Thông tin chung:
Công trình: Quần thể chùa Mahabodhi tại Bodh Gaya (Mahabodhi Temple Complex at Bodh Gaya)
Địa điểm: Bang Bihar, miền Đông Ấn Độ (N24 41 43.008 E84 59 38.004)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: 4,86 ha
Năm hình thành: Thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên
Giá trị: Di sản thế giới (2002; hạng mục i ; ii ; iii ; iv ; vi)
Ấn Độ (India) là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích 3.287.263 km2 (đứng thứ 7 trên thế giới); dân số khoảng 1324 triệu người (năm 2016).
Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương tại phía Nam, biển Ả Rập phía Tây Nam, vịnh Bengal phía Đông Nam, giáp Pakistan ở phía Tây; với Trung Quốc, Nepal, Bhutan ở phía Đông Bắc; Myanmar và Bangladesh ở phía Đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilisation) thời Cổ đại, có các tuyến đường buôn bán mang tính lịch sử cùng với những đế quốc rộng lớn, giàu có về thương mại và văn hóa.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), tại đây đã xuất hiện các đô thị lớn với số dân hàng vạn người, được quy hoạch với hệ thống thoát nước, cấp nước phức tạp, nhà gạch nung, các kỹ thuật mới trong hoạt động thủ công mỹ nghệ và luyện kim…
Sự phân tầng xã hội, dựa trên đẳng cấp, xuất hiện trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Sự tập quyền chính trị sớm nhất diễn ra dưới thời đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 322 - 187 TCN); đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại trong giai đoạn 187- 78 TCN) và đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 319 đến 550 sau Công nguyên).
Các vương quốc trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 3 TCN đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên tại Tiểu lục địa Ấn Độ (Middle kingdoms of India) có ảnh hưởng to lớn đến nền văn hóa của khu vực xung quanh, lan truyền đến tận Đông Nam Á.
Đây cũng là nơi bắt nguồn của 4 tôn giáo nội sinh lớn:
Ấn Độ giáo (Hinduism) là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, xuất phát từ khu vực Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), là sự hợp nhất hay tổng hợp các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và không có người sáng lập; hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, sau khi kết thúc thời kỳ Vệ Đà (Vedic period, năm 1500 – 500 TCN), phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ giáo bao gồm các nhóm tôn giáo khác biệt nhau về triết lý, song được liên kết bởi các khái niệm chung, các nghi thức, vũ trụ học, tài nguyên văn bản Hindu (luận về thần học, triết lý, thần thoại, kinh Vệ Đà, Yoga, nghi lễ, cách thức xây dựng đền thờ) và tập tục hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Bốn giáo phái lớn nhất của Ấn Độ giáo là Vaishnavism, Shaivism, Shaktism và Smartism.
Phật giáo (Buddhism) do Đức Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama/ Tất đạt đa Cồ đàm, năm 624 TCN – 534 TCN) sáng lập. Sau này, Phật giáo phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa); Phật giáo Đại thừa (Bắc tông, Đại chúng); Phật giáo Chân ngôn (Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa).
Jaina giáo (Jainism/Kỳ Na giáo) là một trong những tôn giáo lâu đời trên thế giới, do Đức Mahavir (năm 599 TCN – 527 TCN) sáng lập ra tại Bắc Ấn Độ, gần như là cùng thời với Phật giáo, với triết lý và phương thức thực hành dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn;
Sikh giáo (Sikhism) do Đức Guru Nanak (15/4/1469- 22/9/1539) sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, giữa Pakistan và Ấn Độ.
Ngoài ra, tại đây còn xuất hiện các tôn giáo ngoại nhập như: Do Thái giáo (Judaism), Bái Hỏa giáo (là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islamic). Các tôn giáo này được truyền đến Ấn Độ vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, bổ sung vào văn hóa đa dạng của khu vực.
