắt và đường sông.
Vào năm 1880, Công ty có 1350 nhà ở cho người lao động (đáp ứng cho khoảng 80% số lao động), hình thành lên một thị trấn với đường phố, quảng trường, nhà thờ, trường học, cửa hàng.
Năm 1866, Công ty xây dựng một nhà trẻ mồ côi cho 80 cháu đến tuổi 12. Ngoài ra, Công ty thành lập một quỹ hỗ trợ, một nhà thờ và hai nhà nguyện, 3 trường học, 5 nhà tị nạn, các cửa hàng cung cấp bánh mỳ và thực phẩm với giá thành thấp cho người lao động.
Hình ảnh cơ sở khai thác và tinh luyện than tại Công ty Bethune, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Cảnh quan khu dân cư và gò núi từ phế thải than, Khu mỏ của Công ty Bethune, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Hình ánh một trung tâm văn hóa trong Khu dân cư mỏ Công ty Bethune, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Một ngôi nhà ở của thợ mỏ trong Khu dân cư mỏ Công ty Bethune, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Khu mỏ than của Công ty Bethune có 11 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 77- 87):
- Địa điểm ký hiệu 77: Khu dân cư Auchy (Cité d’Auchy) là một khu nhà ở có vườn tại thị trấn Violaines; Diện tích Di sản 2,72 ha;
- Địa điểm ký hiệu 78: Khu liên hợp khai thác số 9 Béthune (Ensemble minier du n° 9 de Béthune) bao gồm khu nhà ở ngoại ô số 9, trường học, trạm xá của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ tại thị trấn Annequin và Sailly-Labourse, được xây dựng cho người lao động tại Hầm mỏ số 9 của Công ty mỏ Bethune; Địa điểm này cũng liên quan đến tuyến đường sắt (dài 9km) phục vụ khai thác mỏ từ ga Bully - Grenay đến La Bassée - Violaines và tuyến nhánh tới Hầm mỏ số 9 tại thị trấn Annequin, Noyelles-lès-Vermelles, Vermelles, Cambrin, Cuinchy, Vermelles và Auchy-les-Mines; Diện tích Di sản 27ha;
- Địa điểm ký hiệu 79: Đống xỉ số 49 (Terril 49) Béthune tại thị trấn Mazingarbe, liên quan đến Hầm mỏ số 3 của Công ty mỏ Bethune tại thị trấn Vermelles; Diện tích Di sản 7,06ha;
- Địa điểm ký hiệu 80: Khu dân cư số 7 Béthune (Cité du n° 7 de Béthune) được tạo từ Khu nhà ở có vườn số 7, trường học tại thị trấn Mazingarbe; liên quan đến Hầm mỏ số 7 - 7a của Công ty mỏ Bethune; Diện tích Di sản 29 ha;
- Địa điểm ký hiệu 81: Lâu đài Mercier và nhà của các kỹ sư (Château Mercier et maisons d’ingénieur) nằm trên phố Platanes, tại thị trấn Mazingarbe; Diện tích Di sản 11 ha;
- Địa điểm ký hiệu 82: Khu dân cư số 2 (Cité n° 2), trường học, 2 trạm xá Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ, hội trường, nhà kỹ thuật và phòng khám Sainte-Barbe tại thị trấn Bully-les-Mines và Mazingarbe; nằm gần Hầm mỏ số 2 của Công ty mỏ Bethune; Diện tích Di sản 65 ha;
- Địa điểm ký hiệu 83: Đài tưởng niệm và cổng thành Sheep (Monument aux morts et grilles de la cité des Brebis); Đài tưởng niệm những người đã chết trong quá trình khai thác tại Công ty mỏ Bethune và cổng của khu dân cư Sheep tại thị trấn Bully-les-Mines, gần ranh giới thị trấn Mazingarbe; Diện tích Di sản 0,0281 ha;
