Thông tin chung:
Công trình: Vườn cây cảnh cổ điển Tô Châu (Classical Gardens of Suzhou)
Địa điểm: Thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc (N31 19 0 E120 27 0)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 11,922 ha; Vùng bảo vệ 26,839ha
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (năm 1997; bổ sung năm 2000; hạng mục i, ii, iii, iv, v)
Trung Quốc (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) nằm tại Đông Á, là quốc gia đông dân nhất thế giới với khoảng 1,403 tỷ người (năm 2016). Trung Quốc có diện tích 9596961km2, là quốc gia có tổng diện tích lớn hàng đầu thế giới; Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hán. Trung Quốc phân thành 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc và 2 khu hành chính đặc biệt là Hồng Kông và Ma Cao.
Lịch sử Trung Quốc bắt nguồn từ một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới, phát triển tại lưu vực sông Hoàng Hà, bình nguyên Hoa Bắc. Trải qua hơn 5.000 năm, Trung Hoa đã trở thành nền văn minh rực rỡ nhất thế giới trong thời Cổ đại và Trung cổ, được đặc trưng bởi hệ thống triết học thâm sâu (nổi bật nhất là Nho giáo, Đạo giáo và thuyết Âm dương ngũ hành); các thành tựu khoa học kỹ thuật (phát minh ra giấy, la bàn, thuốc súng, địa chấn kế, kỹ thuật in ấn...); hoạt động giao thương xuyên châu Á với nhiều quốc gia (Con đường tơ lụa); những đô thị có quy mô dân số và trình độ kiến trúc đứng đầu thế giới vào thời Trung cổ.
Hệ thống chính trị của Trung Quốc dựa trên các chế độ quân chủ kế tập, được gọi là các triều đại, khởi đầu là triều đại nhà Hạ.
Từ năm 221 trước Công nguyên (TCN), nhà Tần chinh phục các quốc gia khác để hình thành đế quốc Trung Hoa thống nhất;
Triều đại nhà Hán cai trị Trung Quốc từ năm 206 TCN đến năm 220 sau Công nguyên;
Triều đại nhà Đường cai trị từ năm 618–907;
Triều đại nhà Tống cai trị từ năm 960–1279;
Vào thế kỷ thứ 13, Trung Quốc bị Đế quốc Mông Cổ chinh phục. Năm 1271, Đại hãn người Mông Cổ thiết lập triều đại nhà Nguyên;
Triều đại nhà Minh cai trị Trung Quốc từ năm 1368–1644;
Triều đại nhà Thanh do người Mãn Châu thành lập cai trị Trung Quốc từ năm 1636–1912;
Trung Hoa Dân Quốc lật đổ nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc vào năm 1912 và cầm quyền tại Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949. Sau khi Đế quốc Nhật Bản bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Quốc chia thành hai: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) có thủ đô là Bắc Kinh và Trung Hoa Dân quốc tại đảo Đài Loan với thủ đô là Đài Bắc.

Bản đồ Trung Quốc và vị trí của tỉnh Giang Tô
Tỉnh Giang Tô phía Đông giáp biển Hoàng Hải (Yellow Sea) và một phần biển Hoa Đông (East China Sea); phía Bắc giáp tỉnh Sơn Đông, phía Tây giáp tỉnh An Huy; phía Nam giáp tỉnh Triết Giang và thành phố Thượng Hải. Giang Tô có diện tích khoảng 102.600 km2, dân số khoảng 78,66 triệu người (2010), thủ phủ là thành phố Nam Kinh (Nam Kinh là một trong 4 kinh đô lớn trong lịch sử Trung Quốc cùng Tây An hay Trường An, Lạc Dương và Bắc Kinh).

