Thông tin chung:
Công trình: Những công trình biểu tượng của người Nubian, từ Abu Simbel đến Philae (Nubian Monuments from Abu Simbel to Philae)
Địa điểm: Aswan, Egypt; N22 20 11.004 E31 37 33.996
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích khu vực Di sản 374,48 ha
Năm thực hiện:
Giá trị: Di sản thế giới (năm 1979; hạng mục i, iii, vi)
Ai Cập (Egypt ) là một quốc gia nằm bên bờ Địa Trung Hải, phía Đông Bắc là dải Gaza và Israel, phía Đông là vịnh Aqaba (Gulf of Aqaba), phía Đông Nam là Biển Đỏ (Red Sea), phía Nam là Sudan, phía Tây là Libya.
Ai Cập có diện tích 1.010.408 km2, dân số khoảng 94,6 triệu người (năm 2017). Thủ đô và thành phố lớn nhất là Cairo. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Ả Rập.
Ai Cập được biết đến trên toàn thế giới từ thiên niên kỷ thứ 10 trước Công nguyên, được coi là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Tại đây đã có sự phát triển từ rất sớm của văn chương, nông nghiệp, đô thị, tôn giáo có tổ chức và chính quyền trung ương. Những công trình Quần thể Kim tự tháp Giza (Necropolis Giza) và tượng Nhân sư vĩ đại (Great Sphinx), cũng như những tàn tích của các thành phố Ai Cập Cổ đại Memphis và Thebes luôn thu hút sự quan tâm của giới khoa học và phổ biến toàn cầu.
Di sản văn hóa lâu đời của Ai Cập là một phần không thể tách rời của bản sắc dân tộc, đã tồn tại và hòa nhập với các ảnh hưởng từ bên ngoài, gồm Hy Lạp, Ba Tư, La Mã, Ả Rập, Ottoman và Châu Âu.
Ai Cập là một trong những trung tâm đầu tiên của Kitô giáo, nhưng phần lớn đã được Hồi giáo hóa vào thế kỷ thứ bảy và nay là một quốc gia với tôn giáo chính là Hồi giáo.
Ai Cập được hình thành từ sự thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập vào năm 3150 trước Công nguyên. Từ đây mở ra một loạt các triều đại của giai đoạn Ai Cập Cổ đại (Ancient Egypt) trong ba thiên niên kỷ tiếp theo. Văn hóa Ai Cập phát triển rực rỡ trong thời gian dài này và duy trì được thống nhất trong tôn giáo, nghệ thuật, ngôn ngữ và phong tục.
Vào năm 2700 – 2200 trước Công nguyên, các triều đại Ai Cập Cổ đại đã xây dựng rất nhiều kim tự tháp, trong đó đáng chú ý nhất là Kim tự tháp Djoser (Pyramid of Djoser, là một kim tự tháp đầu tiên của Ai Cập, dạng bậc được xây dựng vào năm 2700 BC - trước Công nguyên) và Quần thể Kim tự tháp Giza (Giza pyramid complex, gồm 3 kim tự tháp và tượng Nhân sư, được xây dựng vào năm 2560- 2540 BC).
Các triều đại Ai Cập Cổ đại kéo dài đến Vương triều thứ 30.
Năm 332 trước Công nguyên, Alexander Đại đế, vua của Macedon xâm chiếm Ai Cập. Từ đây hình thành triều đại cuối cùng của Ai Cập Cổ đại, triều đại Ptolemaic (năm 332 –30 BC), một Đế chế Hy Lạp - Ai Cập (Macedonian and Ptolemaic Egypt) hùng mạnh, cai trị một vùng rộng lớn với thành phố thủ đô là Alexandria.
Vào thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, Ai Cập bị Đế quốc Byzantine chinh phục, tiếp đó là Đế quốc Hồi giáo của người Hồi giáo Ả Rập. Người Ả Rập đã đưa Hồi giáo đến đất nước này. Người Ai Cập bắt đầu tiếp nhận đức tin mới kết hợp với đức tin bản địa. Một số người theo Kito giáo trước đó chuyển đổi dần sang Hồi giáo. Năm 1517, Ai Cập bị bị Đế chế Ottoman chiếm đoạt, sau đó trở thành một tỉnh của Vương quốc Ottoman.
Người Pháp xâm nhập vào khu vực này từ năm 1798. Trong thời gian này, kênh đào Suez được xây dựng với sự hợp tác của người Pháp, hoàn thành vào năm 1869.
Năm 1914, Ai Cập thuộc sự bảo hộ của Đế quốc Anh.
Ngày 28/2/1922, Ai Cập tuyên bố độc lập từ Vương quốc Anh.
Ai Cập ngày nay được chia thành 27 tiểu bang, mỗi bang có một thành phố thủ phủ, cùng tên với bang.
Phân chia các giai đoạn lịch sử của Ai Cập tổng hợp theo bảng sau:
Giai đoạn
|
Thời gian
|
Thời kỳ Ai Cập Cổ đại (Ancient Egypt)
|
3150 – 332 BC
|
Vương quốc thời kỳ đầu (Early Dynastic Period)
|
3150–2686 BC (trước Công nguyên)
|
Vương quốc cổ (Old Kingdom)
|
2686–2181 BC
|
Giai đoạn trung gian 1 (1st Intermediate Period)
|
2181–2055 BC
|
Vương quốc giai đoạn giữa Middle Kingdom
|
2055–1650 BC
|
Giai đoạn trung gian 2 (2nd Intermediate Period)
|
1650–1550 BC
|
Vương quốc giai đoạn mới (New Kingdom)
|
1550–1069 BC
|
Giai đoạn trung gian 3 (3rd Intermediate Period)
|
1069–664 BC
|
Giai đoạn cuối (Late Period)
|
664–332 BC
|
Thời kỳ Cổ điển (Classical antiquity)
|
332 BC – 629 AD
|
Macedonian and Ptolemaic Egypt
|
332–30 BC
|
Roman and Byzantine Egypt
|
30 BC–641 AD (sau Công nguyên)
|
Sasanian Egypt
|
619–629
|
Thời kỳ Trung đại (Middle Ages)
|
641 – 1517 AD
|
Islamic Egypt
|
641–969
|
Fatimid Egypt
|
969–1171
|
Ayyubid Egypt
|
1171–1250
|
Mamluk Egypt
|
1250–1517
|
Thời kỳ Cận đại (Early modern)
|
1517 – 1914 AD
|
Ottoman Egypt
|
1517–1867
|
Thuộc địa Pháp (French occupation)
|
1798–1801
|
Egypt under Muhammad Ali
|
1805–1882
|
Khedivate of Egypt
|
1867–1914
|
Thời kỳ Ai Cập hiện đại (Modern Egypt)
|
|
Thuộc địa Anh (British occupation)
|
1882–1922
|
Sultanate of Egypt
|
1914–1922
|
Kingdom of Egypt
|
1922–1953
|
Nước cộng hòa (Republic)
|
1953 - nay
|
Aswan là thành phố nằm tại phía Nam của Ai Cập, là thủ phủ của tiểu bang Aswan (Aswan Governorate), thuộc vùng khí hậu sa mạc, là một trong những thành phố nóng nhất, nắng nhất và khô nhất trên thế giới. Aswan theo ngôn ngữ cổ Ai Cập có nghĩa là thương mại hay thị trường.
Thành phố cổ Aswan xưa kia thuộc Nubia, là một vùng dọc theo sông Nile, nằm tại Bắc Sudan và Nam Ai Cập. Tại đây từng có nhiều vương triều Nubia trong suốt thời kỳ Ai Cập Cổ đại. Vào giai đoạn Vương quốc thứ 25 (năm 744- 656, trước CN), phần lớn vùng đất Nubia đã được thống nhất với Ai Cập.
Từ giai đoạn Vương quốc thứ 25, tại Ai Cập đã hình thành một dòng các vị vua có nguồn gốc từ vương quốc Kush. Việc thống nhất của Ai Cập và Nubia đã tạo ra đế chế Ai Cập lớn nhất kể từ thời kỳ New Kingdom (năm 1550–1069 trước CN). Xã hội hòa nhập bằng cách tái khẳng định các truyền thống tôn giáo, đền thờ và các hình thức nghệ thuật Ai Cập kết hợp với khía cạnh độc đáo của văn hóa Nubia (Kush).
Ngày nay, người gốc Nubian chủ yếu sống ở miền Nam Ai Cập, đặc biệt là ở tiểu bang Luxor và Aswan.

