Thông tin chung:
Công trình: Khổng Miếu, Khổng Lâm và Khổng Phủ tại Khúc Phụ (Temple and Cemetery of Confucius and the Kong Family Mansion in Qufu)
Địa điểm: Thành phố Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc (N35 36 42.012 E116 58 30)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích di sản 183ha.
Năm thực hiện:
Giá trị: Di sản thế giới (1994; hạng mục i, iv, vi)
Trung Quốc (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) nằm tại Đông Á, là quốc gia đông dân nhất thế giới với khoảng 1,403 tỷ người (năm 2016). Trung Quốc có diện tích 9596961km2, là quốc gia có tổng diện tích lớn hàng đầu thế giới; Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hán. Trung Quốc phân thành 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc và 2 khu hành chính đặc biệt là Hồng Kông và Ma Cao.
Lịch sử Trung Quốc bắt nguồn từ một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới, phát triển tại lưu vực sông Hoàng Hà, bình nguyên Hoa Bắc. Trải qua hơn 5.000 năm, Trung Hoa đã trở thành nền văn minh rực rỡ nhất thế giới trong thời Cổ đại và Trung cổ, được đặc trưng bởi hệ thống triết học thâm sâu (nổi bật nhất là Nho giáo, Đạo giáo và thuyết Âm dương ngũ hành); các thành tựu khoa học kỹ thuật (phát minh ra giấy, la bàn, thuốc súng, địa chấn kế, kỹ thuật in ấn...); hoạt động giao thương xuyên châu Á với nhiều quốc gia (Con đường tơ lụa); những đô thị có quy mô dân số và trình độ kiến trúc đứng đầu thế giới vào thời Trung cổ.
Hệ thống chính trị của Trung Quốc dựa trên các chế độ quân chủ kế tập, được gọi là các triều đại, khởi đầu là triều đại nhà Hạ.
Từ năm 221 trước Công nguyên (TCN), nhà Tần chinh phục các quốc gia khác để hình thành đế quốc Trung Hoa thống nhất;
Triều đại nhà Hán cai trị Trung Quốc từ năm 206 TCN đến năm 220 sau Công nguyên;
Triều đại nhà Đường cai trị từ năm 618–907;
Triều đại nhà Tống cai trị từ năm 960–1279;
Vào thế kỷ thứ 13, Trung Quốc bị Đế quốc Mông Cổ chinh phục. Năm 1271, Đại hãn người Mông Cổ thiết lập triều đại nhà Nguyên;
Triều đại nhà Minh cai trị Trung Quốc từ năm 1368–1644;
Triều đại nhà Thanh do người Mãn Châu thành lập cai trị Trung Quốc từ năm 1636–1912;
Trung Hoa Dân Quốc lật đổ nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc vào năm 1912 và cầm quyền tại Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949. Sau khi Đế quốc Nhật Bản bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Quốc chia thành hai: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) có thủ đô là Bắc Kinh và Trung Hoa Dân quốc tại đảo Đài Loan với thủ đô là Đài Bắc.
Tỉnh Sơn Đông nằm tại ven biển phía Đông Trung Quốc. Xưa kia, trên địa bàn tỉnh Sơn Đông là nước Tề và nước Lỗ.
Tỉnh Sơn Đông có lịch sử lâu dài và văn hóa phong phú. Các nhà sáng lập tư tưởng Nho giáo như Khổng Tử, Mạnh Tử; nhà sáng lập tư tưởng Mặc gia là Mặc Tử; các nhà quân sự nổi tiếng như Tôn Tử, Tôn Tẫn, Ngô Khởi đều được sinh ra ở Sơn Đông. Với dân số trên 90 triệu người, Sơn Đông là tỉnh có dân số đông thứ hai Trung Quốc, chỉ sau Quảng Đông.
Tỉnh Sơn Đông có Thái Sơn, là một trong năm ngọn núi thiêng liêng (Ngũ Nhạc hay Ngũ Hành Sơn) nổi tiếng nhất Trung Quốc, gắn liền với tín ngưỡng và thuyết Ngũ hành của Trung Quốc (Thái Sơn được tôn vinh là Di sản văn hóa thế giới năm 1987).
Khúc Phụ là một thành phố thuộc khu Tế Ninh (cấp hành chính dưới cấp tỉnh trên cấp huyện), tỉnh Sơn Đông, có diện tích 896km2, dân số khoảng 640 ngàn người (năm 2001). Đây là quê hương của Khổng Tử.
Bản đồ Trung Quốc và vị trí tỉnh Sơn Đông
Khổng Phu Tử hay Khổng Tử là danh hiệu tôn kính của hậu thế cho Khổng Khâu (tự là Trọng Ni, năm 551 TCN – 479 TCN).
Ông là người nước Lỗ, một nhà triết học, chính trị gia và nhà giáo dục nổi tiếng thời kỳ Xuân Thu (năm 771- 476 TCN), tạo lập một hệ thống niềm tin liên quan đến triết học, chính trị và đạo đức, gọi là Nho giáo.
Khổng Tử được người Trung Quốc tôn vinh là Vạn thế sư biểu – Bậc thày của muôn đời.
Các triết lý của Khổng Tử có sự tương đồng với truyền thống và niềm tin của người Trung Quốc, trong đó có một nguyên tắc nổi tiếng: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác".
Khổng Tử là một hình mẫu cho thế hệ sau về nhiều phương diện.