Sơ đồ tỉnh Giang Tô và vị trị thành phố Tô Châu
Thành phố Tô Châu là một trong 13 đơn vị hành chính cấp khu (trên cấp huyện) của tỉnh Giang Tô. Thành phố nằm ở hạ lưu sông Dương Tử hay sông Trường Giang, trên bờ Thái Hồ, có diện tích khoảng 8488km2, dân số 10,6 triệu người (năm 2015).
Sông Trường Giang dài khoảng 6385km, bắt nguồn từ phía Tây Trung Quốc (tỉnh Thanh Hải) chảy về phía Đông, đổ ra biển Hoa Đông. Sông được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa Bắc và Hoa Nam Trung Quốc.
Thái Hồ (nghĩa là hồ lớn) nằm ở đồng bắng châu thổ sông Dương Tử, giữa ranh giới 2 tỉnh Giang Tô phía Bắc và tỉnh Chiết Giang tại phía Nam. Hồ rộng 2.250 km2, là một trong bốn hồ nước ngọt có diện tích bề mặt lớn nhất ở Trung Quốc, cùng các hồ: Bà Dương, tỉnh Giang Tây, diện tích 3.283 km2; Động Đình, tỉnh Hồ Nam, diện tích 2.820 km2; Hô Luân, Khu tự trị Nội Mông, diện tích 2.339 km2. Thái Hồ được nối với kênh Đại Vận Hà nổi tiếng, là con kênh đào cổ, được hình thành vào thế kỷ 5 TCN, nối liền các thành phố và tỉnh: Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô và Triết Giang.
Tô Châu (xưa kia có nhiều tên gọi như: Câu Ngô, Ngô, Cối Kê, Ngô Châu, Cô Tô, Trường Châu…) là một trung tâm quan trọng sản xuất tơ lụa Trung Hoa kể từ thời nhà Tống (năm 960–1279) đến tận ngày nay.
Tô Châu là một trong những đô thị cổ nhất trong lưu vực sông Dương Tử. Khoảng 2500 năm TCN, các bộ lạc bản địa Câu Ngô đã sinh sống tại đây.
Vào năm 514 TCN, thời Xuân Thu (năm 771- 476 TCN), Tô Châu là kinh đô của nước Ngô (một nước chư hầu của nhà Chu).
Năm 473 TCN, nước Ngô bị nước Việt của Việt vương Câu Tiễn đánh bại. Tô Châu trở thành kinh đô của nước Việt. Năm 306 TCN, nước Việt lại bị nước Sở sáp nhập.
Vào thời kỳ nhà Tần (năm 221 TCN - 206 TCN), Tô Châu được gọi là Ngô Huyện.
Vào năm 589, thời kỳ nhà Tùy (năm 581- 618), nơi đây được đổi lại thành Tô Châu.
Khi kênh đào Đại Vận Hà được khai thông vào thế kỷ 5 TCN, Tô Châu nằm ở vị trí có tầm chiến lược trên tuyến đường vận chuyển hàng hóa chính. Trong suốt lịch sử Trung Hoa, Tô Châu luôn là một trong những trung tâm thương mại, tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp ở khu vực ven biển Đông Nam Trung Quốc.
Năm 1130, nhà Kim (năm 1115- 1234) tiến xuống phía Nam đã phá hủy và thảm sát thành phố.
Năm 1275 quân đội nhà Nguyên (năm 1271- 1368) đã đến đây và đổi tên Tô Châu thành Bình Giang Lộ. Cuối thời nhà Nguyên, thủ lĩnh nông dân Trương Sĩ Thành (năm 1321 – 1367) nổi dậy, tự xưng là Ngô Vương, đổi Bình Giang Lộ thành Long Bình Phủ, lấy Tô Châu làm kinh đô.
Năm 1367, nhà Minh (năm 1368–1644) công phá thánh Tô Châu, thu phục Ngô Vương và sau đó đổi Long Bình Phủ thành Tô Châu Phủ, trực thuộc Nam Kinh.
Vào thời nhà Thanh (năm 1636–1912), Tô Châu là nơi đặt trụ sở của tuần phủ (chức quan đầu tỉnh, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của hoàng đế nhà Thanh hoặc của tổng đốc tại vùng có nhiều tỉnh) và bố chánh (phó của tuần phủ) sứ Giang Tô.
Vào thời Minh – Thanh, thành phố đã có những giai đoạn thịnh vượng. Nhiều khu vườn tư nhân đã được các tầng lớp quan lại và người giàu có xây dựng.
Thành phố cũng chịu thảm họa vào năm 1860 khi binh lính của Thái Bình Thiên Quốc (năm 1851- 1864, hình thành từ cuộc nổi dậy của nông dân, phạm vi trải rộng từ sông Dương Tử xuống phía Nam Trung Quốc, liên quan đến 16 tỉnh, thủ đô là Nam Kinh) vào chiếm giữ thành phố.
Vào năm 1937, người Nhật xâm chiếm thành phố. Nhiều khu vườn bị phá hủy.
Từ những năm 1950, một số khu vườn được khôi phục lại.
Người Trung Quốc có câu: "Giang Nam viên lâm giáp thiên hạ, Tô Châu viên lâm quán Giang Nam", có nghĩa là: Giang Nam có những khu vườn đẹp nhất thiên hạ, còn Tô Châu có những khu vườn đẹp nhất Giang Nam (vùng đất phía Nam hạ lưu sông Dương Tử).
Khu vườn cây cảnh cổ điển Tô Châu (Tô Châu Viên Lâm), tỉnh Giang Tô, Trung Quốc có niên đại từ thế kỷ thứ 6 TCN khi thành phố trở thành kinh đô của vương quốc Ngô.
Lấy cảm hứng từ những khu vườn săn bắn hoàng gia do vua Ngô xây dựng, các khu vườn cây cảnh tư nhân bắt đầu được hình thành vào khoảng thế ký thứ 4 và đạt đến đỉnh điểm vào thế kỷ 18 với khoảng 200 vườn cây.
Ngày nay, hơn 50 vườn loại này vẫn còn tồn tại, 9 trong số đó được coi là mẫu mực của khu vườn non nước cổ Trung Quốc: Chuyết Chính Viên; Lưu Viên; Võng Sư Viên; Hoàn Tú Sơn Trang; Thương Lang Đình; Sư Tử Lâm Viên; Nghệ Phố; Ngẫu Viên; Thoái Tư Viên.
Những khu vườn cây cảnh cổ điển Tô Châu cho thấy sự hiểu biết sâu sắc của các tri thức Trung Quốc thời Cổ đại về sự hài hòa các quan niệm thẩm mỹ trong môi trường văn hóa đô thị.
Các bậc thầy thiết kế vườn trong mỗi triều đại đều có các kỹ thuật khác nhau để mô phỏng khéo léo thiên nhiên.
Giới hạn trong không gian của một dinh thự, khu vườn cây cảnh cổ điển Tô Châu như là một mô hình thu nhỏ của thế giới tự nhiên, kết hợp các yếu tố cơ bản như nước, đá, thực vật và nhiều công trình phục vụ cho hoạt động trao đổi văn học, thơ…
Những khu vườn cảnh là minh chứng cho nghề thủ công cao cấp của các bậc thầy về thiết kế, sử dụng vật liệu và kỹ thuật truyền thống trong việc xây dựng, sửa chữa và bảo dưỡng vườn truyền thống của địa phương, được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác,
Gần như mỗi triều của Trung Quốc đều có một công trình tiêu biểu trong khu vườn này: cho nhà Tống là Thương Lang Đình; cho nhà Nguyên là Sư Tử Lâm Viên; cho nhà Minh là Chuyết Chính Viên; cho nhà Thanh là Lưu Viên.
Những thành tựu nghệ thuật cảnh quan độc đáo tại khu vực đồng bằng sông Dương Tử là hiện thân của văn hóa truyền thống Trung Quốc, đã truyền cảm hứng và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nghệ thuật vườn cảnh phương Đông và phương Tây.
Vườn cây cảnh cổ điển Tô Châu, thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1997; bổ sung năm 2000) với các tiêu chí:
Tiêu chí (i) : Những khu vườn cổ điển của Tô Châu, hình thành bởi nghề thủ công và nghệ thuật làm vườn truyền thống Trung Quốc, như là những tác phẩm tranh nghệ thuật, thể hiện sự tinh tế của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Hiện thân của sự hoàn hảo nghệ thuật này đã khiến cho các khu vườn cổ điển Tô Châu nổi danh như những tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người trong lĩnh vực làm vườn thời Trung Quốc Cổ đại.
Tiêu chí (ii) : Trong khoảng thời gian hơn 2.000 năm, một hình thức độc đáo nhưng có hệ thống về cảnh quan cụ thể cho các loại vườn đã được hình thành. Quy hoạch, thiết kế, kỹ thuật xây dựng cũng như hiệu ứng nghệ thuật của nó đã có tác động đáng kể đến sự phát triển kiến trúc cảnh quan ở Trung Quốc cũng như trên thế giới.
Tiêu chí (iii) : Các khu vườn cổ điển của Tô Châu bắt nguồn trước hết từ mong muốn của trí thức Trung Quốc Cổ đại hướng tới sự hài hòa với thiên nhiên trong quá trình tu luyện tính thần của họ. Các khu vườn cổ điển của Tô Châu là những bằng chứng đặc biệt về trí tuệ và truyền thống văn hóa của giới trí thức Trung Quốc Cổ đại.
Tiêu chí (iv) : Các khu vườn cổ điển của Tô Châu là ví dụ nổi bật của văn hóa thể hiện trong thiết kế kiến trúc cảnh quan sân vườn vùng đồng bằng sông Dương Tử từ thế kỷ 11 đến 19. Triết lý, văn học, nghệ thuật và nghề thủ công thể hiện trong các khu vườn phản ánh những thành tựu to lớn về phát triển xã hội, văn hóa, khoa học và công nghệ của giai đoạn này.
Tiêu chí (v) : Những khu vườn cổ điển của Tô Châu là những ví dụ tiêu biểu về mối quan hệ hài hòa đạt được giữa các dinh thự truyền thống của Trung Quốc và thiên nhiên. Những khu vườn tại đây giới thiệu phong cách sống, nghi thức và phong tục tập quán của cư dân vùng đồng bằng sông Dương Tử trong suốt thế kỷ 11 đến 19.