Bản đồ Ai Cập và vị trí của thành phố Aswan
Cụm 10 tàn tích công trình kiến trúc tiêu biểu thời Ai Cập Cổ đại và Trung đại tại vùng đất Nubia, từ khu vực Abu Simbel đến đảo Philae, Aswan, Ai Cập, được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 1979; hạng mục i, iii, vi) với các đặc trưng tiểu biểu:
- Là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, nghệ thuật trang trí và điêu khắc tại vùng đất Nubia, miền Nam Ai Cập;
- Là một bằng chứng độc đáo về một nền văn minh tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển của loài người;
- Các cụm công trình trong khu vực Di sản có ý nghĩa nổi bật toàn cầu, gắn trực tiếp tới việc hòa nhập giữa nền văn minh Ai Cập Cổ đại tại vùng Hạ Ai Cập với nền văn hóa Nubia tại vùng Thượng Ai Cập; việc tiếp nhận và chuyển đổi tín ngưỡng bản địa tại Ai Cập sang Hồi giáo.
Di sản các công trình biểu tượng của người Nubian, từ Abu Simbel đến Philae tại Aswan, Ai Cập gồm các hạng mục công trình chính sau:
1) Khu đền Abu simbel, kí hiệu 88-001, diện tích 41,7ha
Khu đền Abu Simbel (Abu Simbel temples), được hình thành vào khoảng năm 1264 trước CN, thuộc triều đại thứ 19 của Pharaoh Ramesses II (còn được gọi là Ramesses Đại đế, trị vì giai đoạn năm 1279-1213 trước CN), vào thời Vương quốc giai đoạn mới (New Kingdom, 1550–1069 trước CN),
Khu vực gồm hai đền lớn, khắc vào sườn núi đá, nằm trên bờ Tây của hồ nhân tạo Nasser, cách thành phố Aswan khoảng 230km về phía Tây Nam. Đây được cho là một trong những địa điểm có nền văn minh sớm nhất của châu Phi Cổ đại.
Việc xây dựng khu đền bắt đầu vào khoảng năm 1264 trước CN và kéo dài khoảng 20 năm, cho đến năm 1244 trước CN, là một trong 6 ngôi đền đá được dựng lên tại khu vực Nubia trong suốt thời kỳ trị vì của Pharaoh Ramesses II.
Khu đền được cho là lâu đài cho nhà vua và hoàng hậu, là tượng đài kỷ niệm chiến thắng của Pharaoh Ramesses II tại trận Kadesh, trận đánh giữa Đế quốc Ai Cập với Đế chế Hittite (Empire Hittite, tồn tại khoảng 1600 – 1178 trước CN, tại phương Bắc, ngày nay là một phần của Thổ Nhĩ Kỳ); được cho là một trong những trận đánh bằng xe ngựa lớn nhất thời bấy giờ với sự tham gia của 5- 6 ngàn chiến xe.
Theo thời gian, ngôi đền rời vào lãng quên và bị cát bao phủ. Năm 1813, công trình mới được các nhà thám hiểm khám phá.
Vào năm 1968, do việc xây dựng đập Aswan, hình thành hồ nhân tạo Nasser, công trình nằm hoàn toàn dưới nước, nên phải di dời đến vị trí cao hơn.
Năm 1964 – 1968, toàn bộ khu vực đền được cắt thành các khối đá lớn (trung bình 20 tấn), tháo dỡ, nâng và lắp lại tại vị mới cao hơn so với vị trí cũ 65m, lùi vào phía trong, cách sông 200m (chi phí di dời lên đến 300 triệu USD tính vào thời điểm 2017). Một số cấu trúc vẫn còn lưu lại dưới lòng hồ.
Khu đền Abu Simbel gồm hai đền: Đền thờ lớn và Đền thờ nhỏ.