Về phẩm hạnh, ông là người rất thông minh, luôn luôn ham học; Tính ôn hòa, nghiêm trang, khiêm tốn, làm việc gì cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn tin vào Thiên mệnh; Ông là người nhân hậu, khiêm nhường, giản dị, chân thành, giàu tình cảm, ôn hòa mà nghiêm túc, uy nghi nhưng không thô bạo, cung kính mà an nhàn, sống thanh đạm, trọng nghĩa khinh tài.
Khổng Tử luôn tránh bốn sai lầm: Không dựa vào ý riêng; Không phán đoán khẳng định, áp đặt; Không cố chấp; Không tự cho mình là đúng cả…
Triết lý của Khổng Tử về đạo đức và ứng xử có ảnh hưởng to lớn đến việc định hình lối sống của nhân loại và vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội ngày nay.
Bức chân dung cổ nhất về Khổng Tử, vẽ bởi họa sĩ thời nhà Đường Ngô Đạo Tử (năm 685-758)
Sách “Khổng Tử, Triết gia của người Trung Quốc”, được xuất bản bởi các nhà truyền giáo Dòng Tên (Dòng Chúa Giêsu) tại Paris năm 1687
Tượng Khổng Tử tại Berlin, Đức với dòng chữ ghi trên bệ tượng: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác"
Ông để lại cho đời sau 5 cuốn sách như một dạng Bách khoa toàn thư đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, được gọi là Ngũ Kinh (ban đầu còn có thêm Kinh Nhạc bàn về nhạc thuật và nhạc khí, song nguyên bản đã bị thất lạc):
- Kinh Thi: Sưu tầm các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng.
- Kinh Thư: Lưu lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua có trước Khổng Tử, để lại bài học cho các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân (như Nghiêu, Thuấn) chứ đừng tàn bạo (như Kiệt, Trụ).
- Kinh Lễ : Chép các lễ nghi thời trước và được hiệu đính lại, nhằm làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự xã hội.
- Kinh Dịch: Nói về các tư tưởng triết học Trung Hoa dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái (Chu dịch), song được giảng giải rộng thêm cho dễ hiểu hơn.
- Kinh Xuân Thu: Chép các biến cố xảy ra ở nước Lỗ (quê hương Khổng Tử) và của triều đại nhà Chu trong mối quan hệ với các nước chư hầu trong khoảng 250 năm. Không chỉ các sự kiện lịch sử được chọn lựa, mà còn ghi kèm các lời bình, bổ sung các lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa thuật trị nước. Cuốn sách được cho là một trong những tác phẩm sử học và triết lý về chính trị đầu tiên của Trung Hoa.
Ngũ Kinh giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong các tác phẩm Cổ điển Trung Hoa. Nhờ có Ngũ Kinh mà tới 2500 năm sau, người đời vẫn còn có được những hiểu biết tường tận về xã hội thời bấy giờ.
Nho giáo cùng với Phật giáo và Đạo giáo tạo thành Tam giáo tồn tại song song và có ảnh hưởng rất lớn đến văn minh Trung Hoa. Khổng Tử cũng là một vị thần truyền thống trong Đạo giáo.
Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở các xã hội phong kiến của Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức của châu Âu thế kỷ 18,19.
Các tác phẩm của Khổng Tử lần đầu tiên được dịch sang ngôn ngữ châu Âu bởi những người truyền giáo dòng Tên trong thế kỷ 16 và góp phần đáng kể cho các nhà tư tưởng châu Âu trong việc tích hợp hệ thống đạo đức của Khổng Tử vào nền văn minh phương Tây.
Trong thời hiện đại, tiểu hành tinh 7853, được đặt theo tên của nhà tư tưởng Trung Quốc - Khổng Tử.
Tại thành phố Khúc Phụ, khu Tế Lâm, tỉnh Sơn Đông có 3 cụm công trình rất nổi tiếng gắn với Khổng Tử: Khổng Miếu (Đền thờ Khổng Tử), Khổng Lâm (Nghĩa trang dòng họ Khổng) và Khổng Phủ (Dinh thự gia đình họ Khổng) còn được gọi là Khúc Phụ Tam Khổng.
Đền thờ Khổng Tử hay Khổng Miếu được xây dựng vào năm 478 trước Công nguyên. Tổ hợp ngôi đền có diện tích khoảng 14 ha, với 104 tòa nhà có niên đại từ triều đại nhà Tấn (năm 266- 420) đến nhà Thanh (năm 1636–1912) bao gồm Đại Thành điện (Dacheng Hall), Khuê Văn Các (Kuiwen Pavilion), Hạnh Đàn (Xing Altar)… 1.000 bia đá và hơn 1.250 cây cổ thụ. Đền là nguyên mẫu, mô hình cho tất cả các ngôi đền Khổng Tử phân bố rộng rãi ở các nước Đông Á, đặc biệt là về cách bố trí và phong cách.
Dinh thự của gia tộc Khổng Tử hay Khổng Phủ năm ở phía Đông của Khổng Miếu. Đây là nơi con cháu trực tiếp của Khổng Tử sống và làm việc. Sau hỏa hoạn, công trình được xây dựng lại theo mô hình cung điện hoàng gia vào thế kỷ 14, được mở rộng vào cuối thế kỷ 19 với diện tích khoảng 7 ha và khoảng 170 tòa nhà. Tại đây lưu giữ hơn 100.000 bộ sưu tập. Trong đó giá trị nhất là 10 đồ dùng nghi lễ triều đại nhà Thương (năm 1766 TCN–1122 TCN) và nhà Chu (1122 TCN–249 TCN); Chân dung của Khổng Tử được làm trong những thời kỳ khác nhau, quần áo và mũ có niên đại nhà Minh và nhà Thanh.