Sơ đồ vị trí 9 khu vườn Dí sản tại thành phố Tô Châu
Vị trí, tọa độ, diện tích 9 khu vườn trong khu vực Di sản được tổng hợp trong bảng sau:
Mã
|
Tên vị trí
|
Tọa độ
|
Diện tích Di sản
|
Diện tích vùng đệm
|
813-001
|
Chuyết Chính Viên
|
N31 19 36,20
E120 37 32,30
|
5,195 ha
|
- -
|
813-002
|
Lưu Viên
|
N31 19 3.10
E120 35 17.20
|
2,331 ha
|
- -
|
813-003
|
Võng Sư Viên
|
N31 18 1,20
E120 37 47,60
|
0,54 ha
|
- -
|
813-004
|
Hoàn Tú Sơn Trang
|
N31 18 47,40
E120 36 32,40
|
0,218 ha
|
- -
|
813-005
|
Thương Lang Đình
|
N31 17 49,30
E120 37 16,10
|
1,174 ha
|
16,362 ha
|
813-006
|
Sư Tử Lâm Viên
|
N31 19 23,60
E120 37 30,20
|
0,874 ha
|
4,79 ha
|
813-007
|
Nghệ Phố
|
N31 18 54,90
E120 36 17,00
|
0,38 ha
|
1,117 ha
|
813-008
|
Ngẫu Viên
|
N31 19 5.90
E120 38 4.30
|
0,789 ha
|
3,039 ha
|
813-009
|
Thoái Tư Viên
|
N31 935,50
E120 42 55,40
|
0,421 ha
|
1,531 ha
|
Chuyết Chính Viên
Chuyết Chính Viên (Humble Administrator’s Garden) có diện tích khoảng 5,195ha, là một trong những ngôi vườn lớn nhất tại Tô Châu, nằm tại phía Nam thành phố Tô Châu.
Chuyết Chính viên là một trong bốn khu vườn nổi tiếng nhất của Trung Quốc, ba còn lại là Cung điện mùa hè (Summer Palace) tại Bắc Kinh; Nhiệt Hà Hành Cung (Imperial Summer Villa) tại Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc và Lưu viên (Lingering Garden), tại Tô Châu, Giang Tô.
Tào Tuyết Cần (năm 1724 - 1763), tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng Hồng Lâu Mộng (là một trong 4 tác phẩm văn học cổ điển danh giá nhất Trung Quốc: Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung; Thủy Hử của Thi Nại Am; Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân) được cho là đã trải qua thời niên thiếu tại khu vườn. Vì vậy, nhiều học giả cho rằng các khu vườn trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mậu được lấy cảm hứng bởi khung cảnh của Chuyết Chính viên.
Khu vườn được hình thành trên nền của một dinh thự và một ngôi đền Đạo giáo, được xây dựng vào thế kỷ 12, thời Nam Tống. Tiếp sau, đây trở thành tư gia của một viên quan về hưu.
Vườn được lên ý tưởng xây dựng lần đầu vào năm 1509, thời nhà Minh, được hoàn thành sau 16 năm. Khu vườn được thiết kế khởi nguồn từ triết lý thơ ca, tranh truyền thống Trung Quốc và được đặt tên với ý nghĩa là Vườn của người quản gia khiêm tốn.
Đặc điểm của Chuyết Chính viên là mặt nước tạo thành nền cho cảnh quan thiên nhiên gồm các khóm rừng tre, sen, gò đồi và đá. Tổ điểm trên đó là các công trình kiến trúc với mái cong duyên dáng như lầu nghỉ chân, hội quán …nằm men theo các lối đi quanh co trong khu vườn và các cây cầu xinh xắn.
Tất cả tạo thành một bức tranh phong cảnh thơ mộng của Giang Nam cổ điển.
Chuyết Chính viên được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu của phong cách nghệ thuật vườn cảnh thời nhà Minh.
Vào cuối triều đại nhà Thanh (năm 1636–1912), ngôi vườn bị chia cắt thành 3 khu: Khu vườn trung tâm (Central Part); Khu vườn phía Đông (Eastern Part); Khu vườn phía Tây (Western Part).
Các khu vườn được chuyển đổi sang nhiều người chủ và được xây dựng bổ sung thêm.
Vào năm 1949, cả ba phần của khu vườn đã được chính phủ Trung Quốc thu lại, tái nhập và sau đó được mở cửa cho công chúng. Vườn được khôi phục lại hoàn toàn vào năm 1952.
Khu vườn có rất nhiều công trình và cầu nối trong một mê cung các hồ và đảo; có đến 48 tòa nhà khác nhau, 40 tấm bia, 21 cây cổ thụ quý và hơn 700 kiểu hòn non bộ (bonsai) lớn nhỏ.
Chuyết Chính viên, xét về mặt tổng thể, là sự hài hòa của nhiều bộ phận mang sắc thái riêng biệt cấu thành; để lại hiệu quả nghệ thuật nhìn nhỏ mà thấy lớn.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Di sản Chuyết Chính Viên, Tô Châu

