Thông tin chung:
Công trình: Các thị quốc Pyu, Myanmar (Pyu city-states Myanmar)
Địa điểm: Myanmar (N22 28 12 E95 49 7)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích khu vực Di sản: 5809 ha; Vùng đệm: 6.790 ha
Năm hình thành: Từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên đến thế kỷ 9
Giá trị: Di sản thế giới (2014, hạng mục: ii, iii, iv )
Myanmar (Miến Điện, Burma) là một quốc gia ở Đông Nam Á, giáp Ấn Độ và Bangladesh ở phía Tây, Thái Lan và Lào ở phía Đông và Trung Quốc ở phía Bắc và Đông Bắc.
Myanmar có diện tích khoảng 676,578 km2, dân số khoảng 53, 582 triệu người (năm 2017). Thủ đô là thành phố Naypyidaw (Nay Pyi Taw), thành phố lớn nhất là Yangon (Rangoon).
Myanmar được chia thành 7 bang và 7 vùng hành chính. Các bang thực chất là các vùng sinh sống của một số sắc tộc đặc biệt. Các vùng hành chính được chia nhỏ tiếp thành các thành phố, khu vực và làng. Thành phố lớn được chia thành các quận.
Nền văn minh ban đầu tại Myanmar gồm các thị quốc Pyu (Pyu city-states, mỗi thành phố là mỗi quốc gia) nói tiếng Tạng- Miến (Tibeto-Burman-speaking) tại khu vực Thượng Miến Điện (Upper Burma) và các vương quốc Mon (Mon kingdoms) tại Hạ Miến Điện (Lower Burma).
Đến thế kỷ thứ 9, người Bamar, là một nhóm dân tộc Trung – Tây Tạng (Sino-Tibetan ethnic group) và quốc gia có nguồn gốc Myanmar (Burma), tiến đến thung lũng Thượng Irrawaddy (Upper Irrawaddy Valley), lập vương quốc Pagan (Pagan Kingdom) trong thập niên 1050. Từ đây, ngôn ngữ-văn hóa Burma cùng Phật giáo Nam Tông (Theravada Buddhism) dần dần chiếm ưu thế tại Myanmar.
Vương quốc Pagan sụp đổ trước các cuộc xâm chiếm của quân Mông Cổ. Sau đó xuất hiện một số quốc gia nhỏ, thường xuyên tranh đoạt lẫn nhau.
Đến thế kỷ 16, Myanmar tái thống nhất dưới triều đại Taungoo (Taungoo Dynasty, tồn tại năm 1510–1752, là một trong những triều đại vĩ đại nhất trong lịch sử Myanma. Taungoo là gọi theo tên kinh đô đầu tiên của triều đại này, hiện là thành phố Taungoo, vùng Bago), sau đó từng trở thành một trong những quốc gia lớn nhất trong lịch sử Đông Nam Á.
Đến đầu thế kỷ 19, Myanmar thuộc triều Konbaung (Konbaung Dynasty), là triều đại cuối cùng cai trị Myanmar từ năm 1752 đến năm 1885, đế chế lớn thứ hai trong lịch sử Myanmar, kế tiếp triều đại Taungoo và đặt nền móng cho nhà nước Myanmar hiện đại.
Người Anh chiếm được Myanmar sau ba cuộc chiến tranh Anh - Myanmar (Anglo-Burmese Wars) và chấm dứt chế độ quân chủ Myanmar vào năm 1885. Myanmar trở thành thuộc địa của Anh. Năm 1948, Myanmar đã giành lại được độc lập.
Bản đồ Myanmar và vị trí các vùng Bago, Magway và Sagaing, nơi có các thị quốc Pyu
Các thị quốc Pyu là tên gọi chung cho các thành phố tồn tại như một quốc gia của người Pyu ở miền Bắc và Trung Myanmar (khu vực Thượng Miến Điện) từ thế kỷ 2 trước công nguyên (TCN) cho đến thế kỷ 9. Người Pyu là một trong những dân tộc tổ tiên của người Myanmar.