Nghĩa trang dòng họ Khổng hay Khổng Lâm nằm cách 1100 m về phía Bắc của thành phố Khúc Phụ. Nghĩa trang có diện tích khoảng 162ha, nơi đặt mộ Khổng Tử và hơn 100.000 ngôi mộ của các hậu duệ của ông.
Khổng Miếu, Khổng Lâm và Khổng Phủ tại Khúc Phụ với nhiều di tích lịch sử và nghệ thuật nổi bật nhờ sự cống tế của các Hoàng đế Trung Quốc liên tiếp trong hơn 2000 năm. Trong thời nhà Minh, nhiều nghệ nhân và thợ thủ công xuất sắc đã áp dụng kỹ năng của họ trong việc trang trí ngôi đền. Vào thời nhà Thanh, các thợ thủ công đã xây dựng Đại Thành điện (Dacheng Hall), Đại Thành môn (Dacheng Gate) và Tẩm điện (Qin Hall), được coi là những công trình đại diện cho đỉnh cao của nghệ thuật và kiến trúc nhà Thanh.
Vị trí Khổng Miếu, Khổng Lâm và Khổng Phủ tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc
Khổng Miếu, Khổng Lâm và Khổng Phủ tại Khúc Phụ không chỉ là đại diện xuất sắc của các kỹ năng kiến trúc phương Đông, mà còn có nội dung lịch sử sâu sắc và là một phần quan trọng trong di sản văn hóa của nhân loại, được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1994) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Nhóm các tác phẩm hoành tráng tại Khúc Phụ có giá trị nghệ thuật nổi bật, là tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người. Nhờ sự hỗ trợ của các hoàng đế Trung Quốc trong hơn hai thiên niên kỷ, đã huy động được các nghệ nhân và thợ thủ công ưu tú nhất thời bấy giờ tham gia vào việc sáng tạo và xây dựng lại các tòa nhà và phong cảnh dành riêng cho Khổng Tử.
Tiêu chí (iv): Quần thể Khúc Phụ là một ví dụ nổi bật về một phức hợp kiến trúc, minh họa sự tiến hóa của văn hóa vật chất Trung Quốc trong một khoảng thời gian đáng kể.
Tiêu chí (vi): Quần thể Khúc Phụ gắn với Khổng Tử, nhà tư tưởng có đóng góp to lớn về triết học và chính trị ở các nước phương Đông trong hai nghìn năm, và cũng như ở châu Âu và phương Tây trong thế kỷ 18 và 19, là một trong những nhân tố quan trọng cho quá trình tiến hóa của tư duy và chinh thể thời hiện đại.
Di sản văn hóa gắn với Khổng Tử tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc bao gồm 3 nhóm hạng mục công trình chính: Khổng Miếu, Khổng Lâm và Khổng Phủ.
Đền thờ Khổng Tử
Sau khi Khổng Tử qua đời, để tôn thờ vị thánh văn hoá phương Đông, khắp đất nước Trung Quốc đã xây dựng hàng nghìn đền thờ Khổng Tử.
Đền thờ Không Tử hay Khổng Miếu (Temple of Confucius) tại Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử, là ngôi đền cổ kính nhất, lớn nhất và nổi tiếng nhất thờ Khổng Tử ở Đông Á.
Ngay sau khi Khổng Tử mất (năm 479 TCN) vào năm 478 TCN, ngôi nhà cũ của ông ở Khúc Phụ được Lỗ Ai Công, vua nước Lỗ (một nước chư hầu của nhà Chu, tồn tại trong giai đoạn năm 1043 TCN–256 TCN) phong tặng làm đền thờ. Năm 195 TCN, Hoàng đế Hán Cao Tổ Lưu Bang, vị hoàng đế đầu tiên dâng đại lễ cúng tế Khổng Tử tại Khúc Phụ. Đây trở thành hình mẫu cho nhiều hoàng đế và các quan chức cao cấp làm theo. Về sau, các hoàng đế viếng thăm Khúc Phụ sau khi lên ngôi hoặc vào những dịp đại lễ. Tổng cộng, đã có đến 12 hoàng đế với 20 lần đến thăm đền thờ Khổng Tử tại Khúc Phụ.
Ngôi nhà ba tầng nguyên thủy của Khổng Tử đã bị loại bỏ khỏi khu phức hợp đền thờ trong quá trình xây dựng lại vào năm 611 sau Công nguyên.
Năm 1012 và năm 1094, thời nhà Tống, ngôi đền được mở rộng tạo thành tổ hợp với 3 phần và 4 sân, xung quanh có 400 phòng. Công trình bị hỏa hoạn nằm năm 1214 trong thời nhà Kim, được khôi phục về mức độ cũ vào năm 1320 trong thời nhà Nguyện. Ngay sau đó, vào năm 1331, ngôi đền được bao quanh bởi các bức tường thành theo mô hình một cung điện Hoàng gia.
Ngồi đền bị tàn phá vào năm 1499, sau đó được phục hồi lại như quy mô hiện tại. Vào năm 1724, một đám cháy đã phá hủy phần lớn sảnh chính và các các tác phẩm điêu khắc cổ trong đó.
Sự phục hồi tiếp theo được hoàn thành vào năm 1730, do Hoàng đế Ung Chính nhà Thanh đich thân đôn đốc việc tu sửa để hình thành diện mạo như ngày nay.