Vào thời Trung cổ, phần lớn miền Bắc Ấn Độ thuộc Vương quốc Hồi giáo Delhi (Delhi Sultanate), kéo dài trong khoảng 320 năm (1206- 1526). Trong giai đoạn này, sự kết hợp giữa văn minh Ấn Độ với văn minh Hồi giáo, sự hội nhập giữa tiểu lục địa Ấn Độ với vùng lục địa Phi – Á – Âu (Afro-Eurasia) đã có một tác động to lớn lên văn hóa và xã hội Ấn Độ. Khi Delhi thành thủ đô Hồi giáo vào năm 1193, tại đây đã hình thành được nền kiến trúc Hồi giáo - Ấn Độ (Indo-Islamic architecture, nguồn gốc từ Iran), đạt được sự tăng trưởng dân số và kinh tế cùng với việc xuất hiện ngôn ngữ Hindi-Urdu (Hindustani Language). Vương quốc Hồi giáo Delhi cũng có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi các cuộc xâm lăng của Đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ 13, 14.
Vào thời Trung cổ, miền Nam Ấn Độ phân thành nhiều vương quốc nhỏ, ví dụ như :
Vương quốc Vijayanagara (Vijayanagara Empire): nằm trên Cao nguyên Deccan (Deccan Plateau), kinh đô là thành phố Vijayanagara (bang Karnataka hiện tại). Triều đại này được thành lập năm 1336, kéo dài đến năm 1646. Vijayanagara đã trở thành một thành trì của Ấn Độ giáo trong giai đoạn người Hồi giáo làm bá chủ ở miền Bắc Ấn Độ, nổi tiếng vì bảo trợ cho việc học chữ Phạn. Đây là vương quốc giàu có nhờ buôn bán gia vị và sản xuất hàng dệt vải bông;
Vương quốc Đông Ganga (Eastern Ganga Dynasty): thuộc vùng Kalinga (bao gồm cả bang Odisha hiện tại) là khu vực ven biển phía Đông, giữa sông Mahanadi và sông Godavari với kinh đô là Dantapura, sau đó được chuyển đến Kalinganagara (Mukhalingam) và cuối cùng đến Kataka (Cuttack). Triều đại này tồn tại vào thế kỷ 11- đầu thế kỷ 15, được đánh giá là vương triều bảo trợ tuyệt vời cho tôn giáo và nghệ thuật. Nhiều ngôi đền của thời kỳ Đông Ganga được xếp hạng là những kiệt tác của kiến trúc Ấn Độ giáo. Người cai trị đáng chú ý của triều đại Đông Ganga là vua Narasingha Deva I, giai đoạn năm 1238-1264. Ông là một chiến binh mạnh mẽ, đã tổ chức đánh bại nhiều đợt tấn công của Vương quốc Hồi giáo Delhi và thậm chí còn truy đuổi kẻ thù. Vua Narasingha Deva I cho xây dựng Đền Mặt trời tại Konark để kỷ niệm những chiến thắng của mình đối với người Hồi giáo và nhiều ngôi đền, pháo đài khác.
Vào thế kỷ 16, Đế quốc Mughal (Mughal Empire, năm 1526 – 1857) hình thành, chinh phục các vương quốc nhỏ, mở rộng lãnh thổ ra gần như toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần của Afghanistan với số dân vào giai đoạn cực thịnh lên đến 150 triệu người. Đế quốc Mughal đạt đến đỉnh cao vinh quang trong triều đại của Shah Jahan (5/1/1592 – 31/1/1666, hoàng đế thứ năm Đế quốc Mughal, cai trị trong thời gian từ 1628 đến 1658) và ông được coi là một trong những hoàng đế Mughal vĩ đại nhất. Trong giai đoạn này, kiến trúc Mughal đạt đến đỉnh cao với các công trinh nổi tiếng như: Taj Mahal và Moti Masjid tại Agra, Pháo đài Đỏ (Red Fort), Jama Masjid, Delhi và Pháo đài Lahore (Lahore Fort).
Tiểu lục địa Ấn Độ dần bị Anh thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh từ giữa thế kỷ 19.
Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947, sau cuộc đấu tranh giành độc lập do Mahatma Gandhi (2/10/1869 – 30/1/1948) lãnh đạo.