Sơ đồ vị trí Khu đền Abu Simbel trên bờ hồ Nasser

Khu đền Abu Simbel với Đền thờ lớn (bên trái) và Đền thờ nhỏ (bên phải)

Mô hình cho thấy vị trí hiện tại và vị trí của Khu đền Abu Simbel khi chưa xây dựng đập nước, tại Bảo tàng Nubian ở Aswan

Sơ đồ mặt bằng và mặt cắt hai đền thờ tại Khu đền Abu Simbel
Đền thờ lớn (Great Temple at Abu Simbel)
Đền được xây dựng trong khoảng 20 năm, hoàn thành vào năm 1265 trước CN.
Đền thờ 3 vị thần Ai Cập Cổ đại: thần Amun (tương tự như thần Zeus, Hy Lạp); Ra-Horakhty (thần Mặt Trời); và Ptah (thần Thợ thủ công và Kiến trúc sư). Đền được coi là một trong những ngôi đền bằng đá tiêu biểu của thời đại Rameses II, và một trong những nơi đẹp nhất ở Ai Cập.
Ngôi đền có mặt tiền rộng 35m, được trang trí bởi 4 bức tượng Pharaoh Ramesses II, ngồi trên ngai vàng, cao đến 20m, được bao bởi các chi tiết với 22 con khỉ đầu chó đang làm nghi lễ cầu nguyện…
Bức tượng bên trái lối vào bị hư hại trong một trận động đất, chỉ còn nguyên vẹn phần dưới. Đầu và thân tượng vẫn nằm ngay dưới chân tượng.
Bên cạch chân của 4 bức tượng lớn là những bức tượng nhỏ, cao đến đầu gối của tượng lớn, miêu tả các vị trong gia đình hoàng gia của Pharaoh Ramesses II, như hoàng hậu, con trai, con gái vua.
Phía trên lối vào chính được trang trí bằng một pho tượng thần Mặt trời - Ra Harakhti với hình tượng đầu chim ưng đội đĩa Mặt trời, đặt trong một hốc lớn.
Ngôi đền có cấu trúc phức tạp với nhiều phòng bên trong.
Từ lối vào dẫn đến sảnh chính với các hàng cột bên trong (Hypostyle), dài 18m x 16,7m với 8 hàng cột khổng lồ, miêu tả thần Osirid (một vị thần Ai Cập Cổ đại, vị thần của thế giới bên kia).
Trên tường và vòm mái có các bức tranh, điêu khắc mô tả cảnh chiến đấu trong các chiến dịch quân sự do Pharaoh Ramesses II tiến hành, đặc biệt là trận đánh Kadesh. Hai bên sảnh chính là 8 căn phòng (Side champers), đi vào thông qua các hành lang hẹp, thấp, được dùng là kho chứa các đồ vật thờ cúng.
Từ phòng Hypostyle dẫn tới một phòng tiền sảnh (Vestibule) có hai hàng cột, mỗi hàng 2 cột, được trang trí bằng hình tượng của các vị thần. Tiếp đó là một phòng chạy theo phương ngang (Transverse chamber). Từ đây dẫn tới một không gian nhỏ, là nơi thờ (Sanctuary). Bức tường cuối của không gian linh thiêng này là một bức tường màu đen. Phía trước bức tường là 4 bức tượng ngồi bằng đá, gồm 3 vị thần: Ra-Horakhty, Amun Ra, Ptah và tượng Pharaoh Ramesses II.
Người ta tin rằng trục của ngôi đền được bố cục sao cho vào ngày 22/10 (ngày lễ đăng quang) và 22/2 (ngày sinh của vua) tia sáng mặt trời sẽ chiếu vào bên trong đền, đến tận không gian trong cùng, nơi đặt tượng 3 vị thần và tượng Pharaoh Ramesses II.