Nhiều công trình và tác phẩm điêu khắc bị hủy hoại trong Cách mạng Văn hóa năm 1966 đã được phục dựng lại. Tổng cộng Khổng Miếu đã trải qua 15 cuộc cải tạo lớn, 31 lần sửa chữa lớn và rất nhiều những lần sửa chữa nhỏ.
Quần thể kiến trúc được bảo tồn đến ngày nay phần lớn đều được xây dựng vào thời nhà Minh, Thanh.
Đền Khổng Tử tại Khúc Phụ là một trong ba cụm công trình có cấu trúc cung điện hoàng gia còn tồn tại ở Trung Quốc, cùng với Đền Đại tại Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông; Tử Cấm Thành tại thành phố Bắc Kinh.
Khổng Miếu nằm trong khuôn viên hình chữ nhật, theo trục chính hướng Bắc – Nam dài khoảng 630m, rộng khoảng 150m. Mặt chính của Khổng Miếu quay về hướng Nam. Xung quanh có tường thành bao bọc với các cổng ra vào.
Bức tranh vẽ Khổng Miếu vào năm 1912
Sơ đồ vị trí các hạng mục công trình chính trong Khổng Miếu, Khúc Phụ
Phối cảnh tổng thể Khổng Miếu tại Khúc Phụ với các công trình mái vàng nổi bật như Hoàng cung
Ngôi miếu có bố cục theo 9 dãy sân, xếp dọc theo trục chính Nam – Bắc, hai bên có các không gian phụ đối xứng nhau. Các tòa nhà gắn với sân tạo thành các cụm công trình. Công trình có ngói màu vàng và các bức tường sơn đỏ, tương tự như các công trình trong Hoàng cung. Bên trong Khổng Miếu cỏ cây xanh tốt, mát mẻ quanh năm, đặc biệt là những cây thông cổ thụ tạo ra sự tương phản mạnh mẽ. Các hạng mục công trình chính tại Khổng Miếu, theo trục Nam lên Bắc gắn với 9 không gian sân gồm:
Linh Tinh Môn
Từ không gian bên ngoài vào sân hay không gian thứ 1 của Khổng Miếu là Linh Tinh Môn (Lingxing Gate), cao 10,3m rộng 13m, được xây dựng vào thời Minh Thành Tổ (Minh Vĩnh Lạc, trị vì năm 1402 – 1424). Cổng mang tên sao Thiên Điền trên trời, thể hiện việc các hoàng đế thời xưa cúng tế Khổng Tử như cúng tế trời, tôn thánh như tôn thiên. Hai bên cửa Linh Tinh có hai tấm bia đá lớn đề hàng chữ "quan viên hãy xuống ngựa". Sau cửa thứ nhất tiếp tục là 2 cổng vòm nữa đến Thánh Thời Môn.
Linh Tinh Môn - Cổng chính vào Khổng Miếu, Khúc Phụ
Thánh Thời Môn
Thánh Thời Môn (Shengshi Gate/ Timeliness of the Sage Gate) là cổng vào sân thứ 2, được xây dựng vào năm 1415. Cổng này có 3 lối vào với mái vòm gạch sơn đỏ. Sau cổng là một vườn cây rộng rãi với 3 cây cầu đá (cầu Bishui) vượt qua một hào nước cảnh quan chạy theo hướng Đông – Tây. Cầu giữa dành cho Hoàng đế. Văn quan đi cầu bên trái và võ quan đi cầu bên phải.
Thánh Thời Môn tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Vườn cây sau Thánh Thời Môn và 3 cầu đá có tên cầu Bishui
Hoàng Đạo Môn
Hoàng Đạo Môn (Hongdao Gate) là cổng vào sân thứ 3, nằm tại phía Bắc của cầu Bishui, được xây dựng vào năm 1377, thời nhà Minh. Công trình là một tòa nhà 5 gian, hình mẫu cho cổng của các Khổng Miếu (Văn Miếu) tại khu vực Đông Á sau này.
Hoàng Đạo Môn tại Khổng Miếu, Khúc Phụ - hình mẫu cho cổng của các Văn Miếu
Đại Trung Môn
Đại Trung Môn (Dazhong Gate/ Central Harmony Gate) là cổng vào sân thứ 4, nằm tại chính giữa của Khổng Miếu. Công trình được xây dựng đầu tiên trong thời nhà Tống, được xây dựng lại vào năm thứ 13 triều đại nhà Minh (năm 1500). Hai bên Đại Trung Môn là hai tháp nằm tại hai góc sân.
Đại Trung Môn tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Khuê Văn Các
Khuê Văn Các (Kuiwen Hall/ Star of Literature Pavilion) được xây dựng năm 1018, trùng tu năm 1504 vào thời nhà Minh và năm 1985, có chức năng là thư viện.
Khuê là chòm sao Khuê (với 16 ngôi sao bố cục giống chữ Văn 文), một trong hai mươi tám chòm sao Trung Quốc Cổ đại, chủ quản sự hưng vong của văn chương dân gian, Trong văn hóa Đông Á, sao Khuê là biểu tượng của văn chương, học thuật.
Khuê Văn Các là tòa lầu bằng gỗ cao 23,35m, rộng 30,10m, sâu 17,62m, ba tầng mái cong. Đây là một trong những công trình với cấu trúc gỗ nổi tiếng tại Trung Quốc.
Khuê Văn Các tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Thập Tam Bi Đình
Tại Khổng Miếu có rất nhiều bia đá, tương truyền có đến hàng ngàn bia đá. Trên các tấm bia ghi lại các sự kiện liên quan đến việc xây dựng lại và cải tạo đền; ghi lại các văn bản ca ngợi Khổng Tử và sắc lệnh của các hoàng đế ban hiệu danh dự cho ông với hơn 50 tấm ngự bia.