- Địa điểm ký hiệu 84: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan ở thị trấn Grenay- Mazingarbe (Paysage et ensemble miniers de Grenay-Mazingarbe) bao gồm Khu dân cư có vườn Quarante, Khu dân cư số 5, Nhà thờ Saint-Louis tu viện và trường học của khu dân cư tại thị trấn Grenay; Đống xỉ số 58 Lavoir Mazingarbe Ouest và 58A Lavoir Mazingarbe Est, gắn với Hầm mỏ số 5 - 5A của Công ty mỏ Bethune; Diện tích Di sản 155 ha;
- Địa điểm ký hiệu 85: Bệnh xá của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ (Dispensaire Société de Secours Mutuel) tại thị trấn Grenay; Diện tích Di sản 0,1384ha;
- Địa điểm ký hiệu 86: Tượng đài người lính Marche (Monument du soldat Marche), là lính giao liên (Fernand Joseph Edouard Marche, 1988 - 1916/1917) xuất thân là thợ mỏ, đã hy sinh anh dũng trong chiến tranh thế giới lần 1; Tượng đài nằm gần Hầm mỏ số 1 - 1A - 1B của Công ty mỏ Bethune tại thị trấn Bully-les-Mines; Diện tích Di sản 0,0122 ha;
- Địa điểm ký hiệu 87: Khu dân cư số 10 (Cité n° 10) bao gồm 87 trường học và Nhà thờ Thánh Margaret, liên quan đến Hầm mỏ số 10 - 10A của Công ty mỏ Bethune tại thị trấn Sains-en-Gohelle và các vùng ngoại ô của thị trấn Sains-en-Gohelle và Bouvigny-Boyeffle; Diện tích Di sản 46 ha.
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ số 9 của Công ty mỏ Bethune (Fosse n° 9 des mines de Béthune) tại thị trấn Annequin, liên quan đến Địa điểm Di sản ký hiệu 78.
Hầm mỏ hình thành vào năm 1893, vận hành năm 1896; Trục mỏ đứng sâu 527m, trục lò ngang tại cao độ 200, 251m. Hầm mỏ bắt đầu dừng hoạt động từ năm 1964.
Hầm mỏ thải ra 4 đống xỉ: Đống xỉ số 47 (Terril n° 47) Bethune West; Đống xỉ số 47A (Terril n° 47A) Bethune East; Đống xỉ 47B (Terril n° 47B, Cavalier) và Đống xỉ số 63A (Terril n° 63A) Cavalier.
Các khu dân cư mỏ liên quan đến Hầm mỏ số 9 được xây dựng tại thị trấn Annequin và Sailly-Labourse.
10) Khu mỏ than của Công ty Vicoigne - Noeux - Drocourt
Khu mỏ than của Công ty Vicoigne - Noeux - Drocourt (Compagnie des mines de Vicoigne - Noeux - Drocourt) nằm tại phía tây Khu vực Di sản.
Công ty Vicoigne - Noeux - Drocourt, được thành lập vào năm 1837, năm 1946 được quốc hữu hóa (một phần thuộc Công ty Bethune).
Công ty vận hành 16 cụm mỏ với 58 mỏ tại thị trấn Hersin-coupigny, Barlin, Labourse, Verquin, Bouvigny-
Boyeffles, Fouquières-lès-Béthune.
Các mỏ đầu tiên bắt đầu sản xuất vào năm 1852.
Năm 1878, Công ty khai thác được 0,44 triệu tấn than. Việc vận chuyển đa dạng, bằng đường bộ, đường sắt và đường thủy.
Năm 1897, Công ty khai thác được 1,24 triệu tấn than với số lao động khoảng 0,4 vạn người, trong đó có 820 trẻ em và 222 phụ nữ.
Vào năm 1917, một vụ nổ khí đã làm chết 42 thợ mỏ. Cũng vào năm này Công ty sản xuất được 2,47 triệu tấn than.