Sơ đồ mặt bằng Di sản Chuyết Chính Viên, Tô Châu
Khu vườn trung tâm được đánh giá là phần đẹp nhất của Chuyết Chính viên với một phần ba diện tích mặt nước bao phủ. Vườn bao gồm nhiều cảnh được sắp xếp xung quanh ao có tên Phong Ba (Surging Wave). Trong ao có ba hòn đảo, tái tạo lại phong cảnh của các hòn đảo cổ tích trên biển Đông. Kết nối các đảo là các cây cầu nhỏ. Tại đây có lầu Tỏa Hương (Yuanxiang Hall/ Hall of Distant Fragrance), liên quan mùi thơm của hoa sen từ hồ. Đây cũng là kiến trúc chính của Khu vườn trung tâm cũng như toàn bộ Chuyết Chính viên, được xây dựng lại vào thời hoàng đế Càn Long nhà Thanh (năm 1735-1795) trên cơ sở công trình cũ được xây dựng vào thời nhà Minh. Tòa lầu có cửa nhìn rộng ra bốn hướng. Gần đó là cây cầu mang tên Tiểu Phi Hồng (Little Flying Rainbow Bridge), là một chế tác kinh điển của nghệ thuật vườn cảnh, có vòm che phía trên, in bóng xuống mặt nước như một cầu vồng.

Hình ảnh Khu vườn trung tâm vào mùa Đông, tại Chuyết Chính Viên, Tô Châu

Hình ảnh Khu vườn trung tâm vào mùa Hè,tại Chuyết Chính Viên, Tô Châu

Hình ảnh cầu Tiểu Phi Hồng trong Khu vườn trung tâm, tại Chuyết Chính Viên, Tô Châu

Hình ảnh Lầu Tỏa Hương trong Khu vườn trung tâm, tại Chuyết Chính Viên, Tô Châu

Hình ảnh nội thất Lầu Tỏa Hương trong Khu vườn trung tâm, tại Chuyết Chính Viên, Tô Châu
Khu vườn phía Đông là khu vực có diện tích lớn nhất trong 3 khu với bố cục linh hoạt hơn so với 2 khu vực còn lại, nổi bật với khung cảnh hoang sơ và bình dị, bao gồm các gò đất, thảm cỏ, những mảng rừng tre, thông rậm rạp xen kẽ mặt nước chạy quanh co. Tại đây có các hạng mục công trình nổi bật như: Tòa nhà màu cam (Orange Pavilion), nằm độc lập giữa các bụi cây ngô đồng và tre. Hầu hết công trình trong Khu vườn phía Đông là xây dựng mới, là các tòa nhà nghỉ nông thôn,

Tòa nhà màu cam nằm trên một gò đất, trong Khu vườn phía Đông, tại Chuyết Chính Viên, Tô Châu
Khu vườn phía Tây được cho là vườn bổ sung. Phần này chỉ bằng một nửa kích thước của phần trung tâm với bố cục chi phối bởi mặt nước. Ao chạy từ Bắc xuống Nam; giữa ao là một hòn đảo. Mặc dù khu vườn có diện tích nhỏ, song được quy hoạch cẩn thận, tỉ mỉ. Có nhiều tòa nhà, nhưng bố cục trật tự đan xen với các gò núi và đầm lấy uốn lượn. Một trong những hạng mục công trình chính là Lầu Uyên Ương (Mandarin Duck Hall). Công trình được trang trí tinh xảo với đồ nội thất trang trí cao cấp, nơi xưa kia dành cho các vị khách thưởng thức các vở tuồng cổ. Phần phía Nam của Khu vườn phía Tây là nhà ở. Bảo tàng Vườn Tô Châu cũng ở đây.