Cắt, di dời và lắp đặt tượng tại địa điểm mới, Đền thờ lớn, Khu đền Abu Simbel

Đền thờ lớn, Khu đền Abu Simbel

Bên trong gian sảnh chính Đền thờ lớn, Khu đền Abu Simbel

Tượng bên trong gian thờ tại Đền thờ lớn, Khu đền Abu Simbel
Đền thờ nhỏ (Small Temple at Abu Simbel)
Đền thờ thần Hathor (là một nữ thần Ai Cập Cổ đại, thần âm nhạc, khiêu vũ, giúp phụ nữ sinh con, bảo trợ cho thợ mỏ) và hoàng hậu Nefertari vợ Pharaoh Ramesses II.
Mặt tiền của ngôi đền được trang trí bởi hai nhóm hàng gờ cột tạo thành 6 hốc tường, được ngăn cách bởi cổng vào đền. Tại đây có 6 bức tượng lớn, cao hơn 10m, gồm 4 tượng nhà vua và 2 tượng hoàng hậu. Xung quanh chân của các bức tượng lớn là những bức tượng nhỏ, là tượng của các con trai, con gái nhà vua.
Cấu trúc bên trong Đền thờ nhỏ, tương tự như Đền thờ lớn, nhưng có quy mô nhỏ hơn. Từ cổng vào đền dẫn đến sảnh chính (Hypostyle) với 2 hàng cột, mỗi hàng 3 cột. Bề mặt chính của các hàng cột này đều trang trí phù điêu hình tượng mặt nữ thần Hathor nên loại cột này còn được gọi là Hathoric. Trên bề mặt cột còn trang trí các vị thần Ai Cập Cổ đại khác.
Các bức tường bên trong sảnh chính trang trí các bức phù điêu và tranh vẽ miêu tả các sự kiện lịch sử của vương triều, cũng như sự tích liên quan đến các vị thần.
Từ không gian sảnh chính tiếp đến không gian chạy theo phương ngang (Transverse chamber) và kết thúc là không gian thờ (Sanctuary). Tại đây không có các không gian phòng phụ (Side champers).
Tương tự như Đền thờ chính, Đền thờ nhỏ có các vị thày tu đại diện cho nhà vua tổ chức các nghi lễ tôn giáo hàng ngày. Các vị thày tu để đại được vị trí quan tư tế phụ trách nghi lễ hoàng gia phải có kiến thức rộng lớn về khoa học và nghệ thuật tương tự như một pharaoh, đó là các kỹ năng và kiến thức về: Đọc, viết, kỹ thuật, số học, hình học, thiên văn học, phép đo không gian, tính toán thời gian…Họ trở thành những người lưu giữ các kiến thức thiêng liêng và được cho là tinh hoa của quôc gia.

Mặt trước Đền thờ nhỏ, Khu đền Abu Simbel

Bên trong Đền thờ nhỏ, Khu đền Abu Simbel
2) Khu đền Amada, kí hiệu 88-002, diện tích 105,96ha
Đền Amada (Temple of Amada) là một trong những ngôi đền cổ nhất của Ai Cập tại vùng Nubia, được xây dựng bởi Pharaoh Thutmose III (trị vì trong giai đoạn năm 1479 – 1425 trước CN, triều đại thứ 18 vào thời Vương quốc giai đoạn mới - New Kingdom, năm 1550 – 1069 trước CN). Đền thờ thần Amun và thần Ra-Horakhty (thần Mặt Trời). Đền tiếp tục được trang trí bởi con trai và người kế nhiệm vua là Amenhotep II (trị vì trong giai đoạn năm 1427-1401 trước CN).
Đền có tường kín bao quanh, phía trước là hàng hiên, bên trong là hành lang dẫn đến gian thờ.
Người kế nhiệm Amenhotep II, là vua Thutmose IV (trị vì trong giai đoạn năm 1401 - 1391 trước CN) đã xây dựng thêm một không gian phía trước đền, dạng sảnh lớn với các hàng cột (Hypostyle hay Pillared Hall), tường xung quanh có các trụ tường (Engaged Pillars).
Mặt bên ngoài của khối đền cũ và xây dựng bổ sung đều đơn giản, song bên trong được trang trí bằng nhiều bức phù điêu với màu sắc tươi sáng miêu tả các cảnh nghi lễ.
Ngôi đền được khám phá vào năm 1913. Từ năm 1964- 1975, đền được di chuyển đến địa điểm mới có cao độ cao hơn 65m so với địa điểm cũ và cách địa điểm cũ khoảng 2,5km để tránh khỏi bị ngập lụt khi đắp đập Aswan và hình thành hồ Nasser.