Theo thời gian, một số bia đã di chuyển đến nơi khác. Các chữ khắc trên bia đá ngoài tiếng Hán còn có tiếng Trung Mông Cổ và tiếng Mãn Châu (Ngôn ngữ chính thức của nhà Thanh).
Thập Tam Bi Đình (Thirteen Stele Pavilions) là nơi đặt tập trung 13 nhà bia. Các nhà bia này bố trí thành hai cụm bia trong sân trong thứ 5 giữa Đại Thành Môn tại phía Bắc và Khuê Văn Các tại phía Nam.
Cụm bia phía Bắc có 5 nhà bia. Bia được dựng vào đời nhà Thanh. Các tấm bia có kích thước lớn được đỡ bởi rùa đá. Những bia này cao 3,8m – 4m. Rùa đá đỡ bia dài tới 4,8m. Một tấm bia (bao gồm bia, rùa, bệ đá) nặng đến 65 tấn.
Cụm bia phía Nam có 8 nhà bia. 4 bia trong đó được dựng vào triều đại nhà Kim và Nguyên. Các bia còn lại có từ thời nhà Thanh. Cụm bia phía Nam có kích thước nhỏ hơn cụm bia phía Bắc. Xung quanh còn có một số bia đá nhỏ không có bệ rùa, đặt ngoài trời.
Các tấm bia được tạo tác từ mỏ đá của núi Tây Sơn, Bắc Kinh và vận chuyển đến.
Các nhà bia Thập Tam Bi Đình tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Bia đá thời Nguyên tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Rùa đỡ bia đá thời Minh tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Rùa đỡ bia đá thời Thanh tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Các hàng bia đá ngoài trời tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Đại Thành môn
Đại Thành môn (Dacheng Gate/ Gate of Great Perfection) cổng vào sân trong trung tâm. Từ đây, Khổng Miêu chia thành 3 phần. Phần chính giữa thờ Khổng Tử và vợ. Phần phía Đông (Congsheng Temple) để thờ cúng tổ tiên. Phần phía Tây (Qisheng Hall) dành cho cha mẹ Khổng Tử. Phần phía Đông và phía Tây chia thành 3 lớp không gian (lớp không gian thứ 6, 7 và 8).
Đại Thành Môn tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Hạnh Đàn
Hạnh Đàn (Xing Tan Pavilion/ Apricot Platform) nằm giữa lớp sân trong trung tâm, là một tòa đình cổ hình vuông, bên trong dựng một tấm bia đá. Trên bia có hai chữ Hán là “Hạnh Đàn”. Tương truyền, nơi đây thời trước Khổng Tử dạy học, xung quanh đều trồng cây hạnh.
Hạnh Đàn tại Khổng Miếu, Khúc Phụ
Đại Thành Điện
Đại Thành Điện (Dacheng Hall) là chủ thể chính của Khổng Miếu, của lớp không gian trung tâm (lớp 6,7,8). Tổ hợp công trình được xây dựng từ thời nhà Tống, nhưng đến thời Ung Chính (nhà Thanh) mới được trùng tu thành quy mô lớn. Công trình là nơi thờ cúng chính Khổng Tử, nơi đẹp đẽ và trang nghiêm nhất của Khổng Miếu. Công trình có kích thước 54m x 34m, kể cả nền đế cao khoảng 32m, có kết cấu chịu lực chính gồm 28 cột trụ bằng đá địa phương, được chạm khắc và trang trí vô cùng phong phú. Cột cao 6m, đường kính 0,8m. Trong số đó có 10 cột trụ ở phía trước được trang trí bằng hình rồng cuộn mây cực kỳ tinh xảo, tạo hình sinh động, mạnh mẽ, được xem là kiệt tác điêu khắc đá Cổ đại Trung Hoa. Có 9 ban thờ và 17 bức tượng. Chính giữa đại điện là tượng Khổng Tử bề thế, cao 3,35m; hai phía Đông, Tây là tượng học trò Khổng Tử như: Nhan Hồi, Khổng Cấp, Tăng Sâm, Mạnh Kha và tượng của “mười hai bậc hiền triết” (Thập nhị triết).
Hai bên phía Đông và Tây không gian Đại Thành Điện là 3 lớp không gian phụ, bố trí các tòa nhà thờ hậu duệ của Khổng Tử.
Đại Thành Điện, thánh đường chính của Đền Khổng Tử, Khúc Phụ
Cột đá chạm rồng tại Đại Thành Điện, Đền Khổng Tử, Khúc Phụ
Bàn thờ Khổng Tử trong Đại Thành Điện tại Đền Khổng Tử, Khúc Phụ
Hành lang bao quanh Đại Thành Điện tại Đền Khổng Tử, Khúc Phụ
Tẩm điện
Tẩm điện (Resting Hall/Chamber Hall) là nơi nghỉ ngơi, dành riêng cho vợ Khổng Tử. Công trình nằm tại phía Bắc của Đại Thành điện, có cấu trúc như một cung điện của hoàng hậu. Công trình được xây dựng vào năm 1018 thời nhà Tống, sau đó được tái thiết vào năm 1730 thời nhà Thanh. Phía sau Tẩm Điện là lớp sân trong thứ 9.
Tẩm Điện tại Đền Khổng Tử, Khúc Phụ
Nghĩa trang dòng họ Khổng
Nghĩa trang dòng họ Khổng hay Khổng Lâm (Cemetery of Confucius), còn có tên là Chí Thánh Lâm, nằm tại phía Bắc và cách thành phố Khúc Phụ 1km. Tại đây có mộ của Khổng Tử và hơn 100.000 ngôi mộ của một số đệ tử, các hậu duệ của ông.
Khổng Lâm là một trong những nghĩa trang dòng họ có lịch sử dài nhất từ trước đến nay và cũng là khu lăng mộ của một danh gia vọng tộc lớn nhất ở Trung Quốc, được duy trì hơn 2500 năm, bảo tồn một cách hoàn chỉnh nhất.
Nghĩa trang đã trải qua 13 lần cải tạo và mở rộng. Năm 1331, công trình được xây dựng thêm cổng và tường bảo vệ. Vào cuối thế kỷ 18, các bức tường bao quanh nghĩa trang đạt tới chiều dài khoảng 5591m, cao 4m, bao quanh một diện tích khoảng 162ha. Nghĩa trang bị tàn phá nghiêm trọng trong cuộc Cách mạng Văn hóa vào năm 1966.
Khổng Lâm được sắp đặt theo phong cách thời Tống, Nguyên với những con đường uốn lượn quanh co men theo hàng cây bách tuế.
Qua cổng lớn của Khổng Lâm, đi về hướng Bắc là cổng thứ 2 có kiến trúc giống như một tòa lâu đài, được gọi là “Quan lầu”. Phía dưới tường lầu có một dòng sông nhỏ gọi là Châu Thủy. Qua cầu Châu Thủy là đến Hương Điện - nơi hương khói cho các tiền nhân.
Đằng sau Hương Điện là lăng mộ của Khổng Tử. Mộ nằm ở trung tâm của Khổng Lâm, có tường đỏ bao bọc, trước mộ là tấm bia đá lớn khắc 8 chữ “Đại thành chí thánh Văn Tuyên Vương mộ”.
Phía Đông mộ Khổng Tử là mộ của con trưởng Khổng Lý, phía Nam là mộ của trưởng tôn Khổng Cấp.
Phía Tây mộ Khổng Tử là một ngôi nhà nhỏ 3 gian, gọi là “Tử Cống lư mộ địa”. Tương truyền khi Khổng Tử qua đời, các đệ tử đều đến chịu tang giữ mộ 3 năm rồi đi, duy có Tử Cống ở lại thủ tang thêm 3 năm nữa. Người đời sau kỷ niệm việc này mới làm nhà lập bia thờ.
Tại đây, ngoài lăng mộ của Khổng Tử, còn có nhiều ngôi mộ bề thế của các hậu duệ của Khổng Tử và công trình kiến trúc phụ như điện thờ, cầu Mạt Thủy, nhà Vu Thị...
Khổng Lâm còn có các loại cây như tùng, bách, hoàng liên và nhiều cây khác với hàng ngàn cây to cao, xanh tốt bố trí hài hòa, sinh động với lăng mộ; bia đá; tượng đá người, ngựa và muông thú.
Khổng Lâm đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu phong tục an táng của các triều đại phong kiến Trung Quốc.
Cổng nghĩa trang dòng họ Khổng, Khổng Lâm, Khúc Phụ
Mộ Khổng Tử tại Khổng Lâm, Khúc Phụ
Bên trong Khổng Lâm, Khúc Phụ
Dinh thự dòng họ Khổng
Dinh thự dòng họ Khổng hay Khổng Phủ (Kong Family Mansion), còn được gọi là Diễn Thánh phủ, nằm tại phía Đông của Khổng Miếu, là nơi cư trú của các đời trưởng tôn của Khổng Tử. Xưa kia, nơi này gắn với Khổng Miếu.
Bắt đầu từ đời Tây Hán (năm 206 TCN - 25 sau Công nguyên), các hoàng đế phong kiến luôn tiến hành gia phong đối với Khổng Tử và trưởng tôn của ông.
Năm 739, vua Đường Huyền Tông phong tặng Đức Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, tượng thờ ông được mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các đệ tử các tước: Công, Hầu, Bá.
Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong Khổng Tử là: Đại Thánh Văn Tuyên Vương, phong cho cha Khổng Tử là Lỗ Công, mẹ là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị làm Vân Phu Nhân, và ra lệnh cho các tỉnh lập miếu thờ ông.
Năm 1560, vua Minh Thế Tông phong tặng ông là Chí Thánh Tiên Sư.
Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong ông là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.
Hậu duệ chính thống của Khổng Tử cũng luôn được thiên hạ tôn kính. Các triều đại quân chủ thường liệt họ vào hàng quý tộc và ban thực ấp cũng như quan tước tùy khả năng.
Đầu tiên, Hán Cao tổ phong cho cháu đời thứ 9 của Khổng Tử là Khổng Đằng chức "Phụng Tự quân", trông coi việc tế giỗ Khổng Tử.
Đến đời Hán Nguyên đế phong cho Khổng Bá, cháu đời thứ 13 tước "Bao Thành hầu". Họ Khổng được phong tước Hầu cả thảy 35 lần kể từ thời nhà Hán.
Đến thời Đường, Đường Huyền Tông đã thăng cho dòng họ Khổng Tử từ hầu tước lên công tước, phong tước "Văn Tuyên công" cho Khổng Chi, cháu đời thứ 35. Đến năm 1055, Hoàng đế Tống Chân Tông cải phong thành tước "Diễn Thánh công" cho Khổng Thánh Hữu, cháu đời thứ 46. Tính tổng cộng, họ Khổng tiếp tục được gia phong tước Công 42 lần từ đời Nhà Đường tới thời Nhà Thanh.
Cùng với việc thăng quan tiến chức của con cháu Khổng Tử, quy mô kiến trúc của Khổng Phủ không ngừng mở rộng qua các thời Tống, Minh, Thanh.
Sau khi Khổng Tử mất, con cháu hậu thế gìn giữ và bảo quản những di vật của Khổng Tử và dòng họ Khổng.
Khổng Phủ được đánh giá là “Thiên hạ đệ nhất gia”. Khổng phủ về cơ bản có bố cục điển hình của của trang viên quý tộc, địa chủ phong kiến theo kiến trúc thời nhà Minh, Thanh: Phía trước là nha môn (nơi xử lý công vụ), tiếp sau là nơi sinh hoạt thường ngày, cuối cùng là hoa viên.
Tại đây có các công trình đình, đền, lầu, tổng cộng 170 tòa nhà với khoảng 480 phòng,diện tích 12470m2, bố cục xung quanh 9 sân. Cấu trúc cao nhất là tháp cao 4 tầng (tháp trú ẩn).
Hoa viên trong phủ có tên gọi là Thiết Sơn Viên, với những ngọn núi giả, ao cá, khóm hoa, rừng trúc và các bồn cây cảnh. Đặc biệt là tại đây có một loại cây kỳ lạ có tên là “Ngũ bách bão hòe” - loại cây này sinh trưởng phân thành 5 nhánh, là một trong những loại cây hiếm có trên thế giới.
Khổng Phủ lần đầu tiên được xây dựng vào năm 1038, thời nhà Tống. Năm 1377 công trình được xây dựng lại dưới thời nhà Minh. Năm 1503 công trình được mở rộng với chín sân trong tương tự như Khổng Miếu tại lân cận. Năm 1838, vào thời nhà Thanh, công trình được cải tạo lại.
Toàn bộ Khổng Phủ được xem như là một bảo tàng, lưu giữ được không ít những văn vật quý hiếm, như các hiện vật bằng đồng của thời Thương - Chu; trang phục thời Nguyên - Minh, thư họa cổ đại, các con dấu bằng ngọc của danh nhân, các sản phẩm đồ men sứ ... Ngoài ra, đây còn là kho lưu trữ các văn bản thời Minh, Thanh.
Khổng Phủ được xem là nơi sưu tập các cổ vật lịch sử, nổi tiếng nhất là “Thương Chu thập khí”, còn có tên khác là “ thập cung”, với hình thức cổ kính, trang trí tinh tế, nguyên dạng bằng đồng. Vua Càn Long nhà thời Thanh đã nhiều lần đến thưởng ngoạn tại Khổng phủ.
Từ thời Minh Gia Tĩnh (1534 - 1948) Khổng phủ là nơi gìn giữ tư liệu với nội dung phong phú, phản ánh những góc độ khác nhau của Trung Hoa Cổ đại, từ chính trị, kinh tế đến tư tưởng, văn hóa và mang một giá trị lịch sử quan trọng.
Sơ đồ Khổng Phủ, Khúc Phụ
Cấu trúc của Khổng Phủ theo trục từ Nam tới Bắc gồm:
Khu vực nha môn
Khu vực nha môn bao gồm các hạng mục công trình chính:
Cổng Chính hay Đại Môn Khổng phủ (Main Gate) nổi bật với bảng hiệu "Thánh phủ".
Sân trung tâm (Central Courtyard) được hình thành bởi các tòa nha môn với cấu trúc tương tự theo "Tam tỉnh lục bộ".
Cổng Đôi hay Trùng Quang Môn (Gate of Double Glory) nằm ở phía Bắc của Sân trung tâm. Công trình được xây dựng vào năm 1503 và chỉ mở trong các nghi lễ cao cấp hay có sự viếng thăm của hoàng đế và tiếp nhận các sắc lệnh của quốc gia. Cổng rộng rộng 6,24 mét, dày 2,03 mét và cao 5,95 mét. Cổng còn được gọi là Nghi môn hay Tái môn.
Đại Sảnh (Great Hall) là địa điểm kinh doanh chính thức của công tước dòng họ Khổng Tử và nơi dành cho việc loan báo sắc lệnh hoàng gia. Khi cầm quyền, công tước ngồi ở hành lang trên một chiếc ghế gỗ được bao phủ bởi da hổ.
Nhị Điện (Second Hall) được sử dụng để tiếp đón các quan chức cấp cao cũng như các sự kiện âm nhạc và nghi thức hoàng gia. Tại đây có 7 bút tích của các hoàng đế, trong đó có một chữ "thọ" của Từ Hi Thái hậu, nhà Thanh.
Tam Điện (Third Hall) được sử dụng như một phòng trà.
Lối vào Khổng Phủ, Khúc Phụ
Trùng Quang Môn tại Khổng Phủ, Khúc Phụ
Hệ thống các sân trong bên trong Khổng Phủ, Khúc Phụ
Tòa Đại sảnh trong Khổng Phủ, Khúc Phụ
Khu vực nhà ở
Cổng vào khu vực bên trong hay Nội trạch môn (Gate to the Inner Apartments) được xây dựng từ thời nhà Minh, rộng 11,8m, dày 6,1m và cao 6,5m. Trong thời gian gia tộc họ Khổng lưu trú, cổng được bảo vệ nghiêm ngặt, hạn chế sự tiếp cận tới các khu nhà ở của dinh thự trừ một số người và một số nữ hầu. Nước uống được đưa qua một cái một hệ thống đường rãnh đặt trong tường.
Tiền Thượng Phòng (Front Reception Hall) là một cấu trúc được sử dụng để tiếp đón người thân, chiêu đãi, hôn nhân, tang lễ.
Tiền Đường Lâu (Front Main Building) được xây dựng lại dưới thời nhà Thanh sau khi cấu trúc cũ bị thiêu rụi trong trận hỏa hoạn 1886. Đây là nơi chứa các phòng riêng của vợ và các thê thiếp của Diễn Thánh Công.
Hậu Đường Lâu (Rear Building) được xây dựng vào thời hoàng đế Gia Khánh (1789–1796), rộng 3900m2, là nơi ở của Diễn Thánh Công.
Hậu Ngũ Gian (Rear Five Rooms) là nơi ở cho những người hầu gái vào thời nhà Thanh.
Nội thất Tiền Đường Lâu tại Khổng Phủ, Khúc Phụ
Hậu Đường Lâu trong Khổng Phủ, Khúc Phụ
Tháp Trú Ẩn, công trình cao nhất trong trong Khổng Phủ, Khúc Phụ
Máng dẫn nước sinh hoạt tại Khổng Phủ, Khúc Phụ
Khu vực Hậu Hoa Viên
Hậu Hoa Viên còn được gọi là Thiết Sơn viên (Back Garden) được xây dựng vào năm 1503 và đã được tân trang lại nhiều lần. Tại đây có Hoa Sảnh, một cấu trúc lớn ở phía Bắc khu vườn.
Hậu Hoa Viên tại Khổng Phủ, Khúc Phụ
Di sản Khổng Miếu, Khổng Lâm và Khổng Phủ (Tam Khổng) tại Khúc Phụ, Sơn Đông thể hiện giá trị cốt lõi của văn hóa truyền thống Trung Quốc - Nho giáo.
Khổng Miếu phản ánh vị trí tối cao của Nho giáo trong văn hóa truyền thống Trung Quốc.
Khổng Phủ là nơi làm việc và cư trú của hậu duệ trực tiếp của Khổng Tử, là bằng chứng về sự nổi tiếng của của dòng họ Khổng Tử trong xã hội truyền thống Trung Quốc với vai trò nổi bật của Khổng giáo.
Khổng Lâm như một nghĩa trang cho Khổng Tử và con cháu của ông, cung cấp bằng chứng vật chất không thể thiếu và quan trọng nhất cho sự phát triển của dòng họ Khổng.
Những hiện vật hiện đang được lưu giữ ở hơn 300 địa điểm, 1300 không gian kiến trúc trong Tam Khổng đều hàm chứa giá trị cao về lịch sử, khoa học, văn hóa và nghệ thuật, phản ánh chân thực mọi mặt xã hội thời kỳ Kim, Nguyên, Minh, Thanh.
Hơn 1000 bức tranh, các vật dụng sinh hoạt, cột chạm rồng với kỹ thuật khắc đá tinh xảo phát triển qua các thời kỳ, đã khắc họa toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của Khổng Tử; 5000 bia đá của các triều đại từ Tây Hán đến nay là báu vật sống về nghệ thuật thư pháp, là tư liệu quý nghiên cứu về Trung Quốc thời kỳ Cổ đại từ chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa đến kiến trúc, nghệ thuật; hơn 10 vạn lăng mộ là những giá trị vật chất quan trọng minh chứng cho sự tồn tại và phát triển của một danh gia vọng tộc Trung Quốc;
Hơn 10 vạn bộ sưu tập hiện vật, trong đó đặc biệt là bộ sưu tập về trang phục thời Nguyên, Minh, có giá trị cao cho việc nghiên cứu nghệ thuật may mặc, dệt vải thời Cổ đại. Hình ảnh của Khổng tử, chân dung của Diễn Thánh Công phu nhân, 30 vạn cuốn sách thời Minh, Thanh là những tư liệu phong phú, đặc biệt quan trọng để nghiên cứu giai đoạn lịch sử này.
Hơn 1700 gốc cây cổ thụ tại đây không những đã chứng kiến lịch sử phát triển của Tam Khổng mà đồng thời còn là tài liệu quý để nghiên cứu khí hậu học và sinh thái học của thời Cổ đại tại vùng đất Trung Hoa.
Vào năm 1965, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đến thăm Khổng Miếu tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc và để lại bài thơ chữ Hán:
Phỏng Khúc Phụ:
Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ,
Cổ tùng cổ miếu lưỡng y hi.
Khổng gia thế lực kim hà tại,
Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi.
Dịch nghĩa:
Thăm Khúc Phụ
Ngày 19 tháng 5 thăm Khúc Phụ,
Cây thông già và ngôi miếu cổ đều đã mờ nhạt.
Uy quyền họ Khổng giờ ở đâu?
Chỉ còn chút ánh nắng tà chiếu trên tấm bia cũ.
Tự dịch:
Thăm Khúc Phụ
Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ
Miếu xưa, thông cổ vẫn còn đây
Đức tin họ Khổng nơi đâu tỏ?
Vương lại bia xưa vết nắng chiều
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
https://whc.unesco.org/en/list/704
https://en.wikipedia.org/wiki/Confucius
https://en.wikipedia.org/wiki/Temple_and_Cemetery_of_Confucius_and_the_Kong_Family_Mansion_in_Qufu
https://en.wikipedia.org/wiki/Temple_of_Confucius
https://en.wikipedia.org/wiki/Temple_of_Confucius,_Qufu
https://en.wikipedia.org/wiki/Cemetery_of_Confucius
https://en.wikipedia.org/wiki/Kong_Family_Mansion
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%95ng_T%E1%BB%AD
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|