Thư tịch cổ Trung Quốc gọi quốc gia của người Pyu là nước Phiêu, có tới 18 vương quốc Phiêu – mỗi một vương quốc là một thành phố (thị quốc). Quy mô đất đai của mỗi thị quốc Pyu vào khoảng 660-1400 ha. Số dân của cả vương quốc Phiêu vào khoảng vài trăm ngàn người. Người Phiêu theo đạo Phật.
Tại đây, những thị quốc chính là Tagaung; Halin; Maingmaw; Binnaka; Beikthano; Sri Ksetra. Các thị quốc Pyu không thống nhất thành một vương quốc, nhưng các thị quốc mạnh hơn thường chiếm ưu thế và nhận cống nạp từ các thị quốc nhỏ. Thị quốc lớn nhất là Sri Ksetra.
Các thị quôc đã phát triển mạng lưới giao dịch thương mại với nhau và với các trung tâm thương mại khác tại khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ.
Thời đó con đường thương mại từ Trung Quốc sang Ấn Độ đi qua Myanmar. Tuy nhiên người Pyu có một lộ trình khác, đi về phía Nam ra biển, sau đó đi về phía Tây tới Ấn Độ và phía Đông để tới Đông Nam Á.
Trong thế kỷ thứ 7 người Pyu dịch chuyển trung tâm của quốc gia lên phía Bắc, để lại Sri Ksetra như là trung tâm hạng hai với vai trò chủ yếu là thương mại. Tuy nhiên đô thị trung tâm của nước Phiêu đã bị vương quốc láng giềng cướp phá vào giữa thế kỷ thứ 9. Sự kiện này dẫn đến sự diệt vong của các thị quốc Pyu.
Các thị quốc Pyu xưa nay chỉ còn lại các tàn tích như móng nhà, tường thành, hào bao quanh thành, bảo tháp Phật giáo, các dấu vết của hệ thống thủy nông phục vụ canh tác nông nghiệp.
Sự tương tác hòa hợp giữa văn hóa Pyu bản địa với văn hóa Ấn Độ, tạo điều kiện cho Phật giáo có được chỗ đứng lâu dài đầu tiên của mình tại Đông Nam Á. Tại đây hình thành nên các hình thức kiến trúc sáng tạo trước đây chưa từng có - Đô thị Pyu Phật giáo. Sự phát triển của văn hóa Đô thị Pyu Phật giáo đã có tác động rộng rãi, lâu dài và là hình mẫu cho các quốc gia khác tại Đông Nam Á.
Tại các thị quốc Pyu đã xuất hiện các cộng đồng tu viện Phật giáo có học thức; việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp dựa trên quản lý có hiệu quả về tài nguyên nước khan hiếm theo mùa với hệ thống kênh, đập và hồ chứa; xuất hiện các chuyên ngành sản xuất hàng hóa như đồ gốm, đồ chế tác từ sắt, vàng, bạc và đá quý cao cấp sử dụng cho mục đích tôn giáo và thương mại.
Tại đây đã thúc đẩy việc xây dựng các công trình từ kỹ thuật xây dựng bằng gỗ trước đó thành kỹ thuật xây dựng các vật liệu bền vững như gạch, đá.
Việc ứng dụng các công nghệ mới trong quản lý tài nguyên nước, nông nghiệp và sản xuất gạch và sắt tại thị quốc Pyu tạo ra những tiến bộ đáng kể trong quy hoạch đô thị và xây dựng tòa nhà.
Trong các thị quốc Pyu đã phát triển phương thức sử dụng các bình đựng di cốt hỏa táng để chôn cất; sử dụng tiền đúc bằng bạc và là mô hình cho hầu hết các loại tiền đúc sau này tại khu vực Đông Nam Á.
Hình thái Đô thị Pyu Phật giáo là một hình hình mẫu với đặc trưng bởi 1 vòng thành xây dựng kiên cố, mạng lưới đường giao thông và kênh mương nối không gian đô thị bên trong thành với các khu vực rộng lớn bên ngoài thành. Trong thành là nơi ở của các hộ dân, nơi bố trí các kiến trúc tôn giáo với các bảo tháp, tu viện. Điểm giữa của thành là hoàng cung, trung tâm chính trị, kinh tế và xã hội Pyu. Các thị quốc thường được quy hoạch có mặt bằng theo dạng hình vuông, chữ nhật và có cả hình tròn, sử dụng đến 12 cổng ra vào. Thành được đặt theo một trục không gian nào đó, liên quan đến tự nhiên. Công trình Phật giáo như chùa tháp, tu viện chịu ảnh hưởng của kiến trúc vùng Đông Nam Ấn Độ.