Sơ đồ vị trí Khu đền Amada

Tàn tích Đền Amada

Sơ đồ mặt bằng Đền Amada
3) Khu đền Wadi Sebua, kí hiệu 88-003 diện tích 139,3 ha
Khu đền Wadi Sebua (Temple of Wadi Sebua) hay Thung lũng của Nhân sư (Valley of the Lions) là nơi có các ngôi đền, phía trước có các tượng Nhân sư hoặc hàng Nhân sư (đầu người, mình sư tử).
Khu vực đền Wadi Sebua gồm hai ngôi đền nằm trong một hẻm núi, được xây dựng vào thời Vương quốc giai đoạn mới (New Kingdom, năm 1550 - 1069 trước CN), tại vùng hạ Hạ Nubia (Lower Nubia), là phần đất phía Bắc của khu vực Nubia và Thượng Ai Cập.
Ngôi đền đầu tiên được xây dựng bởi Pharaoh Amenhotep III (trị vì trong giai đoạn năm 1388-1351 trước CN, triều đại thứ 18), vì vậy còn gọi là Đền Amenhotep III. Ban đầu đền thờ thần Horus (là một trong những vị thần lâu đời nhất của Ai Cập Cổ đại; là thần giám hộ, được miêu tả như người đàn ông đầu chim ưng), sau đó thờ thần Amun. Đền được Ramesses II (trị vì giai đoạn năm 1279-1213 trước CN) mở rộng bằng cách xây dựng thêm cấu trúc ở phía trước đền.
Đền Amenhotep III có trục theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, gồm nhiều lớp không gian.
Phía trước là một bức tường cổng (First Pylon), tiếp đó là sân đầu tiên (First Courtyard) với hàng tượng Nhân sư (Sphinxes). Không gian tiếp theo bắt đầu từ bức tường cổng thứ hai (Second Pylon), là bức tường dày, phía trong là sân thứ hai (Second Courtyard) với 4 nhân sư.
Từ đây có bậc lên tiếp cận tường cổng thứ ba (Third Pylon). Phía trước cổng là 4 bức tượng khổng lồ (Colossal Statues) của Ramesses II. Sân trong thứ ba (Third Courtyard) có 10 hàng cột đá (Engaged Osirion Pillars). Hai bên sân là không gian phụ chuẩn bị đồ tế lễ (Slaughter Yard).
Tiếp đó là không gian sảnh (Hypostyle) với 12 trụ vuông nằm trong lòng núi đá. Từ đây dẫn đến tiền sảnh (Antechamber) và đến không gian thờ phía sau (Rear Niche).
Ngôi đền thứ hai do Ramesses II xây dựng nên được gọi là Đền Ramesses II (Temple of Ramesses II in the Domain of Amun), nằm tại el-Sebua, cách 150m về phía Đông Bắc Đền thứ nhất.
Vào năm 1964, do vùng đất bị ngập nước khi xây dựng đập cao Aswan và tạo ra hồ Nasser, các ngôi đền đã được tháo dỡ và di chuyển đến một địa điểm mới, cách địa điểm cũ 4km về phía Tây. Một số đền như Đền Dakka (Temple of Dakka) và Đền Maharraqa (Temple of Maharraqa) cũng được di chuyển tới đây, tại khu vực đền Wadi es-Sebua mới.

Sơ đồ Khu đền Wadi Sebua

Sơ đồ mặt bằng Đền Amenhotep III tại Khu đền Wadi Sebua

Dãy tượng nhân sư phía trước Đền Amenhotep III, Khu đền Wadi Sebua

Sân trong Đền Amenhotep III, Khu đền Wadi Sebua

Trang trí bên trong Đền Amenhotep III, Khu đền Wadi Sebua

Đền Dakka

Đền Maharraqa
4) Khu đền Kalabsha, kí hiệu 88-004 diện tích 105,96ha
Đền Kalabsha (Temple of Kalabsha) còn được gọi là Đền Mandulis, nằm tại bờ Tây sông Nile, tại vùng Nubia. Đền được xây dựng vào khoảng năm 30 trước CN, trong thời kỳ Ai Cập thuộc Hy Lạp (Macedonian and Ptolemaic Egypt, giai đoạn năm 332–30 trước CN), tại triều đại của Hoàng đế La Mã Augustus (năm 27 trước CN đến 4 sau CN) và chưa bao giờ được hoàn thành.
Đền thờ thần Mandulis (một dạng của thần Horus, mình người, đầu chim, vị thần của vương quyền và bầu trời), được xây dựng trên nền của một đền thờ trước đó, có chiều dài 76m, rộng 22m.
Đền nằm bên cạch sông Nile, kề liền một bến đỗ tàu thuyền (Quai). Phía trước đền là một bức tường cổng dày (Pylone). Qua cổng vào sân trong (Cour) với hàng hiên tại 3 phía. Từ đây dẫn đến không gian sảnh với hàng 8 cột đỡ mái (Hypostyle). Tiếp đó là các gian thờ (Sanctuaire). Cạnh bên của gian thờ là một cái giếng (Puits). Xung quanh đền thờ là các lớp tường dày bảo vệ. Bên trong đền có nhiều bức chạm khắc nổi bật.
Khi Cơ đốc giáo truyền đến Ai Cập, ngôi đền được sử dụng như một nhà thờ.
Đền Kalabsha cũng phải di chuyển đến địa điểm mới do xây dựng đập Aswan và hình thành hồ Nasser. Công trình được đánh giá là một trong những ví dụ tốt nhất của kiến trúc Ai Cập tại vùng Nubia.

