Thông tin chung:
Công trình: Chùa hang Ajanta (Ajanta Caves)
Địa điểm: Phân khu Soyagon Taluka, quận Aurangabad, bang Maharashtra, Ấn Độ (N20 33 11.988 E75 42 0)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: 8.242 ha; vùng đệm: 78.676 ha
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (1983; hạng mục i ; ii ; iii ; vi)
Ấn Độ (India) là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích 3.287.263 km2 (đứng thứ 7 trên thế giới); dân số khoảng 1324 triệu người (năm 2016).
Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương tại phía Nam, biển Ả Rập phía Tây Nam, vịnh Bengal phía Đông Nam, giáp Pakistan ở phía Tây; với Trung Quốc, Nepal, Bhutan ở phía Đông Bắc; Myanmar và Bangladesh ở phía Đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilisation) thời Cổ đại, có các tuyến đường buôn bán mang tính lịch sử cùng với những đế quốc rộng lớn, giàu có về thương mại và văn hóa.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), tại đây đã xuất hiện các đô thị lớn với số dân hàng vạn người, được quy hoạch với hệ thông thoát nước, cấp nước phức tạp, nhà gạch nung, các kỹ thuật mới trong hoạt động thủ công mỹ nghệ và luyện kim…
Sự phân tầng xã hội, dựa trên đẳng cấp, xuất hiện trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Sự tập quyền chính trị sớm nhất diễn ra dưới thời đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 322 - 187 TCN); đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại trong giai đoạn 187- 78 TCN) và đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 319 đến 550 sau Công nguyên).
Các vương quốc trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 3 TCN đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên tại Tiểu lục địa Ấn Độ (Middle kingdoms of India) có ảnh hưởng to lớn đến nền văn hóa của khu vực xung quanh, lan truyền đến tận Đông Nam Á.
Đây cũng là nơi bắt nguồn của 4 tôn giáo nội sinh lớn:
Ấn Độ giáo (Hinduism) là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, xuất phát từ khu vực Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), là sự hợp nhất hay tổng hợp các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và không có người sáng lập; hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, sau khi kết thúc thời kỳ Vệ Đà (Vedic period, năm 1500 – 500 TCN), phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ giáo bao gồm các nhóm tôn giáo khác biệt nhau về triết lý, song được liên kết bởi các khái niệm chung, các nghi thức, vũ trụ học, tài nguyên văn bản Hindu (luận về thần học, triết lý, thần thoại, kinh Vệ Đà, Yoga, nghi lễ, cách thức xây dựng đền thờ) và tập tục hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Bốn giáo phái lớn nhất của Ấn Độ giáo là Vaishnavism, Shaivism, Shaktism và Smartism.
Phật giáo (Buddhism) do Đức Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama/ Tất đạt đa Cồ đàm, năm 624 TCN – 534 TCN) sáng lập. Sau này phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa); Phật giáo Đại thừa (Bắc tông, Đại chúng); Phật giáo Chân ngôn (Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa).
Jaina giáo (Jainism/Kỳ Na giáo) do Đức Mahavir (năm 599 TCN – 527 TCN) sáng lập ra tại Bắc Ấn Độ với triết lý và phương thức thực hành dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn;
Sikh giáo (Sikhism) do Đức Guru Nanak (15/4/1469- 22/9/1539) sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, giữa Pakistan và Ấn Độ.
Ngoài ra, tại đây còn xuất hiện các tôn giáo ngoại nhập như: Do Thái giáo (Judaism), Bái Hỏa giáo (là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islamic). Các tôn giáo này được truyền đến Ấn Độ vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, bổ sung vào văn hóa đa dạng của khu vực.
Vào thời Trung cổ, phần lớn miền Bắc Ấn Độ thuộc Vương quốc Hồi giáo Delhi (Delhi Sultanate), kéo dài trong khoảng 320 năm (1206- 1526); Miền Nam Ấn Độ phân thành nhiều vương quốc nhỏ, ví dụ như: Vương quốc Vijayanagara (Vijayanagara Empire): nằm trên Cao nguyên Deccan (Deccan Plateau), tồn tại năm 1336 - 1646; Vương quốc Đông Ganga (Eastern Ganga dynasty): nằm tại khu vực ven biển phía Đông, giữa sông Mahanadi và sông Godavari, tồn tại vào thế kỷ 11- đầu thế kỷ 15.
Vào thế kỷ 16, Đế quốc Mughal (Mughal Empire, năm 1526 – 1857) hình thành, chinh phục các vương quốc nhỏ, mở rộng lãnh thổ ra gần như toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần của Afghanistan với số dân vào giai đoạn cực thịnh lên đến 150 triệu người.
Tiểu lục địa Ấn Độ dần bị Anh thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh từ giữa thế kỷ 19.
Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947, sau cuộc đấu tranh giành độc lập do Mahatma Gandhi (2/10/1869 – 30/1/1948) lãnh đạo.
Ngày nay Ấn Độ là một liên bang bao gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ thuộc liên bang. Dưới bang là các đơn vị hành chính: quận (huyện, khu); phân khu và làng xã.
Maharashtra là một bang nằm ở miền Tây Ấn Độ, giáp biển Ả Rập (Arabian See), thủ phủ là thành phố cảng biển Mumbai, trước đây còn gọi là Bombay.
Aurangabad là một thành phố du lịch thuộc quận Aurangabad, bang Maharashtra, được bao quanh bởi nhiều Di sản thế giới, trong đó có Quần thể chùa hang Ajanta (Ajanta Caves) và Chùa hang Ellora (Ellora Caves).
Bản đồ Ấn Độ và vị trí bang Maharashtra tại phía Tây Ấn Độ
Quần thể chùa hang Ajanta gồm khoảng 30 hang động, nằm ở lưng chừng một vách đá bazan bùn (Flood basalt, kết quả của một vụ phun trào núi lửa) thẳng đứng cao khoảng 76m. Đá được phân thành các lớp với chất lượng khác nhau. Sự không đồng nhất trong các lớp đá dẫn đến hình thành các vết nứt và sụp đổ theo thời gian. Tại vị trí này, một số hang động đã không được xây dựng tiếp tục. Vách đá uốn cong hình móng ngựa, bên dưới là sông Waghora (Waghora River). Phía trên các vách đá có một số thác nước.
Quần thể chùa hang Ajanta được hình thành gắn liền với việc lan truyền Phật Giáo.
Phật giáo được sáng lập bởi Siddhartha Gautama (Thích Ca Mâu Ni; khoảng năm 563/480 - 483/400 TCN), thuộc hoàng tộc Shakya (Devanagari), cai trị tiểu quốc Shakya (Shakya Gaṇarājya, kinh đô là Kapilavastu, thuộc Ấn Độ và Nepal ngày nay). Siddhartha Gautama từ bỏ cuộc sống phú quý của một hoàng tử vào năm 29 tuổi để tìm đạo. Sau 6 năm cầu đạo, Ngài đạt được giác ngộ tâm linh, được gọi là Đức Phật (Bậc giác ngộ/Người thức tỉnh) và dành 45 năm cuối của cuộc đời cho việc truyền dạy giáo lý. Những bản kinh ghi lại lời dạy của Ngài được lưu giữ qua truyền miệng và được viết thành sách vào 400 năm sau đó.
Vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 TCN đến thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, Phật giáo được hình thành và định hình tạo thành trung tâm Phật giáo tại Thung lũng sông Hằng, Ân Độ (Heartland of Buddhism, Ganges valley).
Giai đoạn đầu, Phật giáo lan truyền chủ yếu về hướng Tây, tới 3 thành phố: Sanchi, bang Madhya Pradesh; Amaravati, bang Andhra Pradesh và Mathura, bang Uttar Pradesh. Từ Sanchi, Phật giáo Đại thừa lan truyền đến Ajanta và Ellora.
Sơ đồ lan truyền Phật giáo tại các quốc gia châu Á.
Ghi chú trong hình vẽ:
Important Buddhist sites: Địa điểm Phật giáo chính;
Heartland of Buddhism, Ganges valley, India 6th to 4th Century BCE: Trung tâm Phật giáo tại Thung lũng sông Hằng Ấn Độ, giai đoạn thế kỷ 6- 4 TCN
Buddhist majority realm: Nơi Phật giáo chiếm đa số;
Historical realm of Buddhist expansion: Khu vực mở rộng Phật giáo;
Early Buddhist schools: Truyền bá Phật giáo giai đoạn đầu;
Mahayana: Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo Bắc Tông;
Theravada: Phật giáo Tiểu thừa hay Phật giáo nguyên thủy, Nam Tông;
Vajrayana Tantric: Phật giáo Kim cương thừa hay Mật tông
Quần thể chùa hang Ajanta được xây dựng theo hai giai đoạn :
Giai đoạn thứ nhất gồm các hang 9, 10, 12, 13 và 15A, được tạo ra trong khoảng thời gian từ năm 100 TCN đến năm 100 sau Công nguyên, vào thời vương triều Satavahana (Satavahana Dynasty, tồn tại vào thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ 2 sau Công nguyên) hoặc vào thời đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại vào năm 322 - 187 TCN).
Giai đoạn thứ hai gồm các hang ký hiệu 1-8, 11,14 -30, được tạo thành trong khoảng thời gian ngắn từ năm 460 – 480, dưới thời hoàng đế Harishena (cai trị vào năm 475 – 500) thuộc triều đại Vakataka (Vakataka Dynasty, tồn tại vào những năm 250 – 500), kế tiếp vương triều Satavahana, cùng thời với đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại vào năm 319 đến 550 sau Công nguyên) tại miền Bắc Ấn Độ.
Quần thể chùa hang Ajanta không chỉ là nơi tu tập cho các nhà sư mà còn là nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương và thương nhân trên tuyến đường thương mại (xuất khẩu dệt may, đá quý) nối trung tâm tiểu lục địa Ấn Độ tới thành phố cảng Mumbai.
Một trong những điểm đặc biệt của Quần thể chùa hang Ajanta là các bức tranh và tác phẩm điêu khắc đá thể hiện cảm xúc thông qua cử chỉ, tư thế và hình thức của các nhân vật được miêu tả, được đánh giá là những tác phẩm đẹp nhất của nghệ thuật Phật giáo ở Ấn Độ. Các hang ký hiệu 16,17, 1 và 2 có các bức tranh tường Ấn Độ cổ lớn nhất còn sót lại.
Theo thời gian, hang động Ajanta bị lãng quên, chỉ được nhắc đến trong hồi ký của một số Phật tử Trung Quốc hành hương đến Ấn Độ thời Trung cổ và bởi quan chức thời đế quốc Mughal vào đầu thế kỷ 17.
Hang động Ajanta bị bao phủ bởi rừng rậm cho khi vô tình phát hiện vào năm 1819.
Hình dạng, trang trí trong Quần thể chùa hang Ajanta tạo thành phong cách riêng, sau này được áp dụng trong các chùa hang khác như: Chùa hang Ellora (Ellora Caves, tại quận Aurangabad, bang Maharashtra, Di sản thế giới); Chùa hang Elephanta (Elephanta Caves, tại đảo Elephanta, thành phố Mumbai, bang Maharashtra, Di sản thế giới); Chùa hang Aurangabad (Aurangabad Caves, thành phố Aurangabad, bang Maharashtra); Chùa hang Shivleni (Shivleni Caves, tại thành phố Maharashtra, bang Maharashtra; Đền hang Karnataka (bang Karnataka).
Hiện tại đây đã phát hiện 36 tàn tích nền móng hang động.
Chùa hang Ajanta trưng bày các bức tranh, tác phẩm điêu khắc đá mô tả Đức Phật theo truyền thuyết Jatakamala (một bộ sưu tập gồm 34 câu chuyện liên quan đến kiếp trước và sự tái sinh của Đức Phật ở cả hình dạng con người và động vật), cũng như các câu chuyện khác về các vị thần Phật giáo và Ấn Độ giáo. Các chùa hang ban đầu được tạo thành từ nguồn tiền công đức của một số tín đồ, được ghi lại trong hang. Các chùa hang sau đó được tài trợ bởi các nhà cai trị địa phương hoặc giới thượng lưu và cũng được lưu lại.
Các cuộc khai quật khảo cổ cho thấy vai trò của các nghệ nhân Ấn Độ và việc sử dụng một khối lượng lớn lực lượng lao động trong việc xây dựng Quần thể chùa hang Ajanta.
Toàn cảnh Quần thể chùa hang Ajanta
Quần thể chùa hang Ajanta tại Aurangabad, bang Maharashtra, Ấn Độ được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1983) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Chùa hang Ajanta tại Aurangabad, bang Maharashtra, Ấn Độ được xây dựng theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 2 TCN; Giai đoạn sau được xây dựng vào khoảng năm 400 – 650 sau Công nguyên (hoặc 460 – 480 sau Công nguyên). Các bức tranh và các tác phẩm điêu khắc đá tại đây là những tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người trong lĩnh vực nghệ thuật Phật giáo, có ảnh hưởng to lớn đến nghệ thuật Ấn Độ giai đoạn tiếp sau.
Tiêu chí (ii): Chùa hang Ajanta là minh chứng về việc lan truyền Phật giáo từ trung tâm tiểu lục địa Ấn Độ tới khu vực bờ biển phía Tây và từ đây lan tỏa tới các khu vực khác ngoài Ấn Độ. Hình dạng kiến trúc, nghệ thuật tạo hình chùa hang Ajanta tạo thành phong cách riêng, sau này được áp dụng rộng rãi trong các chùa hang khác.
Tiêu chí (iii): Quần thể chùa hang Ajanta gồm các điện thờ và thiền viện được tạc vào một bức tường đá cao 76m, là một bằng chứng độc đáo về một truyền thống văn hóa Phật giáo tồn tại từ thế kỷ 2 TCN đến tận ngày nay.
Tiêu chí (vi): Quần thể chùa hang Ajanta trưng bày các bức tranh, tác phẩm điêu khắc mô tả kiếp trước và sự tái sinh của Đức Phật cũng như các câu chuyện về các vị thần Phật giáo và Ấn Độ giáo.
Sơ đồ tổng mặt bằng Di sản Quần thể chùa hang Ajanta với vị trí của các hang.
Phối cảnh tổng thể Di sản Quần thể chùa hang Ajanta với vị trí của các hang. Các hang động được đánh số từ 1- 28; Hang 9,10, 19, 26 là các điện thờ (Chaitya Hall), các hang còn lại là thiền viện (Vihara Hall). Hang không thể hiện: Hang 29 mới phát hiện, nằm ở phía trên hang 21; Hang 30 nằm giữa hang 15 và 16, gần đáy sông.
Các dạng không gian trong Quần thể chùa hang Ajanta
Quần thể chùa hang Ajanta gồm hang thiền viện (Vihara Hall) và hang điện thờ (Chaitya Hall). Các hang có kích thước khác nhau, được đục khoét vào trong vách đá. Có hang động được xây dựng đơn giản, nhưng cũng có hang được xây dựng công phu và tinh xảo.
Thiền viện
Tại Quần thể chùa hang Ajanta, phần lớn là các hang thiền viện (Vihara/ Vihara Hall). Đây không chỉ là nơi ở cho những người xuất gia theo Phật giáo (cư sĩ/tỳ kheo), mà còn là kho lưu trữ ngũ cốc và thực phẩm cho du khách.
Cấu trúc hang thiền viện thường có mặt bằng hình vuông, bố cục đối xứng, gồm một không trung tâm và bao quanh là các hốc hay phòng nhỏ, là nơi đặt các giường được chạm khắc vào trong đá. Hang thiền viện giai đoạn đầu đơn giản, về sau này có thêm không gian thờ đặt tượng Phật, bảo tháp…Trên các bề mặt hang, cột đỡ trần đều trang trí các phù điêu.
Điện thờ
Điện thờ (Worship Halls) thường có mặt bằng hình chữ nhật hẹp với kiểu trần vòm cao (Chaitya Hall), một đầu có bảo tháp. Không gian điện thờ gồm một gian giữa và hai lối đi hai bên, được ngăn cách bởi hàng cột đối xứng.
Việc đi vòng tròn bên phải quanh bảo tháp (Parikrama) là một trong những thực hành quan trọng của các tu sĩ. Ngoài điện thờ là hiên nhà với lối vào tương đối thấp và được chạm khắc công phu. Một số có cửa sổ lớn phía trên lối vào để đón ánh sáng. Điện thờ xây dựng giai đoạn đầu có hệ thống cột bên trong đơn giản, không trang trí. Trong giai đoạn sau, các cột có hình dạng đa dạng và được chạm khắc tinh xảo.
Tranh và điêu khắc
Quần thể chùa hang Ajanta không chỉ nổi danh về hang động mà còn về các bức họa trên tường đá và trần hang.
Tổng cộng tại đây có đến 500 bức (với 30 hang, trung bình mỗi hang có đến gần 20 bức tranh). Màu sắc tranh được làm từ các chất khoáng và các chất có nguồn gốc thực vật, còn giữ được sắc màu qua mấy ngàn năm.
Các bức tranh trong Quần thể hang động Ajanta chủ yếu minh họa cho những câu chuyện trong truyền thuyết Jataka (Jataka Tales, được viết bởi bậc thầy Ấn Độ Arya Shura), là một văn bản Phật giáo sớm nhất, có từ thế kỷ thứ 4 TCN, liên quan đến miêu tả 34 hóa thân của Phật trong quá khứ (trong đó có nhiều kiếp là các con vật, nhiều kiếp là những con người có xuất thân khiêm tốn). Vì thế, tuy đều gắn với đề tài Phật giáo nhưng các bức tranh không giới hạn trong cuộc sống tu viện mà bao trùm hiện thực rộng lớn hơn, từ cuộc sống cung đình, người bình dân (trang phục, trang sức, quan hệ tình dục, lễ hội, biểu diễn nghệ thuật và các hoạt động xã hội khác) đến thế giới chim thú, cỏ hoa, tiên nữ và thần linh trên trời. Nghệ thuật tại đây thể hiện triết lý: Tôn giáo và Xã hội, Tâm linh và Thế tục hợp nhất với sự giác ngộ hoàn hảo.
Các bức tranh trong Quần thể chùa hang Ajanta còn là một nguồn tài liệu lịch sử vô giá minh họa sự kết nối của Ấn Độ với nền văn minh bên ngoài thời bấy giờ thông qua các hình ảnh của các thương nhân, du khách trên tuyến đường thương mại nối trung tâm tiểu lục địa Ấn Độ tới thành phố cảng Mumbai.
Các bức tranh được cho là vẽ vào thời vương triều Satavahana (Satavahana Dynasty, tồn tại vào thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ 2 sau Công nguyên) và có kết nối với nghệ thuật Gandhara (Art of Gandhara). Gandhara là một quốc gia cổ đại, nằm ở phía Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ cổ đại, Afghanistan và Pakistan ngày nay. Nghệ thuật Gandhara liên quan đến nghệ thuật Phật giáo Greco (Greco-Buddhist art), là một sự đồng bộ văn hóa giữa văn hóa Hy lạp Cổ điển (Classical Greek) và Phật giáo, phát triển trong khoảng thời gian gần 1000 năm tại Trung Á, giữa các cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế (Alexander the Great) trong thế kỷ thứ 4 TCN và các cuộc chinh phạt Hồi giáo (Islamic Conquests) vào thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên.
Các bức tranh trong Quần thể hang động Ajanta được vẽ bởi các nghệ sĩ chuyên nghiệp, thể hiện sự sang trọng, gợi cảm và tôn vinh vẻ đẹp hình thể.
Nghệ thuật tại Quần thể chùa hang Ajanta như là một minh chứng về văn hóa, xã hội và tôn giáo của người dân bản địa Ấn Độ giữa thế kỷ thứ 2 TCN đến thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên.
Nhiều bức trong trong Quần thể chùa hang Ajanta sau khi phát hiện (năm 1819) đã xuống cấp nhanh chóng. Các bức tranh này được sao chép lại và được lưu giữ tại các bảo tàng châu Âu và Nhật Bản.
Quần thể chùa hang
Hang ký hiệu 1
Hang 1 (Cave 1) là một thiền viện (Vihara Hall) có quy mô lớn, được xây dựng ở đầu phía Đông của vách đá hình móng ngựa. Hang chưa được hoàn thành. Hang có kích thước 35,7m x 27,6m. Hàng hiên phía trước (Verandah) có 6 cột tròn. Giữa của thiền viện là một không gian trung tâm hay đại sảnh mặt bằng hình vuông (Hypostylar) với 20 cột trụ vuông bao quanh để đỡ trần hang. Xung quanh không gian trung tâm là các dãy phòng ở của tu sĩ. Trong cùng là một phòng thờ với tượng Phật bên trong. Hang 1 là một trong những hang có mặt tiền được chạm khắc công phu nhất. Các bức tranh bao phủ tường và trần hang, miêu tả các cảnh trong truyện Jataka về kiếp trước của Đức Phật.
Hang 1: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 1: Mặt bằng hang; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 1:Nội thất bên trong hang, tại không gian trung tâm hay đại sảnh; chính giữa là phòng thờ
Hang 1: Bức tranh Vua tuyên bố thoái vị để trở thành nhà tu hành, 1 trong 4 bức bích họa minh họa 10 câu chuyện vĩ đại về Đức Phật (Mahanipata Jataka), là một tập hợp từ truyền thuyết Jataka (Jataka Tales), liên quan đến miêu tả các hóa thân của Phật trong quá khứ.
Hang ký hiệu 2
Hang 2 (Cave 1) là một thiền viện (Vihara), nằm kề với Hang 1, được biết đến với những bức tranh được bảo tồn trên tường, trần hang và các cột trụ. Hang 2 có hình dạng giống như Hang 1, song ở trạng thái bảo quản tốt hơn. Hang có kích thước 35,7m x 21,6m, được xây dựng vào những năm 460. Các hình chạm khắc có từ năm 475 – 477 sau Công nguyên, được thực hiện nhờ sự tài trợ của một người phụ nữ có liên quan mật thiết với hoàng đế Harisena. Hang được chạm khắc và vẽ với các chủ đề khác nhau, bao gồm các họa tiết trang trí, con người, động vật, thực vật, á thần và thần, trong đó có nữ thần Hariti, ban đầu là một yêu quái sau đó được Đức Phật cải hóa thành nữ thần hộ mệnh sinh sản và bảo vệ em bé…
Hang 2: Mặt trước thiền viện với hàng hiên có cột trang trí; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 2: Nội thất không gian đại sảnh; chính giữa là phòng thờ
Hang 2: Bức tranh thể hiện hoàng tử Vidhura Jataka, một trong các hóa thân của Phật
Hang 2: Bức phù điêu miêu tả một vị vua bên cạnh gia đình và quỷ dạ xoa (Yaksha)
Hang ký hiệu 3
Hang 3 (Cave 3) là một thiền viện (Vihara) chưa hoàn chỉnh, được xây dựng vào năm 477, sau đó bị bỏ rơi.
Hang ký hiệu 4
Hang 4 (Cave 4) là một thiền viện (Vihara) lớn, được một tín đồ giàu có bảo trợ xây dựng vào năm 463 sau Công nguyên. Thiền viện nằm tại vị trí cao trên vách đá, do lớp đá phía dưới chất lượng thấp. Hang có mặt bằng kích thước 35m x 28m, gồm một hàng hiên phía trước, không gian trung tâm hay đại sảnh với hàng cột tiết diện bát giác bao quanh. 4 phía là các hốc tường hay phòng, trong đó một phòng là gian thờ với một bức tranh về Đức Phật đang thuyết giáo, bên cạnh là các vị bồ tát và nữ thần bay lượn phía trên. Không gian thờ và một loạt các phòng nhỏ chưa hoàn thành.
Hang 4: Quang cảnh bên ngoài thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 4: Nội thất không gian đại sảnh, bao xung quanh là các phòng ở của tu sĩ
Hang 4: Tượng Đức Phật với Bồ Tát hai bên tại phòng thờ
Hang ký hiệu 5
Hang 5 (Cave 5) là một thiền viện (Vihara), có kích thước 10,32m x 16,8m, không có các yếu tố điêu khắc trừ khung cửa. Trên khung cửa chạm khắc công phu với các nhân vật nữ thần, sinh vật thần thoại Makara (phần thân trước là động vật trên cạn, phần thân sau là động vật dưới nước). Công trình được khởi đầu vào năm 465 sau Công nguyên, được xây dựng tiếp vào năm 475, sau đó bị bỏ hoang do nhà tài trợ tập trung vào việc xây dựng Hang 6 ở lân cận.
Hang ký hiệu 6
Hang 6 (Cave 6) là thiền viện (Vihara) 2 tầng, có kích thước 16,85m x 18,07 m, được xây dựng từ năm 460 đến 470 sau Công nguyên. Tầng dưới của Hang 6 đã hoàn thành, tầng trên chưa xong.
Tầng dưới không có hiên, gồm một không gian đại sảnh với hệ thống 16 cột tròn đỡ tầng trên; 4 phía là các phòng ở cho tu sĩ. Tầng trên gồm một hàng hiên, không gian đại sảnh với hàng 12 cột vuông bao quanh; xung quanh cũng là các phòng cho tu sĩ. Cả hai tầng đều có phòng thờ, bên trong có tượng Phật trong tư thế truyền đạo. Các bức tường và khung cửa của cả 2 tầng đều được chạm khắc thể hiện chủ đề như sinh vật thần thoại Makara, nữ thần (Apsara), voi…
Hang 6: Nhìn từ bên ngoài thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 6: Mặt bằng thiền viện 2 tầng
Hang 6: Không gian đại sảnh với các phòng ở và phòng thờ bao xung quanh tại tầng 2
Hang 6: Tượng Phật, hai bên có thiên thần (Apsara) và phía dưới là con thú bên trong phòng thờ
Hang ký hiệu 7
Hang 7 (Cave 7) là một thiền viện (Vihara), có kích thước 15,55m x 31,25m, gồm một hàng hiên với 4 cột có tiết diện dưới hình bát giác, mũ cột tròn. Không gian đại sảnh hình chữ nhật với 4 hàng cột bát giác lớn và 4 cột bát giác nhỏ. Xung quanh đại sảnh là các phòng ở nhỏ cho các tu sĩ. Các tác phẩm nghệ thuật trong hang được hình thành vào năm 469 sau Công nguyên, được cho đã trải qua các sửa đổi bổ sung sau đó một vài năm, vào khoảng năm 476-478 sau Công nguyên.
Hang 7: Nhìn từ bên ngoài thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 7: Sơ đồ mặt bằng thiền viện
Hang 7: Trang trí nội thất mặt trước phòng thờ
Hang 7: Hành lang hai bên dẫn vào không gian đại sảnh của thiền viện
Hang ký hiệu 8
Hang 8 (Cave 8) là một thiền viện (Vihara), có kích thước 15,24m x 24,46m, chưa hoàn thành. Hang được xây dựng sớm nhất vào thời kỳ thứ hai, nằm tại vị thấp ngang với bờ đất dọc sông. Hang hiện chỉ còn tàn tích.
Hang 8: Hình ảnh bên ngoài thiền viện, ngay dưới lối đi giữa Hang 7 và 9; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 8: Sơ đồ mặt bằng thiền viện
Hang ký hiệu 9 và 10
Hang 9 và 10 (Cave 9, 10) là hai điện thờ (Chaitya), được hình thành vào thế kỷ 2 TCN– thế kỷ 1 sau Công nguyên.
Hang 9 có kích thước 18,24m x 8,04m, nhỏ hơn Hang 10 với kích thước 30,5m x 12,2m, song phức tạp hơn. Hang 9 có mặt bằng hình chữ nhật. Không có hàng hiên. Không gian chính hay chính điện có một hàng 23 cột bát giác bao quanh, trần hang dạng vòm (Apsidal). Cuối điện thờ là một bảo tháp bán cầu, được đặt trên một trụ cao. Các bức tường, vòm trần được trang trí bằng các bức tranh đầy màu sắc miêu tả Đức Phật với Quán Thế Âm Bồ tát (Padmapani), Đại thế Chí Bồ tát (Vajrapani) và các đệ tử khác bao quanh. Trên các bức tường cũng thể hiện các câu truyện trong truyền thuyết Jatakamala.
Hang 9: Mặt trước điện thờ; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 9: Sơ đồ mặt bằng và mặt cắt điện thờ;
Hang 9: Nội thất điện thờ với bảo tháp bán cầu
Hang 10 được xây dựng vào khoảng thế kỷ 1 TCN, cùng thời với Hang thiền viện số 12 gần đó.
Hang có một không gian đại sảnh với 39 cột trụ hình bát giác bao quanh, mái vòm (Apsidal), cuối điện thờ là một bảo tháp. Trong hang có một số dòng chữ cho thấy điện thờ được xây dựng nhờ tài trợ của cộng đồng chứ không phải từ nhà vua hay cá nhân quan chức. Hang 10 cũng chính là hang mà một người Anh đã vô tình phát hiện vào năm 1819, mở đầu cho việc nghiên cứu Quần thể chùa hang Ajanta. Trong Hang 10 cũng có nhiều bức tranh miêu tả về truyền thuyết Jataka.
Hang 10 : Quang cảnh bên ngoài điện thờ; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 10 : Nội thất điện thờ với bảo tháp
Hang 10: Trang trí các nhân vật Phật giáo trên trụ và trần điện thờ
Hang ký hiệu 11
Hang 11 (Cave 11) là một thiền viện (Vihara), có kích thước 19,87m x 17,35m, được hình thành từ thế kỷ 5 sau Công nguyên. Mái hiên của hang có những cột trụ hình bát giác và chân đế vuông. Trần của mái hiên được trang trí hoa và phù điêu, nay đã bị xói mòn. Bên trong thiền viện có các bức tranh miêu tả Đức Phật với các tu sĩ đang cầu nguyện và các tranh trang trí khác. Xung quanh không gian đại sảnh là các phòng ở của các tu sĩ và một phòng thờ. Hang 11 được cho là công trình cuối cùng được xây dựng tại Quần thể chùa hang Ajanta.
Hang 11: Quang cảnh bên ngoài thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 11: Tượng Đức Phật với một tín đồ bên trong phòng thờ
Hang ký hiệu 12
Hang 12 (Cave 12) là một thiền viện (Vihara), có kích thước 14,9m x 17,82m, được xây dựng trong khoảng từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 1 TCN. Bức tường phía trước hang hiện đã bị sụp đổ hoàn toàn. Ba mặt của không gian đại sảnh có 12 phòng ở của tu sĩ, mỗi phòng có hai giường đá, không có phòng thờ bên trong.
Hang 12: Sơ đồ mặt bằng thiền viện; không có cột, không có gian thờ bên trong; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 12: Nội thất bên trong thiền viện với các phòng ở
Hang ký hiệu 13, 14, 15, 15A
Hang 13 (Cave 13) là một thiền viện (Vihara) nhỏ được xây dựng từ thời kỳ đầu, bao gồm một không gian đại sảnh với 7 phòng ở, mỗi phòng có hai giường bằng đá đều được chạm khắc.
Hang 14 (Cave 14) là một thiền viện (Vihara), có kích thước (13,43m x 19,28m), xây dựng dang dở. Hang nằm phía trên Hang 13. Hiên của hang có 4 trụ cột hình vuông. Khung cửa ra vào trang trí các vũ nữ (Salabhanjika).
Hang 15 (Cave 15) là một thiền viện (Vihara), có kích thước 19,62m x 15,98m, đã được xây dựng hoàn chỉnh. Hang gồm một hiên hẹp, đại sảnh và các phòng bao quanh. Các bức phù điêu mô tả Đức Phật ngồi thiền trong tư thế sư tử (Simhasana). Khung cửa vào hang có chạm khắc hình chim bồ câu ăn ngô.
Hang 15A (Cave 15A) là một thiền viện (Vihara). Đây là hang nhỏ nhất, có một không gian đại sảnh và mỗi bên chỉ có một phòng nhỏ.
Hang 13: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 14: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 15: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 15A: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang ký hiệu 16
Hang 16 (Cave 16) là một thiền viện (Vihara), nằm tại trung tâm của Quần thể, được xây dựng từ tài trợ của một vị quan. Hang có kích thước 19,5m x 22,25m, cao 4,6m, có ảnh hưởng đến kiến trúc của toàn bộ khu vực. Lên hang là một cầu thang với 2 con voi chầu. Hiên của thiền viện sâu 3m với hàng 6 cột bát giác. Đại sảnh hình vuông có 16 cột bát giác và 4 cột vuông. Bao quanh là các phòng ở và một phòng thờ có kích thước lớn như một điện thờ. Trong Hang 16 có rất nhiều tranh miêu tả truyền thuyết Jataka.
Hang 16: Mặt trước thiền viện có bậc thang với voi đá và hàng hiên lớn; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 16: Mặt bằng thiền viện
Hang 16: Nội thất không gian trung tâm với các phòng ở và phòng thờ xung quanh
Hang ký hiệu 17
Hang 17 (Cave 17) là một thiền viện (Vihara), có kích thước 34,5 mx 25,63m. Hang là một trong những thiền viện lớn nhất và phức tạp nhất, cùng với một số bức tranh được bảo tồn tốt nhất và nổi tiếng trong Quần thể hang. Tại đây có tới 30 bức tranh tường lớn thể hiện những đức tính của con người thông qua truyền thuyết Jataka. Các bức tranh được thực hiện bởi những người thợ thủ công chuyên nghiệp. Hang 17 có một hàng hiên nằm sâu trong hang, cửa sổ và cửa ra vào lớn để có nhiều ánh sáng lọt vào trong. Không gian đại sảnh của thiền viện rộng 380,53m2 với 20 trụ cột hình tròn.
Hang 17: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 17: Tại lối vào hang, trần nhà được bao phủ bởi các hoa văn trang trí, bên dưới là một hàng tượng Phật
Hang 17: Bên trong thiện viện với phòng thờ có tượng Phật ngồi
Hang ký hiệu 18
Hang 18 (Cave 18) là một không gian hình chữ nhật nhỏ, kích thước 3,38m x 11,66m, bên trong có hai cột trụ hình bát giác. Chức năng không rõ là thiền viện hay điện thờ.
Hang ký hiệu 19
Hang 19 (Cave 19) là một điện thờ (Chaitya), có kích thước 16,05m x 7,09 m, được xây dựng vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên. Hang 19 được biết đến là một trong những hang có các tác phẩm điêu khắc đặc sắc miêu tả sự tích về Đức Phật. Mặt tiền hang được trang trí công phu, tạo thành một sân trong, hai bên có hai cụm phòng. Hàng hiên của điện thờ có 2 cột tròn với hoa văn trang trí. Mái của không gian thờ dạng vòm (Apsidal). Không gian đại sảnh có 17 cột tròn bố trí dọc theo lối đi hai bên. Các cột trụ đều được trang trí hoa.
Hang 19: Mặt trước điện thờ; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 19: Mặt bằng điện thờ
Hang 19: Nội thất điện thờ với mái vòm, bảo tháp và các hàng cột bao quanh.
Hang 19: Trang trí trên đầu cột bên trong điện thờ
Hang ký hiệu 20
Hang 20 (Cave 20) là một thiền viện (Vihara), có kích thước 16,2m x 17,91m, được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên. Hang có một hàng hiên với một hàng 4 cột tròn. Hai bên bên hiên chạm khắc hai vị Phật. Trần hiên vẫn còn lưu lại vết tích của các bức tranh. Xung quanh không gian đại sảnh là các phòng cho vị tu sĩ và một phòng thờ. Trong hang có nhiều bức chạm khắc tương tự như Hang 19.
Hang 20: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 20: Nội thất hang với phòng thờ
Hang ký hiệu 21, 22, 23, 24 và 25
Hang 21, 22, 23 và 24 đều là thiền viện (Vihara), đại diện cho giai đoạn xây dựng cuối cùng của Quần thể hang Ajanta.
Hang 21 (Cave 21) có kích thước mặt bằng 28,56m x 28,03m, gồm hàng hiên với 4 cột trụ, không gian đại sảnh với 12 cột trụ, 12 phòng ngủ của các tu sĩ . Các chạm khắc trên trần gồm các con vật và hoa. Các trụ cột có phù điêu Vũ nữ (Apsara), Thần rắn (Nagaraja)…
Hang 22 (Cave 22) là một thiền viện nhỏ, có kích thước 12,72m x 11,58m với một hiên hẹp và 4 phòng ở chưa hoàn thành.
Hang 23 (Cave 23) là một thiền viện chưa hoàn thành, có kích thước 28,32m x 22,52m. Hang có cấu trúc tương tự như Hang 22, khác chủ yếu trong cách trang trí cột trụ…
Hang 24 (Cave 23) tương tự như Hang 21, chưa xây dựng xong, có kích thước 29,3m x 29,3m, là một trong những hang có kích thước lớn nhất trong Quần thể (cùng với Hang 4, 17). Hang được xây dựng vào năm 475 sau Công nguyên, được cho là rất quan trọng đối với việc nghiên cứu khảo cổ về địa điểm Quần thể hang chùa hang Ajanta..
Hang 25 (Cave 25) có kích thước 11,37m x 12,24m, tương tự như các thiền viện khác, nhưng không có phòng thờ.
Hang 21: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 21: Nội thất đại sảnh với phòng ở và phòng thờ bao quanh
Hang 22: Nội thất đại sảnh với phòng thờ bên trong
Hang 23: Nội thất đại sảnh với phòng ở và phòng thờ bao quanh
Hang 24: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 24: Nội thất thiền viện còn dở dang
Hang ký hiệu 26
Hang 26 (Cave 26) là một điện thờ (Chaitya), có kích thước 25,34m x 11,52m, được xây dựng vào thế kỷ 5 sau Công nguyên. Trong hang có nhiều điêu khắc với niềm tin rằng điêu khắc đá sẽ bền hơn nhiều so với các bức tranh trên tường. Các tác phẩm điêu khắc trong hang rất công phu và phức tạp.
Hang có một hàng hiên với 4 cột hình vuông, nay chỉ còn tàn tích; không gian trung tâm với mái vòm, dãy 26 cột tròn và 2 cột vuông bao quanh; cuối điện thờ là một bảo tháp đá. Bảo tháp có hình Đức Phật ở mặt trước. Các bức tường, cột trụ, mái vòm được chạm khắc với nhiều chủ đề Phật giáo.
Hang 26: Mặt trước điện thờ; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 26: Sơ đồ mặt bằng điện thờ
Hang 26: Nội thất điện thờ với dãy các cột và bảo tháp
Hang 26 : Tượng Phật nằm trong điện thờ
Hang ký hiệu 27, 28 và 29
Hang 27 (Cave 27) là một thiền viện (Vihara), có thể là một phần đính kèm của Hang 26. Công trình cao 2 tầng. Tầng trên bị sụp đổ một phần. Cấu trúc của hang tương tự như các hang thiền viện khác.
Hang 28 (Cave 28) là một thiền viện (Vihara), xây dựng còn dang dở.
Hang 29 (Cave 29) là một thiền viện (Vihara), cũng là hang xây dựng dang dở như Hang 28.
Hang 27: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 28: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang 29: Mặt trước thiền viện; Quần thể chùa hang Ajanta
Hang ký hiệu 30
Hang 30 (Cave 30) được phát hiện vào năm 1956, trong quá trình dọn dẹp một trận lở đất trên đường dẫn đến Hang 16. Hang là một thiền viện (Vihara) được xây dựng vào thế kỷ 2 đến thể kỷ 1 TCN, có thể là hang lâu đời nhất của Quần thể chùa hang Ajanta. Hang có kích thước 3,66 m x 3,66 m, một hiên với tầm nhìn rộng ra khe núi và bìa rừng, 3 phòng, mỗi phòng có 2 giường đá. Bên trong hang có các chạm khắc hoa sen, vòng hoa…
Di sản chùa hang Ajanta như là một bảo tàng lưu giữ các hình ảnh minh họa cho truyền thuyết Jatakamala; đại diện cho thời kỳ hưng thịnh Phật giáo tại Ấn Độ. Chùa hang Ajanta (cùng với chùa hang Ellora) là nơi được người Ấn Độ tôn kính và là điểm du lịch nổi tiếng nhất ở bang Maharashtra, Ấn Độ.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/242
https://en.wikipedia.org/wiki/Ajanta_Caves
https://en.wikipedia.org/wiki/Satavahana_dynasty
https://en.wikipedia.org/wiki/Vakataka_dynasty
https://en.wikipedia.org/wiki/Buddhist_art
https://en.wikipedia.org/wiki/Vihara
https://en.wikipedia.org/wiki/Chaitya
https://en.wikipedia.org/wiki/Greco-Buddhist_art
https://en.wikipedia.org/wiki/Jataka_tales
https://www.rigpawiki.org/index.php?title=Jatakamala
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|