Có 3 thị quốc chính là Halin, Beikthano và Sri Ksetra. Đây là các minh chứng nổi bật cho các hoạt động về thương mại, tổ chức tôn giáo cũng như xây dựng hệ thống công trình kiến trúc và tưới tiêu nông nghiệp. 3 thành phố phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của Vương quốc Pyu trong hơn 1.000 năm từ năm 200 TCN đến năm 900 sau Công nguyên.
Ba thành phố là các địa điểm khảo cổ được khai quật một phần.
Những di tích khám phá được bao gồm một phần các bức tường thành, đường xá, cung điện, tu viện, khu chôn cất, địa điểm sản xuất, bảo tháp Phật giáo bằng gạch hoành tráng và các công trình quản lý nước (một số vẫn còn được sử dụng) thể hiện một nền nông nghiệp thâm canh có tổ chức trong vùng khô hạn của lưu vực sông Ayeyarwady (Irrawaddy).
Các thành phố cổ Pyu cung cấp bằng chứng sớm nhất về sự du nhập của Phật giáo vào Đông Nam Á gần hai nghìn năm trước với những chuyển đổi kinh tế, chính trị xã hội và văn hóa dẫn đến sự hình thành các khu định cư đô thị hóa đầu tiên, lớn nhất và lâu đời nhất tại khu vực này cho đến thế kỷ thứ 9.
Các thành phố cổ Pyu đã cho thấy một khả năng nổi bật trong việc đồng hóa các ảnh hưởng của đức tin ngoại nhập từ Ấn Độ để chuyển sang một mức độ văn hóa mới.
Những người Pyu đã tạo ra một hình thức đô thị hóa đặc biệt, dạng đô thị mở (mở về đức tin, giai tầng xã hội, sản xuất, giao thương và cả về không gian với bên ngoài), sau đó đã tác động đến quá trình đô thị hóa ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. Ngoài ra, những thị quốc Phật giáo sớm nhất này còn đóng một vai trò quan trọng trong quá trình truyền tải văn hóa.
Các di tích tôn giáo tại đây vẫn tiếp tục được tôn kính bởi những người hành hương Phật giáo từ khắp khu vực xung quanh.
Các thị quốc Pyu, Myanmar được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới với các tiêu chí:
Tiêu chí (ii): Do sự tương tác giữa xã hội Pyu bản địa với nền văn hóa Ấn Độ từ thế kỷ thứ 2 TCN, Phật giáo đã đạt được chỗ đứng thường trực đầu tiên ở Đông Nam Á tại các thị quốc Pyu. Đây là nơi Phật giáo được chấp thuận bởi tất cả các giai tầng của xã hội, từ tầng lớp cầm quyền cho đến người dân lao động nông nghiệp.
Với các công trình bảo tháp tưởng niệm và nghi lễ bằng gạch, các thị quốc Pyu là minh chứng về sự xuất hiện đầu tiên hình thức kiến trúc sáng tạo mới trong khu vực. Sự phát triển văn hóa Phật giáo tại các thị quốc Pyu có ảnh hưởng lan rộng và lâu dài khắp khu vực Đông Nam Á, là cơ sở cho việc hình thành các nhà nước Phật giáo từ thế kỷ thứ 5 tại một số nước Đông Nam Á.
Tiêu chí (iii): Các thị quốc cổ đại Pyu đánh dấu sự xuất hiện nền văn minh Đô thị Phật giáo đầu tiên trong lịch sử ở Đông Nam Á. Việc thành lập các cộng đồng tu sĩ Phật giáo có học thức nảy sinh song song với việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, dựa trên quản lý về tài nguyên nước theo mùa và sản xuất sản phẩm hàng hóa như gốm, sắt, vàng, bạc và đá quý cho các mục đích tôn giáo và thương mại. Phật giáo được củng cố qua việc xây dựng các công trình tôn giáo bằng gạch, thay thế vật liệu xây dựng chính bằng gỗ trước đó. Tại đây xuất hiện các khu nghĩa địa lưu giữ hài cốt hỏa táng. Xuất hiện các mạng lưới kinh doanh liên kết các thị quốc cổ đại Pyu với các trung tâm thương mại trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ. Thông qua mạng lưới thương mại này, Phật giáo được lan truyền bằng tiếng Pali tới các khu vực khác của lục địa Đông Nam Á.
Tiêu chí (iv): Đổi mới công nghệ trong quản lý tài nguyên, nông nghiệp và sản xuất gạch và sắt ở các thị quốc cổ đại Pyu đã tạo ra những tiền đề cho những tiến bộ đáng kể trong quy hoạch đô thị và xây dựng tòa nhà. Những đổi mới dẫn đến sự hình thành sớm nhất 3 Đô thị Phật giáo và tồn tại lâu dài nhất trong tất cả đô thị tại khu vực Đông Nam Á. Hình thái đô thị trong các thị quốc cổ đại Pyu là một hình mẫu đô thị mới, được đặc trưng bởi các bức tường thành, mạng lưới mạng lưới đường giao thông và kênh mương, nối không gian đô thị bên trong thành với các khu vực rộng lớn bên ngoài thành. Trong thành là nơi ở của các hộ dân, nơi bố trí các kiến trúc tôn giáo với các bảo tháp, tu viện. Tại trung tâm của các đô thị là hoàng cung, đầu não chính trị và xã hội của các thị quốc Pyu.
Sơ đồ vị trí các thị quốc Pyu tại Myanmar
Sơ đồ mặt bằng 3 thị quốc di sản: Beikthano, Halin và Sri Ksetra, Myanmar
Thị quốc Sri Ksetra
Di sản thị quốc Sri Ksetra (còn có tên gọi Thayekhittaya) nằm gần thành phố Prome (Pye) thuộc vùng Bago, tại miền Trung của Myanma, nằm dọc theo sông Irrawaddy. Thị quốc Sri Ksetra nằm về phía Nam của cụm các thị quốc Pyu. Thành phố được thành lập vào thế kỷ thứ 5 (có nhiều ý kiến cho rằng thành phố tồn tại từ nhiều thế kỷ trước). Đây là kinh đô của hai hoặc ba triều đại, trong đó có triều đại Vikrama, là triều đại đã đặt ra lịch Pyu, sau này trở thành lịch Myanma.
Di sản có diện tích 3378 ha, vùng đệm 1713ha.
Sri Ksetra được cho là thành phố lớn nhất Đông Nam Á trước thời kỳ Angkor (cuối thế kỷ 9). Đây cũng chính là địa điểm của nhà sư Đường Tăng, người Trung Quốc, đi qua để sang thỉnh kinh tại Ấn Độ vào năm 648.
Kể từ đầu thế kỷ 20, các cuộc khai quật tại Sri Ksetra đã khám phá ra một số lượng đáng kể các di tích nghệ thuật Pyu, trái ngược với những phát hiện tối thiểu ở Beikthano và Halin.
Đặc điểm nổi bật nhất của Sri Ksetra là được bao quanh bởi thành lũy hình tròn. Bên ngoài thành lũy là hào.
Tường thành cao 4,5m; Có 12 cổng ra vào tại vòng thành phía Bắc, Tây và Nam. Phần phía Đông không có một cửa thành nào, mà là một hồ nước lớn chạy dài dọc theo thành (Great East Tank), có thể đây là hướng tấn công chính của các thế lực từ bên ngoài.
Bên trong thành lũy là hệ thống các đường nước (kênh, mương) phân chia các ô đất quy hoạch và hệ thống 2 hồ chứa chính: Hồ chứa phía Bắc (North Tank), Hồ chứa phía Nam (South Tank).
Bên trong thành còn lưu giữ được các tàn tích của hoàng cung (Palace), ngôi mộ hoàng gia.
Tàn tích bảo tháp và đền thờ đã được phát hiện ở cả bên trong và bên ngoài tường thành. Trong đó, nổi bật là tàn tích của 3 ngôi tháp: Baw Baw Gyi, Paya Payama và Payagyi nằm bên ngoài tường thành.
Các di vật khám phá tại đây rất đa dạng gồm vàng mã, tác phẩm điêu khắc và đồ vật bằng đá, đồng và kim loại quý khác; xương…
Các di tích nghệ thuật tại Sri Ksetra có niên đại chủ yếu từ thế kỷ thứ 4 – 9 sau Công nguyên, thể hiện một nền văn hóa Phật giáo thịnh vượng tồn tại ở Sri Ksetra. Ngoài ra, tại đây cũng tìm thấy các di vật điêu khắc mô tả các vị thần Hindu, thường là Vishnu, cho thấy Ấn Độ giáo (Vaishnavism) cũng được thực hành cùng với Phật giáo.
Sri Ksetra là nơi lưu giữ phần lớn di sản nghệ thuật Pyu, thể hiện sự giao lưu nghệ thuật với khu vực miền Nam Ấn Độ và Đông Nam Á ở lân cận.
Sơ đồ mặt bằng Di sản thị quốc Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Tàn tích cổng thành Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Phế tích móng một ngôi bảo tháp tại Di sản thị quốc Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Các phù điêu Phật giáo khai quật được tại Di sản thị quốc Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Baw Baw Gyi Paya
Baw Baw Gyi Paya là một bảo tháp Phật giáo quan trọng, nằm ở phía Nam ngoài thành Sri Ksetra, là tàn tích được bảo tồn tốt nhất của thị quốc Sri Ksetra. Công trình được xây dựng vào khoảng thế kỷ 6 – 7, cùng lúc với việc xây dựng thành Sri Ksetra.
Tháp hiện vẫn giữ trong tình trạng tuyệt vời, dù đã trải qua những trận động đất lớn trong nhiều thế kỷ.
Tháp là một cấu trúc gạch, phủ vữa vôi, hình tròn, cao khoảng 46m, được đặt trên 5 bậc thềm.
Hình dạng của bảo tháp giống hình quả chuông, thường được so sánh với Bảo tháp Dhamek (Dharmekh Stupa) ở Sarnath ở Ấn Độ (là một di tích được xây dựng cùng thời).
Bên trong tháp rỗng với chiều cao lên đến 24m, chứa hàng ngàn viên đất nung có chạm khắc.
Phế tích bảo tháp Bawbawgyi, Di sản thị quốc Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Bảo tháp Payama
Bảo tháp Payama (Payama Stupa) nằm về phía Bắc ngoài thành Sri Ksetra.
Theo biên niên sử Myanmar, công trình được vua Duttabaung xây dựng để cất giữ xá lợi của Đức Phật.
Công trình có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, vào thời kỳ thị quốc Sri Ksetra đạt đến đỉnh cao của sự thịnh vượng.
Công trình có dạng hình nón đặc trưng của các bảo tháp thời kỳ đầu tại Sri Ksetra.
Bảo tháp có chiều cao 42,1m; chu vi phần đáy là 95m; được xây bằng gạch phủ vữa vôi, đặt trên 3 bệ dật cấp hình tròn được tạo bởi 16 cạnh.
Tàn tích bảo tháp Payama, Di sản thị quốc Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Bảo tháp Payagyi
Bảo tháp Payagyi (Payagyi stupa) nằm về phía Tây Bắc ngoài thành Sri Ksetra.
Tháp Payagyi có hình dạng giống bảo tháp Payama, xây bằng gạch phủ vữa vôi, dạng mái vòm hình nón cao. Tháp được đặt trên một bệ nền với 3 bậc.
Di tích có niên đại từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 9.
Bảo tháp Payagyi được cho rằng là nơi lưu giữ thánh tích Phật (móng chân của ngón chân cái, bàn chân phải của Đức Phật)…Chính vì vậy đây là một địa điểm hành hương của nhiều Phật tử. Chỉ có nam giới mới được phép lên bệ nền trên cùng của bảo tháp.
Tàn tích bảo tháp Payagyi, Di sản thị quốc Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Trang trí trên đỉnh bảo tháp Payagyi, Di sản thị quốc Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Khu phức hợp Payahtaung
Khu phức hợp Payahtuang (Payahtuang complex) nằm tại phía Đông cung điện, bên trong thành Sri Ksetra.
Tại đây có đền Payahtaung, một tòa nhà hình hộp như phần bệ cho mái dạng bảo tháp. Công trình có phong cách tương tự (có thể là nguồn cảm hứng cho thiết kế kiến trúc) cho một số tòa nhà trong khu Di sản đô thị cổ Bagan Myanmar vào thế kỷ 10
Ngoài ra tại đây còn lưu giữ một số tàn tích: Một bảo tháp bằng gạch; Nền móng của một công trình kiến trúc nhỏ; Một tòa nhà hình bát giác chứa một chiếc bình lớn bằng đá, trên mặt khắc chữ bằng tiếng Pyu ca ngợi các vị vua Pyu. Bình đá được phát hiện vào năm 1993, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia Myanmar (National Museum of Myanmar, Yangon).
Tàn tích đền Payahtaung, một ngôi nhà hình hộp, mái dạng bảo tháp, Di sản thị quốc Sri Ksetra, Bago, Myanmar
Gò Khin Ba
Gò Khin Ba (Khin Ba Mound) nằm bên trong thành lũy, ở phía Nam thành Sri Ksetra.
Khin Ba là địa điểm của một bảo tháp cổ và là một trong những địa điểm khảo cổ quan trọng nhất ở Sri Ksetra và Myanmar. Gò được khai quật lần đầu tiên vào năm 1926–27. Các hiện vật tìm thấy hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Sri Ksetra và Bảo tàng Quốc gia Myanmar (Yangon). Ngoài những mảng đất nung và phù điêu bằng đá thời kỳ đầu, người ta còn tìm thấy văn tự, được viết bằng tiếng Pyu và Pali trên các lá vàng, được coi là một trong những ví dụ lâu đời nhất còn tồn tại của ngôn ngữ Pāli.
Bức phù điêu bằng đá được tìm thấy ở gò Khin Ba, Sri Ksetra, Bago, Myanmar.
Beikthano
Di sản thị quốc Beikthano (có tên Vishnu City, đặt theo tên thần Vishnu của đạo Hindu), còn được gọi là thành phố Panhtwa, nằm tại phía Bắc của thị quốc Sri Ksetra, gần thành phố Taungdwingyi, thuộc vùng Magway, miền Trung Myanma.
Di sản có diện tích 1188ha, vùng đệm 2879ha.
Beikthano nằm cạnh vùng đồng bằng Kyaukse ở phía Đông Bắc, có thể là thủ đô đầu tiên của một nhà nước về văn hóa và về chính trị trong lịch sử Myanma.
Sự sụp đổ của thị quốc Beikthano bởi sự xâm chiếm thị quốc kề liền là Sri Ksetra.
Lịch sử Beikthano gắn liền với truyền thuyết về công chúa Thonbanhla, hoàng hậu của thị quốc Beikthano, là biểu tượng của một phụ nữ mạnh mẽ, tinh thần chiến đấu và danh vọng.
Beikthano là địa điểm đô thị lâu đời nhất cho đến nay được phát hiện và khai quật một cách khoa học.
Di tích Beikthano bao gồm các cấu trúc xây dựng, đồ gốm, đồ tạo tác, hài cốt…có niên đại từ năm 200 TCN nguyên đến thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên.
Thành phố là một khu định cư kiên cố lớn, rộng khoảng 300ha, nằm bên trong bức tường thành hình chữ nhật với kích thước 3km x 1km. Các bức tường thành và công sự dày đến 6m.
Thị quốc Beikthano có 9 cổng thành. Tường thành bao kín 3 mặt Bắc, Đông và Nam. Mặt phía Tây được bảo vệ bởi một hồ nước lớn.
Bên trong thành là hệ thống các đường nước (kênh, mương) phân chia các ô đất quy hoạch.
Hoàng cung là một khu vục có mặt bằng hình vuông, cổng vào chính từ phía Đông.
Cấu trúc quan trọng nhất đã được khai quật tại đây là tàn tích cung điện hoặc có thể là tu viện Phật giáo. Cung điện được xây dựng bằng gạch nung, có mặt bằng hình chữ nhật với kích thước 30,5m x 10,7m;
Mặt bằng có bố cục tương tự như mặt bằng của các tu viện tại miền Nam Ấn Độ. Cung điện hiện chỉ còn lại các bức tường cao 2,4m so với mặt nền.
Tại đây còn phát hiện được nhiều tàn tích của các bảo tháp, là nơi đặt các bình gốm đựng hài cốt; các đồng tiền Pyu.
Các công trình nhà ở được xây dựng bằng gạch và bằng vật liệu đơn giản như tre và gỗ. Gạch được làm bằng đất sét trộn với trấu.
Các tàn tích cho thấy, nghề nghiệp của dân cư tại đây là trồng lúa, một số lượng đáng kể làm nghề gốm, dệt và sản xuất đồ kim loại. Tại Beikthano, ít các văn bản khắc Phật giáo thịnh hành như tại thị quốc Sri Ksetra.
Sơ đồ mặt bằng thị quốc Beikthano, Magway, Myanmar.
Đồng tiền Pyu được tìm thấy tại thị quốc Beikthano, Magway, Myanmar.
Cổng vào khu vực phế tích thị quốc Beikthano, Magway, Myanmar.
Tàn tích công trình tại thị quốc Beikthano, Magway, Myanmar.
Tàn tích một ngôi chùa tháp tại thị quốc Beikthano, Magway, Myanmar.
Hanlin
Di sản thị quốc Hanlin (còn có tên Halingyi ) nằm tại phía Bắc thị quốc Beikthano, gần thành phố Shwebo thuộc vùng Sagaing, Tây Bắc của Myanma, là một trong những vùng được tổ chức tưới tiêu lớn nhất Myanma.
Di sản có diện tích 1243ha, vùng đệm 2198ha.
Trong thời đại của các thị quốc Pyu, Hanlin có thể là thị quốc tương đương với thị quốc Sri Ksetra. Thành phố có nguồn gốc từ hơn 1000 năm trước, phát triển vào thế kỷ 2 TCN đến thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên.
Hiện tại đây vẫn lưu giữ nhiều truyền thuyết về sự biến mất đột ngột của các thị quốc Pyu.
Thành phố có quy mô khoảng 664ha, mặt bằng hình chữ nhật, được bao bọc bởi các bức tường thành với nhiều cổng thành. Chính giữa thành là một con kênh lớn chảy theo hướng Bắc - Nam. Khu vực hoàng cung là khu vực nằm trên tuyến kênh.
Phía Nam của thành là nơi tập trung rất nhiều bảo tháp.
Các cuộc khai quật đã tìm thấy các tàn tích của tường thành, cung điện, bảo tháp, khu hỏa táng, địa điểm sản xuất, cấu trúc quản lý nước, tượng và bộ xương người hóa thạch.
Sơ đồ mặt bằng thị quốc Hanlin, Magway, Myanmar.
Tấm bia mộ khắc chữ Pyu tìm thấy tại thị quốc Hanlin, Sagaing, Myanmar.
Phế tích một ngôi bảo tháp tại thị quốc Hanlin, Sagaing, Myanmar.
Di sản Các thị quốc Pyu, Myanmar đã trở thành hình mẫu phát triển trên mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ 9. Thông qua giao dịch thương mại, không chỉ Phật giáo mà cả các tiến bộ về quy hoạch đô thị và xây dựng công trình tại các thị quốc Pyu lan đã góp phần đáng kể vào việc gia tăng số lượng Đô thị Phật giáo tại các quốc gia khu vực Đông Nam Á,.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
http://whc.unesco.org/en/list/1444
https://en.wikipedia.org/wiki/Myanmar
https://en.wikipedia.org/wiki/Pyu_city-states
https://en.wikipedia.org/wiki/Beikthano
https://www.gomyanmartours.com/beikthano/
https://en.wikipedia.org/wiki/Hanlin,_Burma
https://en.wikipedia.org/wiki/Sri_Ksetra_Kingdom
http://www.seasite.niu.edu/burmese/Culture/beikthano.htm
http://www.gomyanmartours.com/beikthano/
http://www.gomyanmartours.com/halin/
http://www.gomyanmartours.com/sri-ksetra-thayekhittaya/
https://www.orientalarchitecture.com/sid/1200/myanmar/pyay/payagyi-stupa
https://a-a-r-s.org/proceeding/ACRS2014/Full%20Papers/Session%20E/Session%20E5/OS-190%20E5_Session_Archaeological_Heritage_Resource_Mapping_Pyu_Ancient_Cities.pdf
Xem video giới thiệu công trình tại đây
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|