Sơ đồ vị trí Khu đền Kalabsha

Sơ đồ mặt bằng và hình ảnh xưa kia của Khu đền Kalabsha

Phối cảnh tàn tích Khu đền Kalabsha

Trang trí bên trong Đền Kalabsha
5) Khu vực đền Philae, kí hiệu 88-005iện tích 3,08ha
Philae là một hòn đảo trong hồ chứa của đập cũ Aswan (đập xây dựng năm 1902, với chiều cao 36m).
Vào thời Ai Cập Cổ đại, khu vực này là một trung tâm thương mại, nơi giao lưu giữa thành phố Meroë (thủ đô của Vương quốc Kush trong nhiều thế kỷ, tồn tại trong giai đoạn năm 785 trước CN đến năm 350 sau CN, thuộc Sudan và Nam Sudan ngày nay) và thành phố Memphis (thủ đô của Vương quốc Ai Cập cổ - Old Kingdom, giai đoạn năm 2686–2181 trước CN, và sau đó là một thành phố quan trọng cho đến thế kỷ thứ 7 sau CN).
Trên đảo Philae có một quần thể đền từ thời Ai Cập Cổ đại.
Ngôi đền đầu tiên được xây dựng vào thời của các vương triều cuối cùng của thời kỳ Ai Cập Cổ đại, là nơi thờ nữ thần Hathor, biểu tượng của tình yêu, người mẹ.
Vào thời kỳ Cổ điển, trong giai đoạn trị vì của Vương quốc Ptolemaic (năm 332 – 30 trước CN), ngôi đền chính thờ nữ thần Isis, biểu tượng của sức mạnh ma thuật và các vị thần khác. Các nhà Ai Cập học tin rằng, Philae là địa điểm hoạt động cuối cùng của tôn giáo Ai Cập Cổ đại và chữ tượng hình Ai Cập cuối cùng cũng được viết tại đây, vào cuối thế kỷ thứ 4.
Vào thời kỳ vương triều Hoàng gia Byzantine Justinian I (trị vì năm 527-565), ngôi đền chính thức đóng cửa. Những thế kỷ sau đó thờ thành nhà thờ Cơ đốc giáo.
Nổi bật nhất trong Quần thể đền Philae là Đền thờ Isis (Temple of Isis). Đền có cấu trúc rất điển hình của các ngôi đền Ai Cập Cổ đại với nhiều lớp không gian.
Từ ngoài vào là bức tường cổng đầu tiên (First Pylon) với lối vào chính cao đến 18m, tiếp đến là sân trong hay tiền đường (Forecourt). Hai bên sân, phía Đông là một hàng cột (East Colonnade), phía Tây là một đền thờ nhỏ (Mammissi). Từ sân theo bậc thang đến bức tường cổng thứ hai (Second Pylon), dẫn đến một không gian sảnh (Hypostyle) với 10 trụ tròn, từ đây đến khu vực thờ phía sau cùng.
Trên các cột, tường, trần nhà đều được điêu khắc, sơn màu sắc sống động.
Phía Tây của đền có một cổng khải hoàn (Hadrian Gate) và đền thờ Harendotes (Temple of Harendotes).
Kề liền đảo Philae là đảo Bigga, là nơi chứa đựng tàn tích của nhiều ngôi đền Ai Cập cổ.
Năm 1902, đập Aswan thấp được hoàn thành (Aswan Low Dam, cao 36m), làm ngập chìm nhiều đền thờ, trong đó có khu đền Philae.
Quần thể đền Phila sau đó được tháo dỡ và di chuyển đến đảo Agilia, là đảo có kích thước nhỏ hơn, nằm tại phía Tây Bắc của đảo Phila. Việc tháo dỡ, di chuyển và xây dựng lại khu đền trên đảo Agilia mất hơn 9 năm.