Hình ảnh Lầu Uyên Ương trong Khu vườn phía Tây, tại Chuyết Chính Viên, Tô Châu
Lưu Viên
Lưu Viên (Lingering Garden) có diện tích khoảng 2,331ha, là một trong bốn khu vườn nổi tiếng nhất của Trung Quốc, ba còn lại là Cung điện mùa hè (Summer Palace) tại Bắc Kinh; Nhiệt Hà Hành Cung (Imperial Summer Villa) tại Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc và Chuyết Chính viên (Humble Administrator’s Garden) tại Tô Châu, tỉnh Giang Tô.
Lưu Viên được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu của phong cách nghệ thuật vườn cảnh thời nhà Thanh.
Lưu Viên được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1593 dưới thời nhà Minh (1368 - 1644) bởi một quan chức đã nghỉ hưu. Sau đó vườn đã đổi chủ nhiều lần. Mỗi chủ sở hữu đã làm hết sức mình để hoàn thiện vườn.
Vào thời nhà Thanh, năm 1798, chủ nhân của vườn là một người yêu thích thư pháp và đã chạm khắc những kiệt tác ở hai bên hành lang của các tòa nhà. Ông cũng đã thu thập những viên đá cảnh có hình dạng khác thường để bố trí trong vườn. Vườn được tái thiết mở rộng, được bổ sung thêm các mảng rừng thông, tre và các hòn non bộ…
Năm 1823, khu vườn được mở cửa cho công chúng và trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng.
Năm 1873, khu vườn được đổi chủ và được xây dựng bổ sung. Vườn bị bỏ hoang từ năm 1911 và gần như bị phá hủy vào năm 1930; được khôi phục và mở cửa trở lại cho công chúng vào năm 1954.
Lưu Viên được cho là nơi truyền cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ.
Lưu Viên không có quy mô lớn, nhưng nó có số lượng công trình kiến trúc lớn nhất. Kiến trúc Trung Quốc, tuyệt đại bộ phận là đối xứng, trái phải tương tự như nhau, song bố cục trong Vườn cây cảnh cổ điển Tô Châu, cũng như Lưu Viên không chú trọng đối xứng, mà nhằm tạo thành các địa điểm có khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và khác nhau theo từng bước chân trong một không gian hạn chế, chú trọng sự phối hợp của các hòn non bộ và mặt nước, cũng như chú ý đến thứ lớp của cận cảnh, trung cảnh và viễn cảnh. Các lối đi được thiết kế quanh co, cao thấp tự nhiên; Các công trình với các ô cửa đóng, mở có tầm nhìn khắp mọi nơi…
Lưu Viên cũng là nơi tập trung các viên đá xốp kỳ thạch hay quái thạch (Taihu Stone, là một loại đá vôi được sản xuất tại Tô Châu với nhiều lỗ thủng, được sử dụng phố biến trong trang trí vườn cảnh) với số lượng lên đến 30 viên đá lớn, được đặt theo chiều đứng, trong đó có viên đá Quán Vân Phong (Mountainous Cloud Peak), là một trong ba viên kỳ thạch nổi tiếng nhất Trung Quốc.
Việc trồng và cắt sửa cây trong Lưu viên được chú trọng theo từng khung cảnh. Cây cao cây thấp, tư thế cúi xuống ngẩng lên đều rất đẹp. Chủng loại cây đa dạng, từ tre trúc, thông đến các loài dây leo, cỏ hoa tạo cảm giác không đơn điệu. Không có cây được cắt sửa kỹ càng như bonsai, cũng không có hàng cây đều đặn hai bên như lính canh. Sắc màu cây cỏ hoa lá, đậm nhạt, mật độ dày thưa cũng khác nhau. Tất cả đều nhằm mang đến cảm giác tự nhiên, như chở thiên nhiên về nhà.
Kiểu thiết kế này được cho là đỉnh cao của thiết kế vườn cảnh cổ điển.
Ngoài khu vực nhà ở tại phía Nam, Lưu Viên được chia thành: Khu vườn trung tâm, Khu vườn phía Đông, Khu vườn phía Tây và Khu vườn phía Bắc. Bốn phần này được kết nối bởi một hành lang dài 700m. Dọc theo lối đi, có những bức thư pháp từ thời nhà Đường đến nhà Thanh.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Lưu Viên, Tô Châu

Sơ đồ tổng mặt bằng Lưu Viên, Tô Châu

Phối cảnh Lưu Viên, Tô Châu
Khu vườn trung tâm là phần cổ nhất của Lưu Viên. Cấu trúc của phần này bao gồm gò và ao gắn với hành lang dài, quanh co, những cây cầu tinh xảo nối liến các cảnh quan và những công trình hội quán, lầu, chòi nghỉ chân…


Hình ảnh Khu vườn trung tâm tại Lưu Viên, Tô Châu
Khu vườn phía Đông của Lưu Viên được bố cục xung quanh viên đá mang tên Quán Vân Phong (Mountainous Cloud Peak) cao hơn 6,5m, được cho là có hình tượng của một ngọn núi ở Phổ Đà Sơn, tỉnh Triết Giang (là một trong 4 địa điểm nổi tiếng trong Phật giáo Trung Quốc, cùng với Nga Mi Sơn tại Tứ Xuyên, Ngũ Đài Sơn tại Sơn Tây và Cửu Hoa Sơn tại An Huy hợp lại xưng là Tứ Đại Danh Sơn của Trung Quốc). Tại đây có một sân trung tâm, được bao quanh bởi các toàn nhà với cửa đục lỗ trang trí tinh tế và đa dạng. Giữa sân trung tâm là tòa nhà mang tên Lầu Ngũ Sơn (Celestial Hall of Five Peaks), là một trong những công trình nổi tiếng nhất Giang Nam. Phía sau của tòa nhà chính là một khu vườn nhỏ với một bộ sưu tập đá kỳ thạch.

