Thông tin chung: Công trình: Thánh địa Mỹ Sơn (My Son Sanctuary) Địa điểm: huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam (N15 31 0 E108 34 0) Thiết kế kiến trúc: Quy mô: Diện tích khu vực Di sản: 142 ha; Vùng đệm: 920 ha Năm thực hiện: Bắt đầu từ thế kỷ thứ 4 đến 14 Giá trị: Di sản thế giới (1999; hạng mục II, III)
Champa là một quốc gia cổ tồn tại liên tục từ năm 192 đến 1832 với lãnh thổ lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam; Từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay, thuộc miền Trung Việt Nam. Văn hóa Champa tiếp nối từ văn hóa Sa Huỳnh, là văn hóa thuộc giai đoạn Sơ kỳ đồ sắt của cư dân nông nghiệp ven biển miền Trung và miền Nam, có niên đại từ giữa thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên (TCN ) đến đầu Công nguyên, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong việc xây dựng hệ thống thần quyền trị quốc. Người Chăm ngoài việc thờ các vị thần bản địa còn thờ các vị thần sơ khai của Hindu giáo và Phật giáo. Dân tộc chính là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía Bắc (bộ tộc Dừa) và Chăm ở phía Nam (bộ tộc Cau). Ngôn ngữ là tiếng Champa bản địa và tiếng Phạn, ngôn ngữ tế lễ của Hindu giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo. (Phật giáo – Buddhism, do Đức Thích Ca Mâu Ni/Siddhartha Gautama, năm 624 TCN – 534 TCN, sáng lập. Sau này phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy hay Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa; Phật giáo Đại thừa hay Bắc tông, Đại chúng; Phật giáo Chân ngôn hay Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa. Hindu giáo - Hinduism/ Ấn Độ giáo xuất phát từ khu vực Nam Á, là sự hợp nhất các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và không có người sáng lập, hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ). Tại đây, văn minh Ấn Độ, du nhập vào theo tôn giáo, được sử dụng rộng rãi: Văn học và điển tích tôn giáo; lịch trong sản xuất nông nghiệp và đời sống; kiến trúc và điêu khắc... Tuy nhiên yếu tố ngoại nhập này đều hòa hợp với yếu tố nội sinh mạnh mẽ của dân tộc Chăm, từ tục thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên (thần đạo), chữ viết Champa, kiến trúc và điêu khắc độc đáo, âm nhạc và ca múa sinh động, đến phong tục cổ truyền như ăn trầu, nhuộm răng đen, hỏa táng và chôn tro xương trong các mộ vò… Champa là một vùng đất nông nghiệp với sản phẩm chính là lúa và rau màu; có nhiều lâm sản và khoáng sản nổi tiếng như gỗ trầm hương (kỳ nam hương), vàng, bạc, đá quý. Nghề thủ công nghiệp, đóng thuyền và đi biển phát triển mạnh, đặc biệt là nghề xây dựng với kỹ thuật xây dựng đền tháp. Xã hội Champa mang đặc trưng cơ bản của khu vực Đông Nam Á, là xã hội của cư dân nông nghiệp. Quan hệ chủ yếu trong xã hội là quan hệ về ruộng đất, gắn với chế độ sở hữu và các hình thức sử dụng ruộng đất. Trong xã hội, vua có uy quyền tuyệt đối, tiếp đó là tầng lớp quý tộc, lãnh đạo tôn giáo và quan lại trung ương, địa phương. Người dân sống theo từng làng xã, là nơi duy trì mối quan hệ cộng đồng trong đời sống kinh tế và tinh thần. Trong bối cảnh phía Bắc, Tây là các quốc gia láng giềng hùng mạnh, nhà nước Champa rất chú trọng xây dựng quân đội nhằm vừa bảo vệ chủ quyền vừa mở mang bờ cõi. Quân đội Champa, ngoài bộ binh, kỵ binh còn có tượng binh và thủy binh.
Champa lần lượt trải qua các vương triều theo cùng một quá trình: Lập nước gắn với các vị vua khởi nghiệp; Xây dựng quốc gia hùng mạnh gắn với chống bành trướng phương Bắc, mở rộng bờ cõi về phía Tây và hội nhập với văn minh từ bên ngoài – Ấn Độ; Nội chiến giành quyền lực giữa các phe phái; Sụp đổ và bị thay thế bởi vương triều kế tiếp:
Vương quốc Lâm Ấp (năm 192- 757): Đây được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Champa độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của Trung Quốc, gắn liền với sự hấp thu văn minh Ấn Độ. Trong thời gian tồn tại, vương quốc Lâm Ấp trải qua 4 triều đại:
Triều đại thứ nhất, từ năm 192-336: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên Khu Liên, lên ngôi năm 192. Trong giai đoạn này, lãnh thổ Việt bị đô hộ bởi các triều đại phương Bắc, được chia thành Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (thuộc giai đoạn Bắc thuộc lần hai, năm 43- 541, dưới sự cai trị của nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, Tấn, Tề và Lương). Năm 192, nhân nhà Đông Hán suy yếu, người dân theo Khu Liên nổi dậy lập ra nước Lâm Ấp. Lãnh thổ Lâm Ấp bao gồm cả khu vực thành phố Huế hiện nay, chạy dài cho tới phía Nam của núi Bạch Mã (giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng). Kinh đô (từ năm 192- 605) là thành Lồi (thuộc thành phố Huế). Thời kỳ đầu, Vương quốc Lâm Ấp chịu ảnh hưởng nhiều của Trung Quốc. Về sau, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc, nhà nước Lâm Ấp đã thông qua các thương gia, tu sĩ mà tiếp thu văn minh Ấn Độ, bao gồm cả cách thức tổ chức xã hội, văn hóa và tôn giáo. Quốc thư trao đổi của Lâm Ấp với Trung Quốc thời đó đã được viết bằng chữ Phạn thay vì chữ Hán.
Triều đại thứ hai, từ năm 336-420: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Phạm Văn. Ông là tể tướng của triều đại trước. Trong giai đoạn này miền Bắc Việt Nam vẫn bị đô hộ bởi các triều đại phương Bắc. Tại đây, văn minh Ấn Độ đã đi vào đời sống như tổ chức hệ thống quan lại, kỹ thuật luyện sắt…; Kinh đô – Thành Lồi tại Huế đã được xây dựng lại. Với sức mạnh quân sự, nhà vua đã tấn công lên phương Bắc, giết thứ sử nhà Hán, mở rộng lãnh thổ đến tận đèo Ngang (ranh giới của hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay). Vị vua thứ 3 của triều đại thứ hai, vị vua Lâm Ấp đầu tiên được mô tả trong văn bia, là Phạm Hồ Đạt/ Dharmamaharaja (hiệu là Bhadravarman I), cai trị từ năm 380 đến 413. Dưới thời vua Phạm Hồ Đạt, nhiều nhà tu hành Hindu giáo, Phật giáo (Tiểu thừa) từ Ấn Độ sang truyền đạo. Thành Lồi (Huế) vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên là Kandapurpura, nghĩa là Phật Bảo Thành. Vua còn cho xây dựng thêm một trung tâm tôn giáo mới tại Amavarati, (thánh địa Mỹ Sơn, một thung lũng cách Đà Nẵng 69 km về phía Tây, thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Tại đây, nhiều đền Hindu giáo được xây dựng. Đền thờ thần Shiva (là một trong ba vị thần tối cao: Brahma là Đấng tạo hóa; Vishnu là Đấng bảo hộ; Shiva là Đấng hủy diệt) và linh vật Lingam (là một khối trụ tròn, đặt ở trung tâm một vật thể hình đĩa – Yoni; tổ hợp linh vật Lingam và Yoni tượng trưng cho sự kết hợp sức mạnh nam, nữ và toàn bộ sự tồn tại). Ngôi đền đầu tiên tại Mỹ Sơn được xây bằng gỗ vào cuối thế kỷ 4 mang tên Bradresvara, kết hợp giữa tên vua Bradravarman I và thần Shiva. Tại vương quốc, thờ vua và các vị thần là một. Vua thay mặt thần Shiva cai quản muôn dân. Shiva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa là vị thần giữ đền (Dvarapala) để dân chúng đến thờ phụng và dâng lễ vật.
Triều đại thứ ba, từ năm 420-529: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Văn Địch, xưng hiệu là Phạm Dương Mại I, xuất thân là một người trong hoàng tộc. Năm 443, quân nhà Lưu Tống Trung Quốc (tồn tại 420- 479) đánh Lâm Ấp, phá hủy nhiều đền đài, cướp phá nhiều tượng vàng. Vua Lâm Ấp phải chạy về phía Nam.
Triều đại thứ tư, từ năm 529-757: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Luật Đa La Bật Ma, hiệu là Rudravarman I, xuất thân là một người trong hoàng tộc. Năm 577, Luật Đa La Bật Ma mất, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi (Sambhuvarman). Tại miền Bắc Việt Nam, Lý Bí (Lý Nam Đế, trị vì năm 544- 548), khởi binh chống nhà Lương (tồn tại năm 502- 557) và chính thức thành lập nhà Tiền Lý cùng nước Vạn Xuân vào năm 544. Năm 602, nhà Tùy Trung Quốc (tồn tại năm 581- 619) quay trở lại đánh chiếm miền Bắc Việt Nam (bắt đầu thời Bắc thuộc lấn thứ 3, từ năm 602- 905, dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường). Nhà Tùy cũng tấn công Lâm Ấp vào năm 598, phá hủy kinh thành Kandapurpura vào năm 605. Vua Phạm Phạn Chi dời kinh đô vào phía Nam, đặt tại Simhapura (làng Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam ngày nay), đặt tên cho vương quốc là Champa, theo một tên một loài hoa đẹp mọc nhiều ở Nam Trung Bộ với ngỏ ý khai sáng thời đại mới (người Việt gọi là hoa sứ hay hoa đại). Vào khoảng thời gian này, vua Phạm Phạn Chi bắt đầu cho dựng lại thánh địa Mỹ Sơn (đền Bhadresvara) bằng gạch kiên cố, thay thế ngôi đền gỗ đã bị hủy hoại trong chiến tranh. Sau khoảng 10 năm từ khi mất cố đô Kandapurpura, thừa thế nhà Tùy suy yếu, vua Phạm Phạn Chi phát động một chiến dịch nhằm thu hồi các lãnh địa phương Bắc và thành công. Các vua nối nghiệp vua Phạm Phạn Chi tiếp tục mở rộng lãnh thổ về phía Tây Nam, thuộc vùng đất của vương quốc Khmer. Thời vua Phạm Phạn Chi được coi là là thời kỳ quá độ giữa vương quốc Lâm Ấp và vương quốc Champa. Văn minh Lâm Ấp giai đoạn này đạt tới đỉnh cao, bắt đầu lan tỏa khắp Đông Nam Á. Trong giai đoạn này, văn hóa Ấn Độ trở thành văn hóa chính của vương quốc. Hindu giáo và Phật giáo cùng được truyền bá. Người Chăm đã bắt đầu có các văn bản bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.
Vương quốc Hoàn Vương (Panduranga, năm 757 – 875): ban đầu là một tiểu quốc phía Nam Lâm Ấp, hình thành từ sự phân rã của vương triều Lâm Ấp, sau đó nổi lên lật đổ vương triều cũ, thành lập vương triều mới. Miền Bắc Việt Nam giai đoạn này nằm dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường (tồn tại từ năm 618 – 907). Vương quốc Hoàn Vương trải qua 5 triều đại :
Triều đại thứ nhất, từ năm 757- 774 Vị vua của triều đại có tên là Prithi Indravarman, trị vì một tiểu vương nằm tại phía Nam Lâm Ấp. Sau khi dành quyền lãnh đạo từ vương triều Lâm Ấp, vua là dời kinh đô Simhapura (thành Trà Kiệu) về Virapura (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận ngày nay). Thánh địa tôn giáo của vương quốc cũng dịch chuyển từ Mỹ Sơn về thánh địa Po Nagar (Nha Trang ngày nay) để thờ nữ thần Yan Po Nagar, là thần mẫu của người Chăm. (Người Việt sau khi chinh phục Champa đã gọi thần mẫu này là Thiên YA Na). Năm 774, quân Nam Đảo (người Java và Malaysia) từ ngoài khơi đổ bộ vào chiếm kinh đô Virapura, cướp phá đền Po Nagar. Vua bị chết trong đám loạn quân.
Triều đại thứ hai, từ năm 774 - 786 Vị vua của triều đại có tên là Satyavarman, thuộc dòng tộc của vương triều trước. Vua tổ chức quân đội tấn công quân Nam Đảo và đánh bại giặc trong một trận thủy chiến. Năm 781, vua cho dựng bia kỷ niệm chiến thắng và xây dựng lại thánh địa Po Nagar bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay.
Triều đại thứ ba, từ năm 786 - 801 Năm 786, vua Satyavarman qua đời, em trai ông có tên là Indravarman I (Nhân Đà La Bạt Ma) lên ngôi. Năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào kinh đô Virapura, cướp phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara (tại phía Tây thành Virapura, gần Phan Rang ngày nay). Đến năm 799, vua mới đuổi được quân xâm lược, xây lại tháp Hòa Lai với ba tháp mới gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Hindu giáo.
Triều đại thứ tư, từ năm 801 - 817 Năm 801, vua Indravarman I mất, em rể lên ngôi có tên là Deva Rajadhiraja, hiệu là Harivarman I (Kha Lê Bạt Ma). Năm 817, vua cho trùng tu lại tháp Po Nagar và xây dựng thêm hai tháp cạnh tháp chính. Tượng nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương. Dưới triều vua Deva Rajadhiraja, vương quốc Hoàn Vương hưng thịnh trở lại. Vua tổ chức nhiều cuộc tấn công ra các quốc gia xung quanh, trong đó có các cuộc tấn công lên phía Bắc (châu Ái, châu Hoan – Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) vào các năm 803, 808 và 809.
Triều đại thứ năm, từ năm 817 - 875 Năm 817, con trai vua Harivarman I, có hiệu là Vikrantavarman III (Thích Lợi Tì Kiên Đà Bạt Ma) lên kế vị. Vì vua còn nhỏ tuổi nên bên cạnh vua có phụ chính tên là Senapati Par. Ông cho tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Khmer và cho xây dựng thêm một số tháp xung quan tháp chính trong khuôn viên tháp Po Nagar. Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo của vương quốc vẫn là kinh đô Virapura. Dưới thời Vikrantavarman III, vương quốc Hoàn Vương là một đất nước phồn thịnh với quân đội hùng mạnh.
Mối quan hệ giữa Vương quốc Champa với vương triều Sanjaya (Sanjaya Dynasty, tồn tại năm 732—947) và vương triều Sailendra (Shailendra Dynasty, tồn tại năm 650 – 1025) tại Java, Indonesia
Vương quốc Chiêm Thành(năm 875 - 1471): là triều đại tiếp nối vương quốc Hoàn Vương với kinh đô đặt tại Indrapura (từ năm 875 – 982, làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Tại miền Bắc Việt Nam, năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam. Từ đây, nhà nước phong kiến độc lập của Việt Nam trải qua các quốc hiệu và vương triều : Đại Cồ Việt: thời nhà Đinh – nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý (từ năm 968–1054) ; Đại Việt: thời nhà Lý – nhà Trần (từ năm 1054–1400) ; Đại Ngu: thời nhà Hồ (từ năm 1400–1407) ; Đại Việt: thời nhà Hậu Lê- Nhà Tây Sơn và 3 năm đầu thời nhà Nguyễn (từ năm 1428–1804 ; Việt Nam: thời nhà Nguyễn (từ năm 1804–1839); Đại Nam: thời Nhà Nguyễn (từ năm 1839–1945).
Vương quốc Chiêm Thành trải qua 9 triều đại, kế tục Vương quốc Hoàn Vương, nên được gọi là triều đại thứ 6 đến triều đại thứ 14. Các vị vua đầu tiên của vương quốc Chiêm Thành theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của kinh đô Indrapura (Đồng Dương), một thiền viện Phật giáo (Vihara), bên trong thờ Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara) đã được xây dựng. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Champa kết thúc vào đầu thế kỷ thứ 10 (năm 925) với sự phục hồi của Hindu giáo, thờ thần Shiva. Trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở lại về Mỹ Sơn. Đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao. Dân số của vương quốc lên đến 0,6 triệu người. Vương quốc Chiêm Thành dần suy yếu dưới sức ép của vương quốc Đại Cồ Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với vương quốc Khmer từ phía Tây. Vào khoảng cuối thế kỷ 10, do kinh đô Indrapura (Đồng Dương) bị quân đội Đại Cồ Việt tấn công phá hủy (năm 982), Chiêm Thành chuyển kinh đô xuống Vijaya ở phía Nam (từ năm 982- 1471, thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định ngày nay, còn có tên là Chà Bàn/Trà Bàn). Trong 5 thế kỷ tiếp theo, giữa Chiêm Thành và Đại Việt đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh. Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Chế Bồng Nga (Che Bonguar, năm 1360 – 1389, lên ngôi từ năm 1360). Ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra kinh đô Thăng Long và đã chết trong lần tấn công cuối cùng vào năm 1389. Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, Chiêm Thành liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công. Năm 1471, Champa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía Bắc. Phần lãnh thổ còn lại của Chiêm Thành bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và tiếp tục dần bị các chúa Nguyễn thôn tính. Đến năm 1832, toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng (vị hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn, 25/5/1791- 20/1/1841).
Vương quốc Champa vào khoảng năm 1100 (Màu xanh: Phạm vi vương quốc Đại Việt (kinh đô Đại La - Hà Nội) ; Màu vàng : Vương quốc Champa (kinh đô Indrapura – Đồng Dương) ; Màu đỏ : Vương quốc Khmer (kinh đô Angkor)
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69km và cách kinh thành cổ Trà Kiệu (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) khoảng 20km. Thánh địa Mỹ Sơn là minh chứng cho một khu vực có một nền văn hóa độc đáo trên bờ biển miền Trung Việt Nam đương đại, được xây dựng bắt nguồn từ tinh thần Hindu giáo của tiểu lục địa Ấn Độ. Thánh địa Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng cao nguyên, bao quanh bởi một vòng núi, nơi cung cấp nước cho dòng sông Thu Bồn linh thiêng. Nguồn nước, gắn với hoạt động kinh tế - xã hội, từ đây chảy qua các di tích, ra khỏi lưu vực, qua kinh đô Trà Kiệu lịch sử của vương triều Champa, chảy ra Biển Đông ở cửa sông gần thương cảng Hội An. Vị trí của Mỹ Sơn còn có ý nghĩa chiến lược cả về phòng thủ. Thánh địa Mỹ Sơn tồn tại từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13 sau Công nguyên, là trung tâm chính trị và tôn giáo của nhiều triều đại Champa. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của nhiều vương triều Champa cũng như là lăng mộ của các vị vua Champa và hoàng tộc. Đây hiện còn lưu giữ được các di tích của một loạt các ngôi đền tháp ấn tượng trong một địa đểm ấn tượng với vai trò là trung tâm tôn giáo và chính trị của nhiều triều đại Champa, trong suốt phần lớn thời gian tồn tại. Nhiều ngôi đền được xây dựng để thờ các vị thần Hindu như Krishna (Đấng trắc ẩn, dịu dàng, tình yêu) và Vishnu (Đấng bảo hộ), nhưng trên hết là Shiva (Đấng hủy diệt). Mặc dù Phật giáo Đại thừa thâm nhập vào văn hóa Chăm, có lẽ từ thế kỷ thứ 4, và được phát triển mạnh mẽ tại phía Bắc của vương quốc, song Hindu giáo thờ Shiva (Shaivism) vẫn là quốc giáo. Các di tích của Thánh địa Mỹ Sơn là những công trình quan trọng nhất của nền văn minh Mỹ Sơn. Các ngôi đền tháp có thiết kế kiến trúc đa dạng, tượng trưng cho sự vĩ đại và thuần khiết của núi Meru huyền thoại, ngôi nhà của các vị thần Hindu ở trung tâm vũ trụ. Các ngôi đền được xây dựng bằng gạch nung màu đỏ (không cần vữa), được trang trí bằng những bức phù điêu mô tả cảnh trong thần thoại Hindu giáo. Các trang trí đã được chạm khắc trực tiếp vào gạch. Sự tinh tế về công nghệ xây dựng của các ngôi đền là bằng chứng về kỹ năng kỹ thuật của người Chăm; Hình dáng với hình tượng và biểu tượng phức tạp của các ngôi đền tháp cho thấy nhận thức sâu sắc về nội dung và sự tiến hóa về tư tưởng tôn giáo, chính trị của các vương triều Champa. Thánh địa Mỹ Sơn trình bày một bức tranh sống động về đời sống tinh thần và chính trị trong một giai đoạn quan trọng của lịch sử Đông Nam Á. Các di tích tại đây là duy nhất ở Đông Nam Á.
Thánh địa Mỹ Sơn, tại xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Namđược UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1999) với tiêu chí: Tiêu chí (ii): Thánh địa Mỹ Sơn là một ví dụ đặc biệt về giao lưu văn hóa của một xã hội bản địa thích ứng với ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, đặc biệt là nghệ thuật và kiến trúc Hindu giáo của tiểu lục địa Ấn Độ. Tiêu chí (iii): Vương quốc Champa là một hiện tượng quan trọng trong lịch sử chính trị và văn hóa của khu vực miền Nam - Đông Nam Á, được minh họa một cách sống động qua các di tích tại Thánh địa Mỹ Sơn. Sơ đồ vị trí Di sản Thánh địa Mỹ Sơn tại khu vực Mỹ Sơn, nằm trong một thung lũng núi
Vị trí Di sản Thánh địa Mỹ Sơn, trong Sơ đồ phân bố Di sản thế giới và các Di sản UNESCO khác tại Việt Nam (thời điểm năm 2015) - kí hiệu ô tròn 4 Đền tháp Champa Đền tháp Champa theo niên đại được phân thành 23 nhóm tháp. Đền tháp Mỹ Sơn là nhóm đầu tiên với niên đại sớm nhất từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13.
TT
Tên di tích
Địa điểm
Niên đại
1
Nhóm tháp Mỹ Sơn
xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
thế kỷ IV - XIII
2
Nhóm tháp Po Sah Inư
phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận
thế kỷ VIII
3
Nhóm tháp Mỹ Khánh
xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế
thế kỷ VIII
4
Nhóm tháp Hòa Lai
làng Tam Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận
thế kỷ IX
5
Nhóm tháp Po Dam
làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận
thế kỷ IX
6
Nhóm tháp Đồng Dương
Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình. tỉnh Quảng nam
thế kỷ IX
7
Nhóm tháp Bằng An
làng Bằng An, xã Điện An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
thế kỷ IX - X
8
Nhóm tháp Khương Mỹ
làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
thế kỷ X
9
Nhóm tháp Po Nagar
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà
thế kỷ X - XIII
10
Nhóm tháp Chiên Đàn
làng Chiên Đàn, xã Tam An, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
thế kỷ XI - XII
11
Nhóm tháp Bánh Ít
thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
thế kỷ XI - XII
12
Nhóm tháp Bình Lâm
xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
thế kỷ XII
13
Nhóm tháp Đôi
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
thế kỷ XII
14
Nhóm tháp Nhạn
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
thế kỷ XII
15
Nhóm tháp Phú Lốc
xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
thế kỷ XII
16
Nhóm tháp Cánh Tiên
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
thế kỷ XII - XIII
17
Nhóm tháp Thủ Thiện
xã Bình nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
thế kỷ XII - XIII
18
Nhóm tháp Dương Long
xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
thế kỷ XII - XIII
19
Nhóm tháp Liễu Cốc
xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế
thế kỷ XIII
20
Nhóm tháp Mẫm
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
thế kỷ XIII
21
Nhóm tháp Yang Praong
Bản Đôn, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk
thế kỷ XIII
22
Nhóm tháp Po Klong Garai
phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
thế kỷ XIII - XIV
23
Nhóm tháp Po Rome
làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận
thế kỷ XVII
Đặc trưng chung của các ngôi đền tháp Champa Đền Champa nơi thờ các linh vật theo Hindugiao và Phật giáo, thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi, không gần nơi dân cư sinh sống, xây dựng thành cụm, theo trục Đông – Tây, được thiết kế bằng sự kết hợp các hình thức trừu tượng và hình học cụ thế. Trong ngôi đền Champa có nhiều công trình dạng tháp. Tháp Champa là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch hoặc có bổ sung một số cấu trúc đá, phía trên dật cấp hoặc thu nhỏ dần vào tạo thành hình tháp. Mặt bằng tháp đa số là hình vuông. Không gian bên trong hẹp thường có cửa mở về hướng Đông - Tây, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đối xứng với cửa chính. Trần được cấu tạo vòm cuốn. Gạch xây tháp có màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương. Gạch được nung, vừa đạt được độ cứng nhất định vừa tạo điều kiện cho việc chạm khắc, tương tự như đá sa thạch (là một loại đá được hình thành nhờ sự tích tụ của những đá cát, đá trầm tích, tương đối mềm và dễ gia công). Nghệ nhân chạm khắc trực tiếp lên các bức tường gạch thành phẩm. Gạch xây không có mạch vữa, được liên kết với nhau bằng một loại keo đặc biệt. Có giả thuyết cho rằng đó là loại keo được tinh chế từ một loại thực vật tại địa phương. Giả thuyết khác là vữa xây làm từ đất sét tạo ra chính viên gạch. Giả thuyết này được củng cố sau khi thí nghiệm hóa học đã không tìm ra dấu vết của bất kỳ chất hữu cơ nào từ giữa các viên gach, mà tìm thấy các khoáng chất tương tự như các chất có trong lõi viên gạch. Nghệ thuật chạm khắc của các ngôi đền tháp Champa là tiêu biểu cho Di sản nghệ thuật Champa. Các tác phẩm điêu khắc bằng gạch, đá sa thạch rất công phu với các trang trí hình hoa lá, chim, thú, vũ nữ, thần thánh (Hindu giáo, Phật giáo, tôn giáo bản địa) thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các vũ nữ (apsara, là một dạng tiên nữ múa hát trong các nghi lễ Hindu giáo và thần thoại Phật giáo).
Tượng Bồ tát Tara (Đồng Dương), tại Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Pa
Linh vật Lingam và Yoni bằng đá sa thạch tại Thánh địa Mỹ Sơn
Tượng Apsara tại Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Pa (Cổ Viện Chàm), Đà Nẵng.
Bố cục kiến trúc ngôi đền Champa Các ngôi đền Champa có bố cục chủ yếu theo hướng Đông – Tây; mỗi ngôi đền về cơ bản gồm: - Tòa chính điện (kalan/sanctuarya): thường có dạng tháp, đặt chính giữa sân đền với nhiều tháp phụ nhỏ bao bọc xung quanh. Bên trong tháp đặt thần tượng là hình tượng của thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Champa và bộ linh vật Lingam và Yoni bằng đá sa thạch. Đây là nơi tôn nghiêm của đền, chỉ có pháp sư mới được vào. Những người cầu nguyện thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ. - Tòa bái đường (mandapa/jagamohan): nằm giữa tháp chính điện và lối vào, có chức năng là nơi sắp xếp lễ vật và múa hát nghi thức hành lễ. - Tóa nhà phụ (kosagrha) là một công trình có mái hình yên ngựa, được sử dụng để chứa các vật có giá trị thuộc về vị thần hoặc để nấu ăn cúng tế cho vị thần. - Tháp cổng (gopura): Tháp nằm ngoài cùng gắn với tường bảo vệ đền.
Đền tháp Po Klong Garai, xây dựng vào thế kỷ 13, tại Phan Rang, là công trình tiêu biểu của một ngôi đền Champa. Từ trái sang phải: Tòa chính điện (kalan); Bái đường (mandapa) kèm theo, tòa nhà phụ (kosgrha) hình yên ngựa và tháp cổng (gopura)
Phong cách nghệ thuật của các đền tháp Champa Người ta cho rằng, di tích đền tháp Champa tại Việt Nam có tới 7 phong cách nghệ thuật, trong đó có 2 phong cách bắt nguồn từ Di sản Thánh địa Mỹ Sơn : Phong cách Mỹ Sơn E1 và phong cách Mỹ Sơn A1. - Phong cách Mỹ Sơn E1 (Style of Mỹ Sơn E1) hay phong cách Cổ đại : có niên đại thế kỷ 7 – 8 với công trình tiêu biểu Mỹ Sơn E1. Phong cách Cổ đại phản ánh ảnh hưởng từ bên ngoài của văn hóa miền Nam Ấn Độ và văn hóa Angkor, đồng thời mở đầu xu hướng bản địa hóa những yếu tố ngoại lai và cũng là phong cách nghệ thuật của Thánh địa Mỹ Sơn Công trình tiêu biểu tại Thánh địa Mỹ Sơn thuộc Phong cách Mỹ Sơn E1 gồm: Mỹ Sơn E1 và F1. - Phong cách Hoà Lai (Style of Hoa Lai) : có niên đại cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, được khái quát hoá từ đền tháp Hoà Lai hay phong cách đền tháp tại kinh đô Virapura. Đền Hòa Lai là một khu di tích lớn, nằm trên vùng đất cao nhất của một cánh đồng ở phía Bắc thành phố Phan Rang, tại xã Bắc Phong, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Khu đền được xây dựng trong một khoảnh đất chữ nhật theo hướng Đông – Tây, dài 200m, rộng 125m. Ngoài ba ngôi tháp chính (tháp Bắc, Nam và Giữa), tại đây còn vết tích của nhiều kiến trúc phụ khác như tháp cổng, gian nhà dài ở khu sân ngoài và nhiều công trình nhỏ khác nhau. Trong ba tháp, tháp Giữa chỉ còn lại tàn tích nền. Tháp Hoà Lai được đánh giá là một trong những kiến trúc tháp cổ nhất và đẹp nhất của tháp Champa còn lại. Toàn bộ thân tháp là một khối lập phương khoẻ nhô lên từ một phần bệ vuông và đỡ cả một hệ thống các tầng nhỏ hơn. Trang trí hoa văn bên ngoài mặt tháp chỉ giới hạn ở vòm cửa, các trụ ốp và bộ diềm mái. Yếu tố đặc trưng tiêu biểu nhất của tháp Hoà Lai là những vòm cửa tò vò trùm lên trên cửa ra vào, các cửa giả của các tầng trên. Vành của cửa vòm được phủ kín bằng những hoa văn hình lá cuộn, nhô ra từ miệng của quái vật Kala trên đỉnh. Khoảng tường giữa hai trụ ốp cũng được phủ bằng các hình chạm khắc hoa lá. Phần trên của từng bộ diềm mái là hoa văn trang trí và hình các thần điểu Garuda đang xoè cánh. Một trong những nét rất đặc biệt của tháp Hoà Lai là tường tháp không thẳng đứng mà lại hơi choãi ra về phía trên. Tất cả tạo cho các tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng, mạnh mẽ và tươi mát. Công trình tiêu biểu tại Thánh địa Mỹ Sơn thuộc Phong cách Hoà Laigồm : Mỹ Sơn A2, C7 và F3.
Hình ảnh tháp Hòa Lai, tháp phía Nam
- Phong cách Đồng Dương (Đồng Dương style): có niên đại cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10, được khái quát hoá từ đền tháp Đồng Dương, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của các công trình đền tháp tại kinh đô Indrapura (Đồng Dương). Đền Đồng Dương là một trong những di tích quan trọng vào bậc nhất nghệ thuật đền tháp Champa. Đền gồm hệ thống các tháp nằm gần nhau, tại làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đền được xây dựng vào thời kỳ vương quốc Chiêm Thành nằm trong ảnh hưởng của Phật giáo. Đền tháp Đồng Dương nằm ngay chính kinh đô Indrapura, là môt Trung tâm Thiền viện Phật giáo quy mô bề thế bậc nhất khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ. Nhưng nay đền tháp Đồng Dương chỉ còn là một phế tích lẫn trong cỏ cây hoang dại... Phong cách Đồng Dương tương tự như Phong cách Hoà Lai, có lẽ chỉ khác nhau ở thời gian xây dựng và đối tượng thờ thần hoặc Phật. Nhiều nhà nghiên cứu còn nhập hai phong cách này thành một nhóm. Công trình tiêu biểu tại Thánh địa Mỹ Sơn thuộc Phong cách Đồng Dương gồm : Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12).
Phế tích tháp Đồng Dương
Hình ảnh xưa của Phật viện Đồng Dương
Trang trí trong một phế tích tại Phật viện Đồng Dương
- Phong cách Mỹ Sơn A1 (Mỹ Sơn A1 style): có niên đại thế kỷ 10, được khái quát hoá từ tháp Mỹ Sơn A1, thuộc Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1, đã từng rất tráng lệ - gồm tháp chính và 6 tháp phụ xung quanh. Tháp Mỹ Sơn A1 bị hủy diệt trong chiến tranh Việt Nam vào năm 1969. Công trình tiêu biểu tại Thánh địa Mỹ Sơn thuộc Phong cách Mỹ Sơn A1 gồm : Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2, C5, D1, D2, D4). - Phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn A1- Bình Định : có niên đại đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12. Công trình tiêu biểu tại Thánh địa Mỹ Sơn thuộc Phong cách này gồm : Mỹ Sơn E4, F2. - Phong cách Bình Định (style of Bình Định) : có niên đại cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14. Sau hàng loạt những biến động về chính trị từ đầu thế kỷ 11, trung tâm chính trị của vương quốc Chiêm Thành được chuyển vào Chà Bàn (xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định ngày nay). Từ đó phong cách nghệ thuật đền tháp Champa mới đã xuất hiện. Nếu như ngôn ngữ nghệ thuật chính của các đền tháp Champa thuộc các phong cách trước là hình thức kiến trúc hình thành chủ yếu là từ đường nét, thì ở phong cách này lại là mảng khối: vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo, các tháp nhỏ trên các tầng cuộn lại thành các khối đậm, khỏe, các trụ ốp thu vào thành một khối phẳng, mặt tường có các gân sóng. Công trình tiêu biểu tại Thánh địa Mỹ Sơn thuộc Phong cách Bình Định gồm : Mỹ Sơn B1 và các nhóm G, H. Dưới đây là một số hình ảnh các tháp Champa tiêu biểu của phong cách Bình Định hay phong cách nghệ thuật của các đền tháp tại kinh đô Chà Bàn
Tháp Đôi(thành phố Quy Nhơn), niên đại nửa đầu thế kỷ 12, là một cụm tháp vào loại độc đáo nhất của phong cách Bình Định.
Tháp Bánh Ít(huyện Tuy Phước), có niên đại thế kỷ 11, gồm bốn tòa tháp lớn nhỏ khác nhau nằm trên một đỉnh đồi thuộc xã Phước Hiệp, cách thành phố Qui Nhơn khoảng 20km.
Tháp Cánh Tiên (huyện An Nhơn) được xây dựng ngay ở trung tâm kinh đô cổ Đồ Bàn, là một trong những tháp đơn còn lại đẹp nhất của nghệ thuật kiến trúc đền tháp Champa
Tháp Phú Lộc (huyện Phù Cát) cao 29m, nằm trên đỉnh đồi cao 76m so với mực nước biển.
Tháp Dương Long (huyện Tây Sơn), gồm ba tòa tháp cổ với chiều cao từ 32-39m. - Phong cách muộn : có niên đại từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 17. Tại Thánh địa Mỹ Sơn không có công trình nào thuộc nhóm này.
Di sản Thánh địa Mỹ Sơn Thánh địa Mỹ Sơn được xây dựng vào thế kỷ 4, với các đền tháp bằng gỗ dưới thời vua Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt, vị vua thứ 3 của triều đại thứ hai), sau đó bị hỏa hoạn do chiến tranh và được dựng lại bằng gạch vào đầu thế kỷ 7, dưới triều vua Sambhuvarman (Phạm Phan Chi, triều đại thứ tư của vương quốc Lâm Ấp). Đây là trung tâm tôn giáo và văn hóa của vương quốc Lâm Ấp, khi kinh đô là Trà Kiệu và của vương quốc Chiêm Thành, khi kinh đô là Đồng Dương. Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ và xây dựng các đền tháp mới để thờ thần, Phật. Sau khi vương quốc Chiêm Thành lụi tàn, Thánh địa Mỹ Sơn đã chìm trong lãng quên hàng thế kỷ, đến năm 1885, mới được phát hiện lại. Ngày nay, Thánh địa Mỹ Sơn đã trở thành khu di tích chính của văn hóa Champa tại Việt Nam. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài có bố cục và kiến trúc ảnh hưởng bởi Hindu giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam. Các đền tháp Champa trong Di sản Thánh địa Mỹ Sơn phản ánh đầy đủ và chân thực toàn cảnh văn hoá Champa, từ giai đoạn đầu tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến giai đoạn thích nghi, tiếp biến, trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc Việt và Khmer liền kề. Thánh địa Mỹ Sơn có nhiều bản chữ khắc quan trọng nhất của vương quốc Champa trên các tấm bia đá. Tại đây đã tìm thấy khoảng 32 tấm bia có niên đại từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 12 được tạo trên cột đá hoặc phiến đá. Chủ đề chính của các tấm bia là chính trị và tôn giáo, các sự kiện lịch sử chính của quốc gia.
Phân nhóm các cụm đền tại Thánh địa Mỹ Sơn Các di tích đền tháp Hindu giáo tại Di sản Thánh địa Mỹ Sơn được phân thành 8 nhóm chính, ký hiệu : A, B, C, D, E, F, G, H, (có tài liệu phân thành 10 nhóm, thêm nhóm A ‘ và K) để đặt tên cho 71 di tích theo kiểu ghép chữ cái và số (hiện còn tiếp tục nghiên cứu bổ sung), gồm các khu vực : - Khu A (còn gọi là khu tháp Chùa) có 19 di tích;
- Khu B, C, D (còn gọi là khu tháp Chợ) có 27 di tích;
- Khu E, F (còn gọi là khu tháp Bàn Cờ và khu H (còn gọi là khu tháp Hố Khế) có 16 di tích;
- khu G có 5 di tích và các khu phụ khác có từ một đến vài di tích. Phần lớn các đền tháp trong các nhóm khu vực B, C và D còn tồn tại, mặc dù nhiều pho tượng, linh vật Lingam và Yoni bên trong các đền đài đã bị lấy về Pháp trong thời thuộc địa. Công việc bảo tồn đầu tiên diễn ra năm 1937 bởi các nhà khoa học người Pháp. Trong giai đoạn từ năm 1937 đến 1938, tháp A1 và các tháp nhỏ xung quanh được trùng tu. Từ năm 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Tuy nhiên, nhiều tháp và lăng mộ đã bị hủy diệt trong chiến tranh.
Sơ đồ mặt bằng các nhóm đền tại Di sản Thánh địa Mỹ Sơn
Phối cảnh tổng thể Di sản Thánh địa Mỹ Sơn
Bố cục kiến trúc tại Thánh địa Mỹ Sơn Quần thể đền tháp Mỹ Sơn nằm trên các gò núi Mỹ Sơn, phía dưới là các nhánh của suối Thạch Bàn. Các con suối chia khu vực Di sản thành 6 khu đền trên 6 gò núi:
- Khu đền tại gò núi phía Đông Nam : gồm khu đền A và khu đền Á (Khu tháp Chùa). Khu đền A nằm trong một khu vực có mặt bằng gần như vuông có tường bao xung quanh. Quần thể ban đầu bao gồm 13 tháp đền, được bảo tồn tốt nhất trong số các tòa tháp tại Mỹ Sơn. Song các công trình này đã bị phá hủy hoàn toàn bởi các vụ đánh bom B52 của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam vào năm 1969, trong đó có tháp lớn nhất – Tháp Mỹ Sơn A1. Tháp Mỹ Sơn A1 là tòa chính điện tại Khu đền A, được bố cục hướng tới tháp cổng (gopura) A8 và A9 tại phía Tây, hướng ra nhánh suối chính. Theo bản vẽ và mô tả của Henri Parmentier (nhà khảo cổ học người Pháp, năm 1871- 1949, chuyên gia về văn hóa Champa cổ) thì tháp A1 cao 24m, mỗi cạnh 10m, có hai cửa ra vào ở hướng Đông và hướng Tây, thân tháp cao, thon thả. Mỗi mặt tường có các trụ áp tường. Mỗi trụ áp tường có một đường rãnh sâu ở giữa, chạy suốt từ chân đến đỉnh trụ, được chạm các dải hoa văn cành lá cách điệu, bố trí thành hình chữ S nối tiếp nhau. Trên các mặt tường giữa, các trụ áp cũng được chạm những cành lá uốn cong. Trên mặt tường phía Nam và phía Bắc có các cửa giả nhô ra, được tạo bởi hai trụ hình chữ nhật đỡ lấy một vòm cuốn cong và nhọn ở trên đỉnh. Bên trong ô cửa có một người chắp tay được chạm thẳng vào tường gạch. Mái tháp gồm ba tầng thu nhỏ dần lên trên, tầng trên được mô phỏng theo tầng dưới, ở bốn góc của mái trang trí những hình tháp thu nhỏ. Trên đỉnh là một chóp tháp bằng đá sa thạch. Chân tháp được trang trí những đường gờ kỷ hà dạng những tầng sen cách điệu, kết hợp với những hình người, voi... chạm trên gạch rất sống động. Bên trong tháp thờ một bộ linh vật Lingam và Yoni. Với quy mô và sự tinh tế, Tháp Mỹ Sơn A1 được đặt tên cho toàn bộ phong cách nghệ thuật Chăm của thế kỷ thứ 10 – Phong cách Mỹ Sơn A1. Xung quanh Chính điện A1có 6 tòa tháp nhỏ, ký hiệu từ A2- A7, bố cục đối xứng với 3 tháp mỗi bên. Trong các tháp thờ các vị thần Hindu giáo và thần bản địa (Một số bức tượng đang được trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Champa Đà Nẵng). Phía Bắc của Tháp chính điện là tòa tháp A10, nằm song song với chính điện A1, song có quy mô nhỏ hơn. Tại đây còn có một số tháp phụ bố trí trong sân đền, gồm A11, A12, A13. Tại phía Nam của khu đền A, có một khu đền nhỏ hơn ký hiệu Á và không có tường bao quanh, gồm một tháp chính điện, có quy mô tương tự như tháp A10, hai bên có các tháp nhỏ ký hiệu Á2 và Á3.
Bản vẽ phục hội Tháp A1, Quần thể đền A, Thánh địa Mỹ Sơn
Sơ đồ mặt bằng Quần thểđền A, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích phía trước Chính điện A1, Quần thể đền A, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích bệ và bức tường của Chính điện A1, Quần thể đền A, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích đền A7, là một trong số 4 ngôi đền (A2, A4, A5, A7) nằm tại 4 góc Chính điện A1, Quần thể đền A, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích đền A10, Quần thể đền A, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích đến A11, Quần thể đền A, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích đến A12 và A13, Quần thể đền A, Thánh địa Mỹ Sơn
- Các cụm đền tại gò núi phía Tây : gồm Khu đền B, C, D, là một cụm đền hướng về phía Đông ra phía suối chính, được xây dựng từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13. Sơ đồ Quần thể khu đền B, C, D, Thánh địa Mỹ Sơn
Phối cảnh (mặt sau) tàn tích Quần thể khu đền B, C, D, Thánh địa Mỹ Sơn Các tàn tích tại Khu B,C,D, Thánh địa Mỹ Sơn
Khu đền B là đền nằm tại phía Nam của cụm đền. Khu đền có mặt bằng hình vuông với tường bao quanh, hướng về phía Đông. Cổng vào Khu đền là Tháp cổng B2. Phía trước của cổng là tòa Bái đường D1. Trung tâm của Khu đền là tháp Chính điện B1. Tháp được xây dựng bằng đá. Trong sân đền có một số tháp và công trình phụ trợ B3 – B12.
Tàn tích Chính điện B1 với nền móng, cột bằng đá,Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Tháp cổng B2, trang trí trên bề mặt tháp, Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp phụ trợ B3,Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp phụ trợ B4,Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích bệ đặt linh vật tại Tháp phụ trợ B4, Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Linh vật Lingam đá này có niên đại từ thế kỷ thứ 10, cạnh đền tháp Mỹ Sơn B4
Tháp phụ trợ B5, là hình mẫu nổi bật còn tồn tại của Phong cách Mỹ Sơn A1, Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Trang trí trên bề mặt tháp B5, Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Nội thất tháp B5, Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp phụ trợ B6, Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp phụ trợ B7, Khu đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Khu đền C là đền nằm tại phía Bắc của Khu đền B, có mặt bằng hình vuông, quy mô tương tự Khu đền B và cùng hướng về phía Đông. Cổng vào Khu đền là Tháp cổng C2. Phía trước của cổng là tòa Bái đường D2. Trung tâm của Khu đền là Chính điện C1. Trong sân đền có một số tháp và công trình phụ trợ C3- C7.
Tháp Chính điện C1, được xây dựng theo phong cách Mỹ Sơn A1, song được cải tạo lại theo phong cách Hòa Lai vào thế kỷ thứ 11.
Bên trong Tháp Chính điện C1, Khu đền C, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp cổng C2, Khu đền C, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp phụ trợ C3, Khu đền C, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp phụ trợ C4, Khu đền C, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp C6 (chính giữa), C5 (bên phải), Khu đền C, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp C7(bên trái) và Tháp C1 (bên phải), Khu đền C, Thánh địa Mỹ Sơn
Khu đền D là các tháp và công trình hỗ trợ cho khu đền B và C. Công trình Bái đường D1 nằm trên trục Đông Tây của khu đền B gắn với tháp cổng B2. Công trình Bái đường D2 nằm triên trục Đông Tây của khu đền C gắn với tháp cổng C2. Ngoài ra còn có một số công trình phụ D3, D4, D5, D6.
Tàn tích Bái đường D1, Khu đền C, Thánh địa Mỹ Sơn.
Tàn tích Bái đường D2,Khu đền C, Thánh địa Mỹ Sơn. Công trình hiện được sử dụng như một bảo tàng nhỏ
- Các cụm đền tại gò núi phía Đông Bắc : gồm khu đền E và đền F. Khu đền E và F được xây dựng vào thế kỷ 7,8, được cho là một trong những ngôi tháp cổ nhất Mỹ Sơn. Ngồi đền được cải tạo và mở rộng trong thế kỷ 12, 13. Quần thể tháp bị phá hủy hầu như toàn bộ bởi bom trong chiến tranh Việt Nam. Khu đền E có mặt bằng hình vuông với tường bao quanh. Phía trước quần thể là tòa Bái đường E3. Từ đây dẫn đến Cổng vào khu đền (E2, E3) tại phía Tây, ra phía nhánh suối chính. Trung tâm của quần thể đền là Chính điện E1. Phía Bắc của Chính điện là Tháp bái đường E4. Trong sân đền còn có các tòa tháp và công trình nhỏ phụ trợ E5, E6, E7, E8, D9. Tòa tháp E1 đã đổ nát hoàn toàn. Tàn tích còn lại là một bệ thờ linh vật Lingam và Yoni (hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Điêu khắc Champa, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam). Bệ tháp Mỹ Sơn E1 được làm bằng chất liệu đá sa thạch, gồm 16 khối đá nhưng đã bị mất 2 khối (14 khối còn lại hiện được trưng bày tại bảo tàng). Các khối đá có kích thước cao 65cm, dài 353cm và rộng 271cm. Bệ thờ trong tháp chính điện hình vuông được ghép từ nhiều phiến đá sa thạch. Cả bốn mặt bệ chạm khắc cảnh các tu sĩ đang tu luyện, giảng đạo, nhạc công chơi các nhạc cụ, vũ công; cảnh động vật, hoa sen, lá dương sỉ…
Sơ đồ mặt bằng Khu đền E, F, Thánh địa Mỹ Sơn Bệ thờ linh vật của đền tháp E1 với mặt trước điêu khắc các vũ công nam đang nhảy múa (Bảo tàng Điêu khắc Champa)
Ekamukhalinga bằng đá tại nhóm tháp E (Bảo vật quốc gia) cao 1,26m, rộng 41,5cm; trên đỉnh linga có đầu tượng thần Siva cao 23cm
Tàn tích tháp Bái đường E4,Quần thể đền E, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích tháp E5, là tháp thờ Ganesha (đầu voi, mình người, tượng trưng cho tài trí, hạnh phúc và thành công, con trai thần Shiva), Quần thể đền E, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích tháp E6,Quần thể đền E, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích tháp E7, là một thư viện lưu trữ các sách thiêng, được phục hồi vào đầu năm 2000) Quần thể đền E, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích tháp phụ trợ E8, Quần thể đền E, Thánh địa Mỹ Sơn
Khu đền F nằm tại phía Bắc Khu đền E. Khu đền có tường bao quanh, gồm : Cổng vào khu đền (F2) ; Tháp chính điện (F1) và công trình phụ F3.
Tàn tích Tháp chính điện F1, tháp lớn nhất trong Quần thể đền E, F, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích cổng F2, vào Khu đền F,Thánh địa Mỹ Sơn
- Khu đền tại gò núi phía Đông : là khu đền G, nằm trong một khu vực có mặt bằng hình vuông với tường bao quanh. Tòa chính điện G1 nằm giữa khu đền, hướng về phía tháp cổng G2 tại phía Tây, ra phía suối chính. Xung quanh đền thờ có một số công trình phục vụ: G3, G4, G5. Quần thể đền G có thể được xây dựng vào giữa thế kỷ 12, hiện chỉ còn tàn tích của các bức tường và móng. Tháp xây bằng gạch không cần vữa. Tại một số vị trí có các khối trang trí bằng đá sa thạch. Tại đây còn có một số điêu khắc hình tượng hóa thân của Thần Shiva, được đặt xung quanh phần dưới của ngôi tháp chính.
Sơ đồ Quần thể đền G, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp bái đường (Mandapa - A)phía trước đền thờ chính, Quần thể đền G, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp bia (Stele tower - B)phía trước khu thờ chính, Quần thể đền G, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp cổng vào khu thờ chính (Gopura – gatehouse, C), Quần thể đền G, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Tháp thờ hay Chính điện (Kalan – Sanctuary tower, D), Quần thể đền G, Thánh địa Mỹ Sơn
Tàn tích Nhà kho (Storeroom - E), Quần thể đền G, Thánh địa Mỹ Sơn
Trang trí nhân vật thần thoại Kala Makara, hóa thân của vị thần Ấn Độ giáo, Quần thể đền G, Thánh địa Mỹ Sơn
- Hai cụm đền tại gò núi phía Tây Bắc và Tây Nam :gồm cụm đền H và L, hiện chỉ còn tàn tích, đang trong quá trình khảo sát, nghiên cứu.
Đền đá Tại Thánh địa Mỹ Sơn có một tháp - Tháp chính điện B1, Quần thể đền B, được xây dựng bằng đá, và cũng là đền đá duy nhất của các di tích Chăm. Đền được cho là xây dựng lần đầu vào thế kỷ 4, có chiều cao đến trên 30m, hiện chỉ còn móng và là ngôi đền cao nhất của Thánh địa này.
Tàn tích bệ của tháp bằng đá tại Quần thể đền B, Thánh địa Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn cũng như các khu vực tháp Champa khác là tuỵệt tác kiến trúc của dân tộc Chăm và Việt Nam, thường được so sánh với các Di sản văn hóa đền thờ khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Indonesia), Angkor Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái Lan)… Đền tháp Champamãi vẫn còn là bí ẩn chưa thể có lời giải đáp cuối cùng. Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD Nguồn : http://whc.unesco.org/en/list/949 https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_ Vi%E1%BB%87t_Nam https://en.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9_S%C6%A1n https://en.wikipedia.org/wiki/Hinduism https://en.wikipedia.org/wiki/Art_of_Champa#Periods_and_styles_of_Cham_art https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m_%E1%BA%A4p https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0n_V%C6%B0%C6%A1ng https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C4%83m_Pa https://vi.wikipedia.org/wiki/Panduranga https://en.wikipedia.org/wiki/Lady_Po_Nagar https://vi.wikipedia.org/wiki/Simhapura
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1nh_%C4%91%E1%BB%8Ba_ M%E1%BB%B9_S%C6%A1n http://www.vietnamtourism.com/disan/en/index.php?catid=3 https://vi.wikipedia.org/wiki/Virapura https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1p_Ch%C4%83m https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_%C4%91%E1%BB%81n_ th%C3%A1p_Ch%C4%83m_Pa https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_c%C3%A1ch_ngh%E1%BB%87_thu% E1%BA%ADt_c%C3%A1c_th%C3%A1p_Ch%C4%83m https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1p_H%C3%B2a_Lai https://www.orientalarchitecture.com/cid/120/vietnam/my-son
Xem video: 1) Champa1- Lịch sử và đền tháp; 2) Champa2- Kỹ thuật xây dựng; 3) Champa3- Chức năng và mô hình; 4) Champa4- Phong cách và niên đại; 5) Champa5- Mỹ Sơn trong dòng chảy lịch sử; 6) Champa6- Trùng tu di tích
“Đặt ra kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng đó chỉ là bước đầu, kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo sát sao phải là 30 phần- có như thế mới hoàn thành kế hoạch”.