Sơ đồ vị trí đảo Philae và đảo Agilia nằm trong khu vực giũa hai đập Aswan

Sơ đồ Quần thể đền Philae trước khi di dời đến đảo Agilia

Sơ đồ phạm vi Di sản trên đảo Agilia

Đảo Agilia nơi di dời Quần thể đền từ đảo Phila

Mặt trước Quần thể đền Philae

Sơ đồ mặt bằng Đền thờ Isis tại Quần thể đền Philae

Bức tường cổng thứ nhất, Đền thờ Isis tại Quần thể đền Philae

Phối cảnh sân trong trước bức tường cổng thứ hai

Nội thất không gian sảnh Đền thờ Isis tại Quần thể đền Philae

Cổng khải hoàn (Hadrian Gate)
6) Khu mộ thời Vương quốc cổ và trung cổ, kí hiệu 88-006 diện tích 32,68ha
Khu mộ thời Vương quốc cổ và trung cổ (Old and Middle Kingdom Tombs, kéo dài từ năm 2686- 2181 trước CN đến năm 2181–2055 trước CN) nằm trên sườn một ngọn núi cao 171m, tại bờ Tây của sông Nile, thuộc khu vực có tên Qubbet el-Hawa.
Các ngôi mộ tại Qubbet el Hawa chủ yếu là mộ của các quan chức địa phương, có ít nhất ba lớp chồng lên nhau. Khu vực nghĩa trang dường như không có giới hạn do nằm gần như hoàn toàn trong lòng núi đá. Đỉnh của ngọn núi là Nhà thờ Coptic (Coptic Church, Giáo Hội Cơ Đốc Giáo ở Ai Cập, hiện chỉ còn lại tàn tích của tu viện).
Các ngôi mộ đá được người châu Âu phát hiện vào năm 1819 và khai quật trong những năm 1885- 1886.
Ttại đây đã phát hiện được khoảng 100 ngôi mộ.
Các ngôi mộ chìm vào trong núi đá phần lớn có cấu trúc: Sân trước, tiếp đến là một không gian phòng lớn với các hàng cột, có những ngôi mộ lớn với số cột lên đến 18 cột, tiếp đó là hành lang dẫn đến hầm mộ. Bên trong hầm mộ có quan tài bằng đá, tường được trát vữa và trang trí.
Các lăng mộ chính tại đây cung cấp nhiều thông tin về tang lễ tại khu vực Thượng Ai Cập. Một số ngôi mộ nổi tiếng như:
- Mộ của Sarenput II, thống đốc (Nomarch) triều đại thứ 12, giai đoạn Vương quốc cổ: Ông đã xây dựng cho mình ngôi mộ tốt nhất và lớn nhất tại Qubbet el-Hawa. Cấu trúc bên trong mộ: Từ sân có đường hầm dẫn đến một không gian lớn với 6 cột trụ. Từ đây theo một hành lang dẫn đến không gian đặt mộ. Bên trong mộ được trang trí những cảnh được vẽ rất chi tiết, sống động.
- Mộ của Harkhuf, thống đốc triều đại thứ 6, giai đoạn Vương quốc cổ. Trong ngôi mộ có nhiều bản khắc về nghi lễ và các sự kiện chính của Ai Cập thời bấy giờ và cuộc đời của chủ nhân ngôi mộ.
- Mộ của Heqaib (Pepinakht), thống đốc triều đại thứ 6, giai đoạn Vương quốc cổ.
- Khu mộ của Sabni, thông đốc triều đại thứ 6, giai đoạn Vương quốc cổ. Khu mộ bao gồm mộ của ông và gia đinh, như mộ của Mekhu, cha của Sabni. Trên sân thượng của khu mộ có cả nhà nguyện.
Công việc khai quật tìm kiếm hiện vẫn đang tiếp diễn.

Sơ đồ 5 địa điểm Di sản còn lại: Khu mộ thời Vương quốc cổ và trung cổ; Thị trấn cổ Elephantine; Khu vực mỏ đá và cột đá; Tu viện Thánh Simeon; Nghĩa trang Hồi giáo

Khu mộ thời Vương quốc cổ và trung cổ nằm trên sườn một ngọn núi, tại bờ Tây sông Nile, khu vực Qubbet el-Hawa.

Sơ đồ mặt bằng mộ của Sarenput II,

Trang trí bên trong mộ của Sarenput II

Lối vào khu Mộ của Harkhuf

Mặt trước ngôi mộ của Heqaib

Trang trí bên trong ngôi mộ của Heqaib

Bên trong ngôi mộ của Mekhu, thuộc khu mộ của Sabni

Một bức trang trí bên trong ngôi mộ của Sabni
7) Tàn tích thị trấn Elephantine, kí hiệu 88-007 diện tích 8,52ha
Thị trấn cổ Elephantine (Ruins of town of Elephantine) nằm tại góc phía Nam của hòn đảo Jazirat Aswan (dài 1200m, rộng 400m) trên sông Nile. Vào thời kỳ Ai Cập Cổ đại, hòn đảo là một trong những mỏ đá granite quan trọng cung cấp cho việc xây dựng các đền thờ, lăng mộ…
Các cuộc khai quật tại đây đã phát hiện được nhiều hiện vật, bao gồm xác ướp tại đền Khnum, tiền xu; lịch…thuộc thời trị vì của vua Thutmose III (năm 1479 -1425 trước Công nguyên), trong triều đại thứ 18…Các hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Aswan (Aswan Museum), nằm trên đảo.
Trên đảo có nhiều ngôi đền, trong đó nổi bật là đền Khnum (Temple of Khnum), nằm trong khu tàn tích Abu (Ruins of Abu), là khu định cư cổ nhất của Aswan. Đền được xây dựng vào triều đại thứ 3 của Ai Cập Cổ đại. Sau đó được xây dựng lại vào triều đại thứ 30. Đền thờ thần Khnum, một trong những vị thần đầu tiên của Ai Cập Cổ đại, là vị thần sông Nile, thường được miêu tả với hình dạng mình người, đầu linh dương. Mặt bằng của đền có cấu trúc tương tự như các ngôi đền thời bấy giờ, gồm các không gian: Bức tường cổng; Sân trong với hành lang bao quanh; Không gian sảnh với các hàng cột; Gian thờ.
Vào giữa tháng 7 – 11, nước sông Nile chảy qua Ai Cập dâng cao tràn bờ, mang trầm tích phù sa cho các vùng đồng bằng ven sông. Tại phía Đông của Khu di tích cổ Abu và Bảo tàng Aswan (Aswan Museum) có một bậc thang với 52 bậc đi xuống sông Nile, được cho là một trong 3 cấu trúc đo (nilometer) mức nước lũ hàng năm trên sông Nile (cột đá, bậc thang và giếng sâu), từ đó dự đoán sự bội thu của mùa màng.