Vào năm 1939, Công ty có 3 phân xưởng tuyển than, hai phân xưởng sản xuất bánh than, một nhà máy hóa chất và 128 km đường sắt…sử dụng 1 vạn lao động.
Năm 1878, Công ty đã có 800 ngôi nhà ở để cho thuê, đáp ứng được khoảng 60% số lao động.
Năm 1855, Công ty thành lập một trường học, năm 1867 xây dựng hai trường dành riêng cho các em gái. 3 trường có quy mô khoảng 1150 em. Công ty còn thành lập hai quỹ hỗ trợ.
Hình ảnh một mỏ than của Công ty Vicoigne - Noeux - Drocourt, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Hình ảnh xưởng luyện than với kết cấu chịu lực bằng thép, Công ty Vicoigne - Noeux - Drocourt, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Tàn tích một tháp nước, Công ty Vicoigne - Noeux - Drocourt, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Khu mỏ than của Công ty Vicoigne - Noeux - Drocourt có 4 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 88- 91):
- Địa điểm ký hiệu 88: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan Noeux-les-Mines (Paysage et ensemble miniers de Noeux-les-Mines) bao gồm một phần của Hầm mỏ 1-1A của Công ty mỏ Noeux, Đống xỉ hình nón số 36 của Công ty mỏ Noeux, Văn phòng chính của Công ty Vicoigne - Noeux – Drocourt; Khu dân cư số 1, nhà thờ Sainte-Barbe, trường học, hợp tác xã khai thác mỏ, khu nhà ở có vườn Résidence du Fond de Sains, khu dân cư ngoại ô Moussy, khu dân cư hiện đại Stade và Chemin Perd, trạm xá của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ, khu dân cư có vườn mới số 1 tại thị trấn Hersin-Coupigny; Diện tích Di sản 87ha;
- Địa điểm ký hiệu 89: Khu phức hợp khai thác và cảnh quan của Barlin (Paysage et ensemble miniers de Barlin) bao gồm khu nhà ở có vườn Joan of Arc, trường học tại thị trấn Barlin; khu dân cư Loisne và khu nhà ở có vườn số 9 tại thị trấn Barlin và thị trấn Hersin-Coupigny; các công trình này gắn liền với Hầm mỏ số 9 -9A của Công ty mỏ Noeux; Diện tích Di sản 40ha;
- Địa điểm ký hiệu 90: Khu dân cư Soeurs (Cité des Soeurs) là khu nhà ở ngoại ô Soeurs, trường học gắn liền với Hầm mỏ 9 -9A của Công ty mỏ Noeux; Diện tích Di sản 6,61ha;
- Địa điểm ký hiệu 91: Khu liên hợp khai thác mỏ số 7 (Ensemble minier de la fosse n° 7) bao gồm Hầm mỏ số 7 -7A của Công ty mỏ Noeux tại thị trấn Barlin và khu dân cư ngoại ô số 7 tại thị trấn Barlin và Maisnil-lès-Ruitz; Diện tích Di sản 9,57ha;
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ số 7- 7A của Công ty mỏ Vicoigne - Noeux - Drocourt (Fosse n° 7 - 7 bis des mines de Noeux) tại thị trấn Barlin, liên quan đến Địa điểm Di sản ký hiệu số 91. Hầm mỏ bắt đầu hình thành vào năm 1887, bắt đầu khai thác vào năm 1888; sâu 861m;
Mỏ có 4 đống xỉ: Số 38 Noeux East; số 38A Noeux West; số 38B Noeux North và 238 Cavalier Voie 5 – 7;
Mỏ được quốc hữu hóa vào năm 1946 và gia nhập Groupe de Béthune; Mỏ bắt đầu dừng khai thác vào năm 1967; Gắn liền với Hầm mỏ là khu nhà ở cho công nhân mỏ, trường học và trạm xá của Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ.
Một số công trình trong khu vực được giữ lại bảo tồn cho mục đích văn hóa.