Khối đá mang tên Quán Vân Phong trong Khu vườn phía Đông, tại Di sản Lưu Viên, Tô Châu
Khu vườn phía Tây của Lưu Viên là khu vực nằm trên nền đất cao, nổi bật với những hòn giả sơn, gò đồi trên trồng cây phong. Mỗi độ thu về toàn thể khu vườn đều rực lên một màu vàng trông thật thơ mộng... Đây như một vườn tự nhiên với một vài lầu nghỉ chân và một khu vườn Penzai, là một nghệ thuật cổ xưa của Trung Quốc trong lĩnh vực tạo hình nghệ thuật cảnh quan thu nhỏ trong hòn non bộ hay chậu cảnh (bồn cảnh). Hòn non bộ (Penzai/ Penjing) có 3 loại: i) Shumu penjing: tập trung mô tả một cảnh quan thu nhỏ với một hoặc nhiều cây cảnh; ii) Shanshui penjing: tập trung mô tả một cảnh quan thu nhỏ, gồm đá cảnh, mặt nước và cấu trúc thu nhỏ; iii) Shuihan penjing: kết hợp giữa hai loại trên để mô tả chi tiết một cảnh quan. Sự khác nhau giữa Penzai Trung Quốc và Bonsai Nhật Bản ở chỗ trình độ, kỹ thuật canh tác để tạo ra cây như mô hình thu nhỏ trong Bonsai là rất cao, song được cho là thiếu ý cảnh so với Penzai.
Khu vườn phía Bắc của Lưu Viên là khung cảnh của những ngôi nhà tre, rặng tre, vườn đào, mận, mơ và bãi cỏ. Vườn có một ao nhỏ. Giữa ao là một dãy đá cảnh Taihu, trên trồng cây thông. Đây cũng là nơi đặt rất nhiều chậu cảnh Penzai.

Hình ảnh dãy đá cảnh trong Khu vườn phía Bắc, tại Di sản Lưu Viên, Tô Châu
Võng Sư Viên (Net Master’s Garden)
Võng Sư Viên có diện tích 0,54ha, được xây dựng vào năm 1174, thời nhà Tống, là nơi ở của một viên quan. Vào thời điểm đó, khu vườn được đặt tên là “ Dinh thự của mười ngàn cuốn sách”, bởi chủ sở hữu đã lưu trữ rất nhiều sách trong nhà vườn. Nhiều năm sau vườn bị bỏ hoang. Vào thời nhà Thanh, năm 1765, viên quan chủ vườn tuyên bố rằng thà làm một ngư dân hơn là một quan chức. Do vậy, ông khôi phục lại vườn và đổi tên vườn thành Võng Sư Viên, nghĩa là vườn của ngư dân.
Võng Sư Viên thuộc một trong những khu vườn nhỏ nhất của Tô Châu, song lại là một trong những kiệt tác nghệ thuật của các khu vườn cổ điển Trung Quốc, nhờ việc sử dụng không gian tạo ra ảo ảnh về một khu vực lớn hơn nhiều so với kích thước thực tế của nó.
Võng Sư Viên được chia thành ba phần: phía Nam là khu biệt thự, phía Bắc là vườn hoa nhỏ với thư phòng của chủ nhân và khu vườn chính nằm nối giữa hai khu trên.
Trong khu vườn chính có một cái ao lớn được bao quanh bởi nhiều loại kỳ hoa dị thảo, các lối đi và một loạt các tòa lầu. Bên trong các tòa lầu, nội thất các phòng đều được trang trí và thiết kế khá ấn tượng theo phong cách của thời nhà Tống.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Võng Sư Viên, Tô Châu

Một bức tranh vẽ toàn cảnh Võng Sư Viên, Tô Châu

Sơ đồ mặt bằng Võng Sư Viên, Tô Châu

Hình ảnh khu vườn chính với lầu ngắm cảnh (tại vị trí công trình ký hiệu H,L), Võng Sư Viên, Tô Châu

Hình ảnh khu vườn chính (nhìn vào tòa nhà ký hiệu E, F), Võng Sư Viên, Tô Châu

Nội thất bên trong một tòa nhà (công tình ký hiệu C), Võng Sư Viên, Tô Châu
Hoàn Tú Sơn Trang (Mountain Villa with Embracing Beauty)
Hoàn Tú Sơn Trang có diện tích 0,218ha, là một biệt thự trên núi được hình thành từ thời nhà Tấn (năm 266– 420), được xây dựng lại nhiều lần giai đoạn tiếp sau. Vào thời Càn Long, nhà Thanh, công trình được cải tạo lại với việc xây dựng thêm tòa lầu, đào ao và tạo thác nước, suối…
Hoàn Tú Sơn Trang có quy mô không lớn, bố cục dọc theo một trục chính theo hướng Bắc – Nam với 3 điểm nhấn: Phía Nam là tòa biệt thự 1 tầng với một sân trong nhỏ; Trung tâm là một khu vườn với hang động, suối nước; Phía Bắc là một tòa lầu cao 1 và 2 tầng cho mọi người đến dùng trà, thưởng ngoạn cảnh quan.
Hoàn Tú Sơn Trang thể hiện quan niệm nghệ thuật thẩm mỹ như một bức tranh truyền thống Trung Quốc với cảnh núi non và mặt nước; trong cái thực có cái hư và trong cái hư có cái thực, hư và thực quyện vào nhau.
Trong khu vườn, nổi bật là dãy đá cảnh chỉ cao 7m, diện tích khoảng 330m2, song tạo ấn tượng như có nhiều ngọn núi, vách đá, bậc đá, khe núi, thung lũng…gắn với các dòng sông.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Hoàn Tú Sơn, Tô Châu