Sơ đồ mặt bằng đền Khnum, tại thị trấn cổ Elephantine

Đền Khnum, tại thị trấn cổ Elephantine

Bậc thang xuống sông, một thiết bị đo (nilometer ) mức nước sông Nile
8) Mỏ đá và cột đá, kí hiệu 88-008 diện tích 4,34ha
Khu vực mỏ đá và cột đá (Stone quarries and obelisk) nằm tại bờ Đông của sông Nile. Đá khai thác tại mỏ là đá granite màu đỏ, xám và đen. Tại đây có những tàn tích của một số kết cấu đá, như Cột tưởng niệm còn đang dang dở (Unfinished obelisk). Cột được chế tác theo đơn đặt hàng của vua Hatshepsut (trị vì năm 1508-1458 trước CN, triều đại thứ 18), dài 42m, nặng khoảng 1200 tấn. Phần bệ của cột tưởng niệm vẫn còn nằm trong nền đá. Cột đá cung cấp những hiểu biết về kỹ thuật đẽo đá của người Ai Cập Cổ đại với những dấu vết của các công cụ chế tác đá.
Bên cạnh cột tưởng niệm, người ta còn phát hiện một số cấu kiện đá khác chưa hoàn thành, như các tấm đá granite nặng đến 50 tấn để làm trần hầm mộ trong các kim tự tháp…
Hiện tại mỏ đá với các cột đá đã trở thành bảo tàng ngoài trời.

Tàn tích Khu vực mỏ đá và cột đá

Cột tưởng niệm còn đang giai đoạn hoàn thiện tại mỏ đá
9) Tu viện Thánh Simeon kí hiệu 88-009 diện tích 2,78ha
Tu viện Thánh Simeon (Monastery of St. Simeon) nằm tại Khu vực Deir Amba Samaan, bờ Tây sông Nile. Tu viện giống như một pháo đài, được xây dựng vào thế kỷ thứ 7, sau đó được xây dựng lại vào thế kỷ thứ 10 và dành cho Thánh Simeon. Từ đây các nhà tu hành đi đến các vùng đất Nubia với hy vọng biến vùng này thành vùng Kito giáo.
Tu viện cuối cùng bị bỏ hoang vào thế kỷ 13 do thiếu nước. Đây là một trong những tu viện lớn nhất và được bảo tồn tốt nhất tại Ai Cập.
Tu viện có bố cục thành hai phần. Phần phía thấp (Lower level) và phần trên cao (Upper level), được bao quanh bởi các bức tường cao 10m. Phần phía thấp có lối vào tu viện và nhà thờ…; Phần trên cao có khu nhà ở (Living quarters) và văn phòng (Offices).
Vào thời hoàng kim, tu viện có thể chứa được 1000 nhà tu hành. Một phần của tu viện bị phá hủy do chiến tranh vào năm 1173.
Các công trình trong tu viện được xây dựng bằng gạch bùn với các mái vòm, được cho bắt nguồn từ một trong phát minh của người Nubian – Mái vòm Nubian (Nubian vault).

Tu viện Thánh Simeon

Sơ đồ mặt bằng Tu viện Thánh Simeon

Bên ngoài tàn tích Tu viện Thánh Simeon

Sân trong Tu viện Thánh Simeon
10) Nghĩa trang Hồi giáo, kí hiệu 88-0010 diện tích 28,05ha
Nghĩa trang Hồi giáo (Islamic Cemetery) nằm tại bờ Đông Nile, kế liền Khu vực mỏ đá và cột đá.
Nghĩa trang được hình thành vào giai đoạn Islamic Egypt (641–969) - Fatimid Egypt (969–1171), gắn liền với thời kỳ Ai Cập chuyển dần thành quốc gia Hồi giáo.
Nghĩa trang hàng trăm năm tuổi này lưu giữ những dữ liệu quan trọng về đời sống tâm linh, nghi lễ của người dân vùng Nubia cổ xưa. Một số nhà mồ có mái dạng vòm Nubian (Nubian vault) bằng gạch bùn.

Một góc Nghĩa trang Hồi giáo
Di sản văn hóa Những công trình biểu tượng của người Nubian, từ Abu Simbel đến Philae tại Aswan, Ai Cập là một trong những tuyệt tác của con người; điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới của nền văn minh Ai Cập, phát triển rực rỡ tại khu vực Thượng Ai Cập.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
http://whc.unesco.org/en/list/88
https://en.wikipedia.org/wiki/Nubians
https://en.wikipedia.org/wiki/Aswan
https://en.wikipedia.org/wiki/Abu_Simbel_temples
https://en.wikipedia.org/wiki/Great_and_Small_Temples_of_Abu_Simbel
https://en.wikipedia.org/wiki/Amada
https://en.wikipedia.org/wiki/Wadi_es-Sebua
https://en.wikipedia.org/wiki/Temple_of_Dakka
https://en.wikipedia.org/wiki/Temple_of_Kalabsha
https://en.wikipedia.org/wiki/Philae
https://en.wikipedia.org/wiki/Qubbet_el-Hawa
http://www.nefershapiland.de/qubbet_el-hawa.htm
https://en.wikipedia.org/wiki/Heqaib
https://en.wikipedia.org/wiki/Elephantine
https://en.wikipedia.org/wiki/Unfinished_obelisk
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|