Ngày nay Ấn Độ là một liên bang bao gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ thuộc liên bang. Dưới bang là các đơn vị hành chính: quận (huyện, khu); phân khu và làng xã.
Bản đồ Ấn Độ và vị trí bang Bihar, phía bắc Ấn Độ
Bodh Gaya là một địa điểm tôn giáo và hành hương nổi tiếng ở quận Gaya, bang Bihar, miền Đông Ấn Độ; có diện tích khoảng 83,78km2, dân số khoảng 48,18 ngàn người (năm 2018).
Bodh Gaya gắn liền với Quần thể chùa Mahabodhi, nơi Đức Phật (Gautama Buddha) đạt được sự khai sáng, là một trong bốn địa điểm linh thiêng của Phật tử. Ba địa điểm kia là Kushinagar (nơi chôn xá lợi Phật, quận Kushinagar, bang Uttar Pradesh); Lumbini (nơi sinh của Đức Phật, quận Rupandehi, tỉnh No. 5, Nepal); Sarnath (nơi Đức Phật lần đầu giảng Pháp và là nơi Tăng đoàn Phật giáo ra đời, tại quận Varanasi, bang Uttar Pradesh).
Quần thể chùa Mahabodhi đầu tiên được hoàng đế Asoka (Ashoka the Great, triều đại Maurya, người cai trị hầu hết các tiểu lục địa Ấn Độ từ khoảng năm 268 đến 232 TCN) xây dựng vào thế kỷ thứ 3 TCN.
Quần thể chùa được phục dựng lại vào thế kỷ thứ 5- 6 sau Công nguyên, từ cuối thời đế chế Gupta (Gupta Empire, năm 319 - 550 sau Công nguyên) và đã trải qua nhiều lần sửa chữa và cải tạo sau đó.
Quần thể chùa dường như bị bỏ quên từ thế kỷ thứ 13- 18, sau đó được phục hồi vào thế kỷ 19. Nhiều công trình được tu bổ vào nửa sau thế kỷ 20.
Quần thể chùa Mahabodhi nằm trong một khuôn viên hình vuông, diện tích khoảng 4,86ha, bao quanh bởi bức tường. Quần thể có trục tổ hợp chính theo hướng Đông – Tây, bao gồm các hạng mục công trình: Tháp chính (Grand Temple) cao 55m, Phiến đá sa thạch đánh dấu vị trí nơi Đức Phật ngồi cho đến khi đạt được giác ngộ, được coi như ngai vàng (Vajrasana); Cây Bồ Đề che nơi Đức Phật ngồi và các địa điểm linh thiêng khác với nhiều bảo tháp (Votive stupas) xung quanh. Ngoài ra, tại đây còn có một ao sen (Lotus Pond) nằm bên ngoài, phía Nam của Quần thể chùa…
Quần thể chùa Mahabodhi là một trong những ngôi chùa Phật giáo đầu tiên được xây dựng hoàn toàn bằng gạch phủ vữa, vẫn còn tồn tại, và được coi là kiến trúc gạch có ảnh hưởng đáng kể trong nhiều thế kỷ.
Quần thể chùa Mahabodhi là một công trình độc đáo về khảo cổ liên quan đến thời gian Đức Phật giác ngộ tại đây, cũng như định hình Phật giáo, đặc biệt từ thế kỷ thứ 3, khi hoàng đế Asoka cho xây dựng chùa, cũng như khu dân cư và tu viện xung quanh.
Đây cũng là một trong những địa điểm chính thu hút những người hành hương từ khắp nơi trên thế giới để cầu nguyện, thực hành các nghi lễ và thiền định Phật giáo.
Ảnh chụp Quần thể chùa Mahabodhi tại Bodh Gaya, năm 1899
Phối cảnh Quần thể chùa Mahabodhi tại Bodh Gaya; nơi Đức Phật đạt được sự khai sáng
Tàn tích Lumbini, tại Rupandehi, tỉnh No. 5, Nepa ; Nơi sinh của Đức Phật (Di sản văn hóa thế giới)
Tàn tích Sarnath, tại Varanasi, bang Uttar Pradesh, Ấn Độ ; Nơi Đức Phật lần đầu giảng Pháp và là nơi Tăng đoàn Phật giáo ra đời
Ramabhar Stupa (Adhana Stupa), tại Kushinagar, bang Uttar Pradesh, Ấn Độ ; Bảo tháp được dựng lên trên một phần tro cốt của Đức Phật, tại nơi Ngài được hỏa táng
Quần thể chùa Mahabodhi tại Bodh Gaya, bang Bihar, miền Đông Ấn Độ được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 2002) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Quần thể Chùa Mahabodhi với tháp cao khoảng 50m, được xây dựng vào thế kỷ 5 đến thứ 6, có tầm quan trọng to lớn, là một trong những đền thờ sớm nhất còn tồn tại ở tiểu lục địa Ấn Độ. Đây là một trong số ít tuyệt tác về tài năng sáng tạo kiến trúc của con người trong việc xây dựng những ngôi đền bằng gạch hoàn chỉnh thời bấy giờ.
Tiêu chí (ii): Quần thể Chùa Mahabodhi, một trong số ít những ví dụ còn sót lại của các cấu trúc gạch đầu tiên ở Ấn Độ, đã có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của kiến trúc trong nhiều thế kỷ tiếp sau.
Tiêu chí (iii): Địa điểm của Chùa Mahabodhi cung cấp các dữ liệu đặc biệt liên quan đến cuộc đời của Đức Phật và sự thờ phượng Phật giáo, đặc biệt là kể từ khi hoàng đế Asoka xây dựng ngôi tháp đầu tiên và các công trình tưởng niệm xung quanh.
Tiêu chí (iv): Chùa hiện tại là một trong những công trình kiến trúc sớm nhất và hùng vĩ nhất được xây dựng hoàn toàn bằng gạch từ cuối thời kỳ Gupta. Các điêu khắc trên lan can là một trong những ví dụ nổi bật sớm nhất về điêu khắc đá.
Tiêu chí (vi): Quần thể chùa Mahabodhi ở Bodh Gaya có mối liên hệ trực tiếp với cuộc đời của Đức Phật, là nơi Ngài đạt được sự sáng suốt tối cao và hoàn hảo.
Sơ đồ vị trí và vùng bảo vệ Di sản Quần thể chùa Mahabodhi tại Bodh Gaya, bang Bihar, miền Đông Ấn Độ
Truyền thuyết về Đức Phật
Đức Phật (Siddhartha Gautama/ Thích Ca Mâu Ni; khoảng năm 563/480 - 483/400 TCN) là một nhà triết gia, học giả, người sáng lập Phật giáo, sống ở vùng Đông Bắc Ấn Độ Cổ đại vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6 và 4 TCN.
Siddhārtha Gautama dòng dõi hoàng tộc Shakya (Devanagari), cai trị tiểu quốc Shakya (Shakya Gaṇarājya), kinh đô là Kapilavastu, thuộc Ấn Độ và Nepal ngày nay.
Theo truyền thuyết, Siddhartha Gautama sinh ra ở Lumbini thuộc Nepal, lớn lên tại kinh đô Kapilvastu của tiểu quốc Shakya, ngày nay là Tilaurakot, Nepal hoặc Piprahwa, Ấn Độ.
Ngài giác ngộ tại Bodh Gaya, thuyết pháp đầu tiên tại Sarnath và viên tịch tại Kushinagar, Ấn Độ.
Cuộc đời của Đức Phật trùng hợp với sự hưng thịnh của các trường phái tư tưởng và Ngài là một trong số rất nhiều triết gia khổ hạnh (śramaṇa) thời bấy giờ.
Siddhartha Gautama từ bỏ cuộc sống phú quý của một hoàng tử tiểu quốc Shakya vào năm 29 tuổi để tìm đạo.
Sau 6 năm cầu đạo, Ngài đạt được giác ngộ tâm linh, được gọi là Đức Phật (Bậc giác ngộ/Người thức tỉnh) và dành 45 năm cuối của cuộc đời mình cho việc truyền dạy giáo lý tại phía Đông tiểu lục địa Ấn Độ.
Đức Phật được các Phật tử coi là một bậc đạo sư đã giác ngộ viên mãn và tự giải thoát hoàn toàn khỏi quy luật sinh tử luân hồi. Ngài hiểu rõ được sự vận hành của thế giới xung quanh, đồng thời truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người khác để họ có thể tự tu tập. Chi tiết về tấm gương cuộc đời, những lời dạy và các giới luật của Ngài được những học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Đức Phật qua đời. Hàng loạt những bản kinh ghi lại lời dạy của Ngài được lưu giữ qua truyền miệng và được viết thành sách vào 400 năm sau đó.
Sau khi Đức Phật qua đời, xá lợi hỏa táng được chia cho 8 gia đình hoàng gia và các đệ tử. Sau này, xá lợi Phật được lưu giữ trong hàng ngàn bảo tháp khắp nơi trên thế giới.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho rằng có 28 Đức Phật ra đời để giáo hóa chúng sinh. 26 vị Phật đã xuất hiện dần trong hàng ngàn vạn kiếp trái đất; trong 4 vị Phật đầu tiên có Nhiên Đăng Cổ Phật (Dīpaṅkara). Phật Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama) là vị Phật thứ 27, xuất hiện cách đây khoảng 2600 năm. Vị Phật thứ 28 chưa xuất hiện là Phật Di Lặc (Metteyya).
Chùa Việt Nam và Trung Quốc thờ bộ tượng Tam thế Phật. Trong đó, Phật Nhiên Đăng đại diện cho chư Phật trong quá khứ, Phật Thích Ca là chư Phật thời hiện tại và Phật Di Lặc tượng trưng cho chư Phật thời tương lai.
Không có ngôn từ nào miêu tả hết được nhận thức rộng lớn về Tự nhiên của Đức Phật Thích Ca, cũng như hệ thống đức tin mạnh mẽ mà Ngài tạo lập cho cộng đồng Phật giáo (lớn thứ 4 thế giới tôn giáo với khoảng 520 triệu tín đồ, sau Kito giáo, đạo Hồi và Ấn Độ giáo). Đức Phật Thích Ca là một trong những hiện tượng và con người vĩ đại nhất trong lịch sử.
Vị trí các hạng mục công trình chính liên quan đến thời gian 7 tuần thiền định của Đức Phật, Quần thể chùa Mahabodhi tại Bodh Gaya
Quần thể chùa Mahabodhi tại Bodh Gaya
Quần thể chùa Mahabodhi kết nối trực tiếp với cuộc đời của Đức Phật, Ngài đã đạt được giác ngộ khi thiền định tại đây trong vòng 7 tuần (49 ngày).
Quần thể có mặt bằng hình vuông, được bao quanh bằng tường rào. Cổng chính vào từ phía Đông.
Quần thể chùa bao gồm tòa tháp chính và các công trình gắn với 7 tuần thiền định của Đức Phật, gồm :
Tòa tháp chính
Tòa tháp chính (Grand Temple) mang phong cách đền tháp đạo Jain và Ấn Độ giáo. Đây là kiểu đền gồm hai phần: Gian thờ (Garbhagriha), là một căn phòng không có cửa số, chiếu sáng hạn chế, nơi đặt các linh vật, thần tượng của vị thần thờ trong đền, nơi chỉ có các tu sĩ mới được vào; Phần tháp (Shikharas, nghĩa đen là đỉnh núi, phía Nam Ấn Độ còn gọi là Vimana) bao trùm lên phía trên gian thờ. Hình dạng của phần tháp có vai trò quan trọng cho việc nhận diện loại đền tháp này. Phần tháp có thể được phân thành ba dạng chính:
Tháp dạng Latina: Là một loại tháp có mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh có các khối nhô ra (ratha) tạo thành các mặt dật cấp, là 3 mặt, 5 mặt hay 7 mặt;
Tháp dạng Sekhari: Bao gồm một ngọn tháp Latina đặt tại trung tâm và một nửa ngọn tháp phụ (Urushringa) được thêm vào các phía.
Tháp dạng Bhumija: Bao gồm một ngọn tháp Latina đặt tại trung tâm, thon dần về phía trên cả 4 mặt. Góc tháp được trang trí các ngọn tháp giống tháp trung tâm thu nhỏ.
Sơ đồ mặt bằng tháp Latina với cạnh có các khối nhô ra (ratha) tạo thành: 3 mặt (triratha), 5 mặt (pancharatha), 7 mặt (saptaratha), có trường hợp đến 9 mặt.
Tòa tháp chính của Quần thể chùa Mahabodhi quay mặt về hướng Đông với một tiền sảnh nhỏ, hai bên có các hốc chứa các bức tượng Phật.
Tòa tháp chính cao 55m, gồm hai phần:
Phần bệ tháp hay gian thờ, có chiều cao khoảng 11m. Bên trong gian thờ hay thánh đường đặt tượng Phật bằng sa thạch màu vàng (cao khoảng 1,52m). Mặt bên ngoài bệ tháp là các hốc trang trí tượng Phật, các họa tiết và chạm khắc tinh xảo.
Phía trên phần bệ tháp hay bên trên gian thờ là ngọn tháp trung tâm dạng tháp Latina, mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh tháp chia thành 5 mặt, thon dần về phía trên. Trên đỉnh tháp là một bảo tháp. 4 góc bệ tháp đặt 4 ngọn tháp nhỏ có hình dáng như tháp trung tâm. Phía trong 4 ngọn tháp nhỏ có phòng thờ, bên trong đặt tượng Phật.
Bao xung quanh tháp là một lan can (Railings) bằng đá sa thạch, cao khoảng 2m, được xây dựng bổ sung vào cuối thời đế chế Gupta. Lan can được trang trí chi tiết. Nhiều bộ phận của lan can ban đầu đã bị tháo dỡ và được lưu giữ trong các bảo tàng. Lan can hiện tại được thay thế bằng các bản sao thạch cao.
Lối vào tòa tháp chính, Quần thể chùa Mahabodhi
Phối cảnh mặt bên tòa tháp chính, Quần thể chùa Mahabodhi
Trang trí trên phần bệ và thân tòa tháp chính, gạch xây trát vữa, Quần thể chùa Mahabodhi
Tượng Phật Thích Ca bên trong gian thờ, tòa tháp chính, Quần thể chùa Mahabodhi
Chi tiết lan can đá bao quanh tòa tháp chính (bản sao), Quần thể chùa Mahabodhi
Chi tiết lan can đá tại Quần thể chùa Mahabodhi (bản gốc) được lưu giữ trong Bảo tàng Ấn Độ (Indian Museum) tại Kolkata,Calcutta, bảo tàng lớn nhất và lâu đời nhất Ấn Độ.
Cây Bồ Đề
Cây Bồ Đề (MahaBodhi Tree, vị trí trong hình vẽ ký hiệu 1) tại Bodhgaya được kết nối trực tiếp với cuộc đời của Đức Phật, Ngài đã thiền định tại đây trong tuần đầu tiên và được giác ngộ.
Cây Bồ Đề trải qua nhiều thăng trầm, thậm chí bị chặt hạ. Cây hiện tại được cho là hậu duệ trực tiếp của cây Bồ Đề gốc. Một ngôi chùa sau đó đã được dựng lên tại chỗ Đức Phật ngồi, phía Đông của cây Bồ Đề. Phiến đá nơi Ngài ngồi thiền định được gọi là Ngai vàng Kim cương.
Hình ảnh cây Bồ Đề, Quần thể chùa Mahabodhi ; Phía dưới gôc cây là Ngai vàng Kim Cương
Điêu khắc miêu tả chùa Mahabodhi xung quanh cây Bồ Đề, thế kỷ 1 sau Công nguyên, lưu tại Quần thể Phật giáo Sanchi, quận Raisen, bang Madhya Pradesh, Ấn Độ
Lá bồ đề đất nung với trang trí rồng, thế kỷ 13, 14, Việt Nam
Ngai vàng Kim cương
Vào khoảng năm 250 TCN, 200 năm sau khi Đức Phật đạt giác ngộ, hoàng đế Phật giáo Asoka (Ashoka the Great, triều đại Maurya, người cai trị từ khoảng năm 268 đến 232 TCN) đã thành lập một ngôi chùa trên thánh địa Bodh Gaya. Những công trình này ngày nay đã không còn, chỉ còn sót lại Ngai vàng Kim cương (Diamond Throne/Vajrasana, ký hiệu 1).
Ngai vàng Kim cương là tên đặt cho phiến đá sa thạch đánh dấu vị trí nơi Đức Phật ngồi tu tập dưới gốc cây Bồ Đề trong 7 ngày đầu tiên đến khi đạt được giác ngộ. Ngai vàng được tôn là linh vật để thờ và là trung tâm của lễ hội tại Quần thể chùa Mahabodhi.
Bệ đá hay Ngai vàng nằm giữa Tòa tháp chính và cây Bồ Đề, làm bằng đá sa thạch đánh bóng.
Bệ đá hay Ngai vàng Kim Cương dưới gốc cây Bồ Đề, nơi Phật thiền định tuần thứ 1, Quần thể chùa Mahabodhi
Tòa tháp nhỏ
Tòa tháp nhỏ (Animisa Cetiya – Đền Không chớp mắt, ký hiệu 2) nằm cách 60m tại phía Bắc cây Bồ Đề. Đây là nơi Đức Phật đã đứng thiền định, nhìn vào cây Bồ Đề không chớp mắt, trong 7 ngày của tuần thứ 2. Tháp có hình thức kiến trúc tương tự như Tòa tháp chính.
Tòa tháp nhỏ, nơi Phật thiền định tuần thứ 2, Quần thể chùa Mahabodhi
Cankamana
Cankamana (ký hiệu 3) nằm tại phía Bắc của Tòa tháp chính, là một bục cao. Đây là nơi Đức Phật vừa đi bộ vừa thiền trong 7 ngày của tuần thứ 3. Trên bục điêu khắc các bông hoa sen tượng trưng cho mỗi bước chân của Đức Phật. Một ngôi đền nhỏ bên trái lối vào chứa một viên đá tròn được cho là mang dấu chân thực sự của Đức Phật.
Bệ đá Cankamana, nơi Phật thiền định tuần thứ 3, Quần thể chùa Mahabodhi
Đền Ratanaghara
Đền Ratnaghara hay Đền Ngọc (Jewel House Shrine, ký hiệu 4) nằm tại phía Tây Bắc của cây Bồ Đề. Đây là nơi Đức Phật thiền trong 7 ngày của tuần thứ 4. Truyền thuyết cho rằng, trong quá trình thiền định sâu, cơ thể của Đức Phật tỏa ra ánh sáng với 5 màu sắc rực rỡ (sau này trở thành màu sắc của cờ Phật giáo, gồm 6 dải màu: Lam: tượng trưng tình yêu thương, hòa bình và lòng bác ái; Vàng: Trung đạo- tránh cực đoan như sống khổ hạnh; Đỏ: Thực hành – thành tựu, trí tuệ, đức hạnh, vận mệnh và phẩm giá; Trắng: Phật pháp – sự giải thoát khỏi không gian và thời gian; Cam: Giáo huấn của Đức Phật – trí huệ. Dải thứ 6 là tích hợp của 5 màu sắc trên, biểu tượng cho vầng hào quang).
Tàn tích đền Ratnaghara, nơi Phật thiền định tuần thứ 4, Quần thể chùa Mahabodhi
Cờ Phật giáo với 6 dải màu, gồm 5 dải màu đơn và 1 dải màu tích hợp của 5 màu, biểu tượng của vầng hào quang
Cây Đa Ajapala Nigrodha
Cây Đa Ajapala Nigrodha (Banyan Tree, ký hiệu 5) là địa điểm của một cây đa xưa, nơi Đức Phật thiền định trong 7 ngày của tuần thứ 5 và trả lời câu hỏi của một vị Bà-la-môn (Brahman, tu sĩ, triết gia, học giả và lãnh đạo tôn giáo, tầng lớp cao nhất của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ) rằng: Chỉ bằng hành động người ta mới trở thành Bà-la-môn chứ không phải do sinh ra. Tại đây có một trụ cột đánh dấu vị trí cây, nằm cạnh cổng chính hướng Đông.
Trụ đánh dấu cây Đa Ajapala Nigrodha, nơi Phật thiền định tuần thứ 5, Quần thể chùa Mahabodhi
Hồ Sen
Hồ Sen hay hồ Mucalinda (Lotus Pond/ Mucalinda Lake, ký hiệu 6) nằm tại phía Nam, bên ngoài Quần thể chùa. Đây là nơi Đức Phật ngồi thiền trong 7 ngày của tuần thứ 6, được đánh dấu bằng một trụ cột. Theo truyền thuyết, khi Đức Phật ngồi thiền có một cơn bão lớn thổi qua. Một con rắn Manyalinda xuất hiện che chắn cho Đức Phật. Nay, giữa hồ là một tượng đài thể hiện truyền thuyết này.
Hồ Sen với hình tượng Rắn che cho Đức Phật, nơi Phật thiền định tuần thứ 6, Quần thể chùa Mahabodhi
Cây Rajayatana
Cây Rajayatana (ký hiệu 7) nằm tại phía Đông Nam của Quần thể chùa, là nơi Đức Phật dành 7 ngày của tuần thứ 7 truyền đạo cho người qua đường. Đệ tử đầu tiên là hai thương nhân đến từ Yangon, Myanmar (Miến Điện). Sau khi truyền đạo, Đức Phật đã ban cho họ tám sợi tóc. Báu vật này hiện được lưu giữ bên trong chùa Shwedagon (Shwedagon Pagoda) ở Yangon, Myanmar .
Biểu tượng đánh dấu vị trí cây Rajayatana, nơi Phật thiền định tuần thứ 7, Quần thể chùa Mahabodhi
Ngoài ra, trong Quần thể chùa Mahabodhi còn có các đền thờ nhỏ, bảo tháp được xây dựng bởi hoàng gia, quý tộc và thương gia sau này. Các công trình rất khác nhau về hình dạng, kích thước, từ đơn giản đến phức tạp.
Các di tích khác trong xung quanh các công trình chính, Quần thể chùa Mahabodhi
Các công trình khác
Xung quanh Quần thể chùa Mahabodhi còn có những ngôi chùa Phật giáo đến từ các quốc gia châu Á, ví dụ như chùa Thái Lan; chùa Nhật Bản; chùa Bhutan; chùa Myanmar; chùa Trung Quốc, và đặc biệt tại đây có một vài ngôi chùa Việt Nam như chùa Viên Giác…Các công trình này phản ánh nền văn hóa Phật giáo đa dạng trên khắp thế giới.
Chùa Viên Giác, Việt Nam bên cạnh Quần thể chùa Mahabodhi
Trong bối cảnh lịch sử triết học và văn hóa, Di sản Quần thể đền Mahabodhi tại Bodh Gaya, bang Bihar, miền Đông Ấn Độ đánh dấu một sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Đức Phật, thời điểm hoàng tử Siddhartha đạt được khai sáng và trở thành Đức Phật, một sự kiện về hình thành tư tưởng và niềm tin của con người.
Quần thể đền Mahabodhi hiện là nơi hành hương Phật giáo (thực hành và định hình đức tin, khai sáng và tạo nghiệp mới) linh thiêng nhất thế giới và được coi là cái nôi của Phật giáo trong lịch sử nhân loại.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/1056
https://en.wikipedia.org/wiki/Mahabodhi_Temple
https://en.wikipedia.org/wiki/India
https://en.wikipedia.org/wiki/Maurya_Empire
https://en.wikipedia.org/wiki/Bodh_Gaya
https://en.wikipedia.org/wiki/Ashoka
https://en.wikipedia.org/wiki/Vajrasana,_Bodh_Gaya
https://en.wikipedia.org/wiki/Shikhara
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhumija
https://en.wikipedia.org/wiki/Stupa
https://en.wikipedia.org/wiki/Gautama_Buddha
https://en.wikipedia.org/wiki/Bodhi_Tree
https://magikindia.com/bodhgaya/
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|