Sơ đồ vị trí khu vườn trong Hoàn Tú Sơn, Tô Châu

Sơ đồ mặt bằng khu vườn trong Hoàn Tú Sơn, Tô Châu

Hình ảnh khu vườn nhìn từ khu nhà ở, Hoàn Tú Sơn, Tô Châu

Hình ảnh khu vườn nhìn vào khu nhà ở, Hoàn Tú Sơn, Tô Châu

Hình ảnh khu vườn nhìn vào khu lầu ngắm cảnh phía Bắc, Hoàn Tú Sơn, Tô Châu

Hình ảnh vườn cảnh tại sân trong một cụm nhà phía Nam, Hoàn Tú Sơn, Tô Châu
Thương Lang Đình (Canglang Pavilion)
Thượng Lang Đình có diện tích 1,174ha, được xây dựng vào năm 1044, vào thời nhà Tống, trên một khu đất vườn hoa hoàng gia. Đây là khu vườn di sản lâu đời nhất ở Tô Châu. Khu vườn trải qua nhiều chủ sở hữu và rơi vào tình trạng hoang phế cho đến năm 1696 được phục hồi. Vườn mang phong cách kiến trúc vườn thời Tống, có nhiều gò đất, xen lẫn các khối đá cảnh, một nhánh suối; nhấn mạnh vào sự hài hòa giữa các tòa nhà nhân tạo và môi trường tự nhiên.
Thượng Lang Đình nằm phía Nam một con kênh nhỏ, chia thành 3 khu: Khu tiếp đón tại phía Bắc, sát với kênh, Khu nhà ở tại phía Nam, và Khu vườn nằm giữa hai khu với các gò đất, một ao nhỏ.
Khu vườn được bao quanh bởi một tuyến hành lang chạy díc dắc. Trên các bức tường hành lang có hơn một trăm ô cửa có hình dáng và trang trí khác nhau. Du khách đến đây có thể leo núi đi vào các hang động hoặc tản bộ dưới rừng cây tre trúc, như lạc vào chốn thiên thai hoặc có thể ngồi trong các tòa lầu ngắm cảnh và ngắm các hiện vật lưu niệm bên trong các công trình.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Thượng Lang Đình, Tô Châu

Sơ đồ mặt bằng Thượng Lang Đình, Tô Châu

Cầu qua kênh và cổng vào tư dinh Thượng Lang Đình, Tô Châu (tòa nhà ký hiệu A)

Tuyến hành lang bao quanh vườn và một ao nhỏ, Thượng Lang Đình, Tô Châu

Chòi nghỉ trên gò giữa vườn (công trình ký hiệu F), Thượng Lang Đình, Tô Châu

Lối đi xuyên qua tường ngăn giữa các khối nhà (vào sân trước của nhà ký hiệu K), Thượng Lang Đình, Tô Châu

Nội thất lầu Khai Sáng (Enlightenment Pavilion, công trình ký hiệu G), Thượng Lang Đình, Tô Châu
Sư Tử Lâm Viên (Lion Grove Garden)
Sư Tử Lâm Viên có diện tích 0,874ha, nằm ở phía Bắc thành Tô Châu, được xây dựng vào cuối thời Nguyên, năm 1342, do nhà sư dựng lên để tưởng nhớ về một sư thầy của ông. Sở dĩ vườn có tên là Sư Tử Lâm vì ở chỗ nào cũng bắt gặp những tảng đá, những hòn núi giống như những con sư tử.
Sư Tử Lâm Viên được đánh giá là một trong những khu vườn đá nổi tiếng trong lịch sử, còn lưu lại đến ngày nay. Vườn được xây dựng lại năm 1589, 1771 và 1918.
Sư Tử Lâm Viên được bài trí phù hợp phong thủy và âm dương ngũ hành, hữu tình non nước.
Khu vườn được chia thành hai phần chính: Một khu nhà ở với các vườn sân trong tại phía Bắc và Đông; một vườn non bộ xung quanh một ao trung tâm tại phía Tây và Nam.
Ngoài 22 tòa nhà, khu vườn còn có 71 tấm bia và nhiều tác phẩm nghệ thuật khác. Trong khu vườn non bộ có tới 21 hang động hình thành từ đá xốp kỳ thạch hay quái thạch (Taihu Stone) và 9 con đường uốn lượn như các mê cung.
Người ta kể rằng Hoàng đế Càn Long (thế kỷ 18) đã đến thăm địa điểm này vào năm 1765 và ghi từ "Zhenqu" (niềm vui thực sự) để mô tả vẻ đẹp của khu vườn. Dòng chữ vẫn được trưng bày trong một công trình cùng tên.
Sư Tử Lâm Viên là nơi được lấy làm bối cảnh của nhiều bộ phim nổi tiếng, đặc biệt như cảnh quay động Bàn Tơ trong phim Tây Du Ký.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Sư Tử Lâm Viên, Tô Châu

Phối cảnh tổng thể Sư Tử Lâm Viên, Tô Châu

Sơ đồ mặt bằng Sư Tử Lâm Viên, Tô Châu

Cổng vào Sư Tử Lâm Viên (công trình ký hiệu W), Tô Châu

Vườn với kỳ thạch tại sân trong một cụm nhà (tòa nhà ký hiệu B), Sư Tử Lâm Viên, Tô Châu