11) Khu mỏ than của Công ty Bruay
Khu mỏ của Công ty Bruay (Compagnie des mines de Bruay) nằm tại phía tây Khu vực Di sản, gồm 9 địa điểm (ký hiệu 92- 100).
Công ty Bruay được thành lập vào năm 1850, năm 1946 được quốc hữu hóa.
Công ty vận hành 9 cụm mỏ tại thị trấn Bruay-la-Buissière, Haillicourt, Divion và Houdain.
Mỏ than đầu tiên của Công ty hoạt động vào năm 1856.
Vào năm 1878, các mỏ than của Công ty sản xuất được 0,35 triệu tấn than, khoảng 60 % khối lượng than được vận chuyển bằng đường sắt, phần còn lại là đường thủy.
Năm 1938, Công ty đã sản xuất 3,2 triệu tấn than, sử dụng khoảng 1,6 vạn lao động.
Ngay từ năm 1861, Công ty đã xây dựng các khu nhà ở cho người lao động. Đến năm 1878 đã có 559 ngôi nhà và trường học, hình thành nên thị trấn Bruay với khoảng gần 4 ngàn dân. Tại đây có trường học cho khoảng gần 2 ngàn học sinh, thành lập quỹ cứu trợ, hợp tác xã tiêu dùng.
Năm 1939 Công ty xây dựng thêm một nhà máy điện, một nhà sản xuất than viên (hình tròn – còn gọi là than bóng, cung cấp cho tàu thủy, động cơ hơi nước), 389 ngôi nhà và một bệnh viện…
Hình ảnh một mỏ than của Công ty Bruay, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Hình ảnh hệ thống vận chuyển đường sắt gỗ chống lò và than của Công ty Bruay, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Cảnh quan khu dân cư cho người lao động gắn liền với các cơ sở khai thác mỏ của Công ty Bruay, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Khu mỏ than của Công ty Bruay có 9 địa điểm thuộc Khu vực Di sản (trong bản đồ Di sản là Địa điểm ký hiệu từ số 92- 100):
- Địa điểm ký hiệu 92:Khu dân cư Dames (Cité du château des Dames) được Công ty mỏ Bruay xây dựng cho thợ mỏ làm việc tại Hầm mỏ số 1-1A tại thị trấn Gosnay; Diện tích Di sản 3,27ha;
- Địa điểm ký hiệu 93: Đống xỉ số 10 (Terril n° 10) Bruay Ouest, là kết quả của việc khai thác tại Hầm mỏ số 3 – 3A – 3B của Công ty mỏ Bruay tại thị trấn Bruay-la-Buissière; Diện tích Di sản 21ha;
- Địa điểm ký hiệu 94: Khu dân cư Musiciens (Cités des Musiciens) được tạo thành bởi các điểm dân cư tại thị trấn Bruay-la-Buissière liên quan đến Hầm mỏ số 5 – 5A của Công ty mỏ Bruay; Diện tích Di sản 12ha;
- Địa điểm ký hiệu 95: Tòa thị chính (Hôtel de ville) của thị trấn Bruay-la-Buissière; Diện tích Di sản 0,0629 ha;
- Địa điểm ký hiệu 96: Khu dân cư Anatole France và Électriciens (Cités Anatole France et des Électriciens) là các khu dân cư ngoại ô nằm gần Hầm mỏ số 1 – 1A của Công ty mỏ Bruay tại thị trấn Bruay-la-Buissière; Diện tích Di sản 18 ha;
- Địa điểm ký hiệu 97: Khu dân cư Nouveau Monde và Fleurs (Cités du Nouveau Monde et des Fleurs) nằm gần các Hầm mỏ số 4 – 4A – 4B và 6 – 6A – 6B của Công ty mỏ Bruay, bao gồm Khu dân cư số 16-1 và 16-3, trường học, nhà thờ Saint-Joseph, thuộc thị trấn Bruay-la-Lys và Khu dân cư Fleurs tại thị trấn Haillicourt; Diện tích Di sản 37ha;
- Địa điểm ký hiệu 98: Stade Parc gồm sân vận động, công viên và hồ bơi trang trí nghệ thuật ngoài trời tại thị trấn Bruay-la-Buissière; Diện tích Di sản 8,59 ha;
- Địa điểm ký hiệu 99: Khu dân cư Victoire và Arbres (Cités de la Victoire et des Arbres) bao gồm các khu nhà ở Victoire, trường học; khu nhà ở hiện đại và trường học, Hiệp hội cứu trợ khai thác mỏ, liên quan đến Hầm mỏ số 7- 7A của Công ty mỏ Bruay tại thị trấn Houdain; Diện tích Di sản 64ha;
- Địa điểm ký hiệu 100: Đống xỉ hình nón Jumeaux số 2 và 3 (Terrils Jumeaux 2 et 3) còn được gọi là Đống xỉ số 6 Bruay Est tại thị trấn Ruitz và số 6 Bruay Ouest tại thị trấn Maisnil-lès-Ruitz, là phế thải của Hầm mỏ số 6 – 6A – 6B của Công ty mỏ Bruay tại thị trấn Haillicourt; Diện tích Di sản 28 ha.
Một trong những Di sản nổi bật tại đây là Hầm mỏ 6 – 6A – 6B của Công ty mỏ Bruay (Fosse n° 6 - 6 bis - 6 ter des mines de Bruay) tại thị trấn Haillicourt, liên quan đến Địa điểm Di sản ký hiệu số 97 và 100. Hầm mỏ bắt đầu hình thành vào năm 1909; Bắt đầu khai thác vào năm 1913; sâu 1076m. Hầm mỏ bắt đầu dừng hoạt động vào những năm 1950. Mỏ được quốc hữu hóa vào năm 1946, gia nhập Tập đoàn Bruay. Một số giếng mỏ được lấp lại vào năm 1982, các thiết bị được tháo dỡ vào năm 1988.
Hiện tại, một số công trình liên quan đến Hầm mỏ được giữ lại như một di tích văn hóa: Các lối xuống mỏ; Đống xỉ số 2, 3 và 7; Khu dân cư Nouveau Monde và Fleurs, trường học, nhà thờ Thánh Giuse…
12) Khu mỏ than của Công ty Males:
Khku mỏ của Công ty Males (Compagnie des mines de Marles) nằm tại phía tây của Khu vực Di sản.
Công ty Males được thành lập vào năm 1852, năm 1946 được quốc hữu hóa.
Công ty vận hành các mỏ than tại thị trấn Marles-les-Mines, Auchel và Calonne-Ricouart. .
Mỏ than của Công ty Marles bắt đầu hoạt động vào năm 1858.
Vào năm 1879, Công ty đã khai thác được khoảng 1 triệu tấn than.
Năm 1934, Công ty có tổng cộng 9 cụm hầm mỏ với sản lượng khai thác 2,46 triệu tấn than và 0,2 triệu tấn than cốc. Số lao động làm việc trong mỏ khoảng 1,3 vạn người.
Vào năm 1868, Công ty Marles đã tiến hành xây dựng nhà ở cho người lao động. Năm 1876, Công ty đã cung cấp 515 ngôi nhà cho 875 công nhân làm việc trong mỏ, bằng khoảng một nửa số lao động; Năm 1869, đã xây dựng 3 trường học cho 550 trẻ em, nhà thờ; Năm 1920, Công ty thành lập quỹ cứu trợ, cung cấp 2623 ngôi nhà, 8 trường tiểu học cho 2500 học sinh, 4 trường mẫu giáo và một bệnh viện.
Hình ảnh một cơ sở tuyển than của Công ty Males, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Cảnh quan điển hình: Trạm vận chuyển than từ mỏ, cơ sở tuyển than, khu dân cư và các đống phế thải, Công ty Males, Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
Khu nhà ở cho người lao động tại Công ty Males, |