Lầu ngắm cảnh (ký hiệu J) giữa hồ, Sư Tử Lâm Viên, Tô Châu

Hồ chính với các dãy đá kỳ thạch (nhìn từ nhà K), Sư Tử Lâm Viên, Tô Châu

Hành lang bao quanh vườn (vị trí U), Sư Tử Lâm Viên, Tô Châu
Nghệ Phố (Garden of Cultivation)
Nghệ Phố có diện tích 0,38ha, là một trong những khu vườn nhỏ nhất của 9 khu vườn Di sản, là một trong ví dụ được bảo tồn tốt nhất của một khu vườn cổ điển, được xây dựng vào năm 1541, thời nhà Minh (năm 1368–1644) ở Tô Châu. Vườn được xây dựng lại vào năm 1659, 1839, gồm 13 tòa lầu.
Vườn được chia thành hai phần chính; Khu nhà ở với các cụm công trình bao quanh sân trong tại phía Bắc và khu vườn tại phía Nam.
Cấu trúc khu vườn kéo dài từ Bắc xuống Nam gắn kết 3 yếu tổ chính: Đá, ao sen và tòa lầu. Ao sen có diện tích khoảng 700m2 với các cây cầu nhỏ.
Các phần phía Bắc và Nam được kết nối với nhau bởi hành lang dài 700m.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Nghệ Phố, Tô Châu

Sơ đồ mặt bằng Nghệ Phố, Tô Châu

Khu vườn trung tâm với hồ sen, Nghệ Phố, Tô Châu

Nội thất tòa nhà chính, Nghệ Phố, Tô Châu

Vườn với kỳ thạch tại sân trong một cụm nhà, Nghệ Phố, Tô Châu

Cổng vòm kết nối các vườn tại sân trong các cụm nhà, Nghệ Phố, Tô Châu
Ngẫu Viên (Couple’s Garden Retreat)
Ngẫu Viên có diện tích 0,789ha, được xây dựng vào năm 1874, thời nhà Thanh (năm 1636–1912).
Ngẫu Viên nằm trên một mảnh đất có 3 mặt Bắc, Nam và Đông là con kênh; được chia thành khu vườn nhỏ tại phía Tây, một khu vườn lớn tại phía Đông, nối hai khu vườn là các tòa nhà tại cả mặt Bắc và mặt Nam.
Khu vườn phía Đông có nhiều tòa nhà với các hang động nhỏ, được bao quanh bởi một lối đi có mái che.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Ngẫu Viên, Tô Châu

Sơ đồ mặt bằng Ngẫu Viên, Tô Châu

Bên ngoài Ngẫu Viên, cạnh mương tại phía Đông, Tô Châu

Khu vườn lớn phía Đông (nhìn vào tòa lầu ký hiệu H), Tô Châu

Nội thất một ngôi nhà bên trong Ngẫu Viên (ký hiệu E), Tô Châu
Thoái Tư Viên (Retreat & Reflection Garden)
Thoái Tư Viên có diện tích 0,421ha, được xây dựng vào năm 1885, thời nhà Thanh (năm 1636–1912). Thoái Tư Viên được chia thành khu biệt thự tại phía Đông, khu vườn tại phía Tây với hai sân nhỏ gắn liền.
Vườn sử dụng trục Đông – Tây làm trục chính khác với truyền thống là trục Bắc Nam. Các tòa nhà bố trí sát mép nước và cao độ nền nhà cao hơn một ít so với cao độ mặt nước, tạo cảm giác như nổi trên mặt nước.

Sơ đồ vị trí mặt bằng Thoái Tư Viên, Tô Châu

Phối cảnh một tòa lầu trong Thoái Tư Viên, Tô Châu


Phối cảnh khu vườn trong Thoái Tư Viên, Tô Châu
Di sản Vườn cây cảnh cổ điển Tô Châu, thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô là nơi hội tụ tinh hoa nghệ thuật kiến trúc vườn của Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
https://whc.unesco.org/en/list/813
https://en.wikipedia.org/wiki/Suzhou
https://en.wikipedia.org/wiki/Classical_Gardens_of_Suzhou
https://en.wikipedia.org/wiki/Humble_Administrator%27s_Garden
https://www.chinadiscovery.com/jiangsu/suzhou/humble-administrators-garden.html
https://en.wikipedia.org/wiki/Lingering_Garden
https://www.chinadiscovery.com/jiangsu/suzhou/lingering-garden.html
https://en.wikipedia.org/wiki/Master_of_the_Nets_Garden
https://www.orientalarchitecture.com/sid/131/china/suzhou/master-of-nets-garden
https://en.wikipedia.org/wiki/Mountain_Villa_with_Embracing_Beauty
https://www.orientalarchitecture.com/sid/696/china/suzhou/mountain-villa-with-embracing-beauty
https://en.wikipedia.org/wiki/Canglang_Pavilion
https://www.orientalarchitecture.com/sid/133/china/suzhou/surging-waves-pavilion
https://en.wikipedia.org/wiki/Lion_Grove_Garden
https://www.orientalarchitecture.com/sid/129/china/suzhou/lion-grove-garden
https://en.wikipedia.org/wiki/Garden_of_Cultivation
https://www.orientalarchitecture.com/sid/129/china/suzhou/lion-grove-garden
https://en.wikipedia.org/wiki/Couple%27s_Retreat_Garden
https://www.orientalarchitecture.com/sid/819/china/suzhou/couple-garden-retreat
https://en.wikipedia.org/wiki/Retreat_%26_Reflection_Garden
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi |