
Thông tin chung:
Công trình: Phố cổ Hội An (Hoi An Ancient Town)
Địa điểm: Quảng Nam, VIệt Nam (N15 52 60 E108 19 60)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích khu vực Di sản: 30 ha; Vùng đệm: 280 ha
Thời gian hình thành: Nửa cuối thế kỷ 16
Giá trị: Di sản thế giới (1999; hạng mục ii, v)
Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm tại hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Trước khi đổ ra biển Đông, hạ lưu sông Thu Bồn chia thành nhiều nhánh. Nhánh tiếp xúc với phố cổ mang tên sông Hoài (hay sông Hội An).
Vùng đất này xưa kia đã có một lịch sử rất lâu đời. Tại đây đã từng tồn tại 2 nền văn hóa lớn, văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm Pa. Các hiện vật khảo cổ đã minh chứng ngay từ đầu Công nguyên nơi đây đã bắt đầu có những giao dịch ngoại thương. Nhiều thư tịch cổ ghi nhận trong một thời gian khá dài, Chiêm cảng - Lâm Ấp Phố đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự phồn vinh của kinh thành Trà Kiệu và khu di tích đền tháp Mỹ Sơn. Vào năm 1471, quốc gia Chăm Pa suy tàn, vùng đất Hội An trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Từ đó, nơi đây thương mại ngày càng phát triển, hình thành đô thị Hội An.
Hội An ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ 16 dưới thời nhà Lê. Thế kỷ 17, trong khi vẫn giao tranh với chúa Trịnh ở miền Bắc, chúa Nguyễn ra sức phát triển kinh tế Đàng Trong, mở rộng giao thương buôn bán với nước ngoài và Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á thời kỳ đó.
Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản (dành cho thương nhân người Nhật) ở Hội An được hình thành.
Khác với người Nhật, những người Hoa biết đến Hội An từ rất sớm, ngay từ thời vùng đất này còn thuộc về vương quốc Chăm Pa. Họ tới đây buôn bán muối, vàng, quế…cho các tỉnh miền Nam Trung Quốc và đồ gốm sứ cho các quốc gia khác tại châu Á.
Sau khi nhà Minh bị nhà Thanh thay thế, nhiều người Hoa di cư tới Trung Bộ Việt Nam và xây dựng nên nhiều cộng đồng Minh Hương Xã. Tại Hội An,người Hoa, phần lớn là người Phúc Kiến, ăn mặc theo trang phục nhà Minh tới lưu trú ngày một nhiều, thế chân người Nhật nắm quyền buôn bán và dần trở thành cư dân đất Việt.
Thế kỷ 18, chúa Trịnh đánh chiếm Hội An, đã triệt phá những nhà cửa thuộc khu thương mại, chỉ để lại các công trình tín ngưỡng. Những thương nhân nguồn gốc Hoa đã di cư vào Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thế kỷ 19, cửa sông Cửa Đại ngày càng bị thu hẹp và sông Cổ Cò cũng bị phù sa bồi lấp, khiến các thuyền lớn không còn ghé được cảng Hội An. Bên cạnh đó, triều đình nhà Nguyễn cũng thực hiện chính sách đóng cửa, hạn chế quan hệ với nước ngoài, đặc biệt các quốc gia phương Tây. Từ đó, Hội An dần mất đi vị thế cảng thị quốc tế quan trọng.
Năm 1888, khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của Pháp, người Hoa quay lại kinh doanh tại cả Hội An và Đà Nẵng. Nhưng do giao thông đường thủy ngày càng trở nên khó khăn, cùng với chính sách phát triển Đà Nẵng của người Pháp, hoạt động thương nghiệp ở Hội An dần bị đình trệ. Mặc dù vậy, phần lớn các kiến trúc nhà ở trong khu phố cổ, các hội quán còn lại đến ngày nay đều có hình dáng được tạo nên từ giai đoạn này.
Đầu thế kỷ 20, Hội An vẫn là thị xã, thủ phủ của tỉnh Quảng Nam và may mắn không bị tàn phá trong chiến tranh. Khi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được thành lập vào năm 1976, thành phố Đà Nẵng trở thành tỉnh lỵ, Hội An rơi vào một thời kỳ bị quên lãng, nhưng nhờ đó, lại may mắn tránh được sự biến dạng của quá trình đô thị hóa.
Ngày nay, thành phố Hội An (đô thị loại 3) có diện tích 60km2, dân số khoảng 152 ngàn người (năm 2018), dần phồn vinh trở lại nhờ những hoạt động du lịch.


Hình ảnh Phố cổ Hội An

Hình ảnh Chùa Cầu, Phố cổ Hội An trên đồng tiền Việt Nam.
Phố cổ Hội An là một ví dụ được bảo tồn đặc biệt của một thương cảng quy mô nhỏ, hoạt động từ thế kỷ 15 đến 19, giao thương rộng rãi với các quốc gia Đông Nam, Đông Á và với phần còn lại của thế giới.
Mặc dù thương cảng Hội An suy giảm tầm quan trọng sau thế kỷ 19, song tại đây vẫn còn lưu giữ được mô hình đô thị cảng truyền thống.
Phố cổ Hội An phản ánh sự hợp nhất của các nền văn hóa bản địa và nước ngoài (chủ yếu là người Trung Quốc, Nhật Bản và những ảnh hưởng của châu Âu giai đoạn sau), để tạo ra sự hòa hợp độc đáo này.
Phố cổ Hội An hiện là một khu phức hợp được bảo tồn tốt, gồm 1.107 tòa nhà khung gỗ với những bức tường gạch hoặc gỗ, bao gồm các công trình nhà ở, thương mại, bến tàu, chùa, nhà thờ. Các kết cấu bằng gỗ của các tòa nhà được chạm khắc với các họa tiết truyền thống.
Các ngôi nhà được sắp xếp cạnh nhau, tạo thành các dãy nhà hẹp, dọc theo các con đường hẹp dành cho người đi bộ.
Nổi bật trong phố cổ là một cây cầu gỗ có mái che, được xây dựng vào thế kỷ 17 với một ngôi chùa trong đó; vì vậy còn có tên là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu (vị chúa Nguyễn thứ 6 của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước Đại Việt thời Lê Trung Hưng, trị vì năm 1691 - 1725) thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa là "Cầu đón khách phương xa".
Quy hoạch đường phố trong thời gian Hội An là một thương cảng hiện vẫn còn tồn tại, bao gồm một mạng lưới các đường phố, gồm một trục song song với dòng sông và các trục phố, ngõ phố hướng ra sông.
Phố cổ Hội An với hệ thống đường phố ven sông và các công trình bằng gỗ còn sót lại gần như nguyên vẹn đã thể hiện rõ cảnh quan đô thị truyền thống tại Đông Á vào thế kỷ 17 và 18.
Sự tồn tại của Phố cổ Hội An là duy nhất trong trong khu vực và ngày nay vẫn tiếp tục hoạt động như một địa điểm giao dịch thương mại, cảng cá và trung tâm du lịch.
Các di sản trong Phố cổ Hội An phản ánh sự đa dạng đời sống của dân cư bản địa, cũng như người nước ngoài. Sự đa dạng này được bảo tồn và tiếp tục truyền lại cho đến ngày nay, trở thành một trong những ví dụ tiêu biểu của một thương cảng truyền thống tại khu vực Đông Á.
Phố cổ Hội An, Quảng Nam, Việt Nam được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (1999) với các tiêu chí:
Tiêu chí (ii): Hội An là một minh chứng nổi bật về sự hợp nhất của các nền văn hóa theo thời gian tại một cảng thương mại quốc tế.
Tiêu chí (v): Hội An là một ví dụ đặc biệt được bảo quản tốt của một thương cảng truyền thống tại châu Á.

Sơ đồ phạm vi Di sản Phố cổ Hội An (màu tím) và vùng đệm (màu xanh)

Vị trí Di sản Phố cổ Hội An trong Sơ đồ phân bố Di sản thế giới và các Di sản UNESCO khác tại Việt Nam (thời điểm năm 2015) - kí hiệu ô tròn 3
Khu phố cổ
Khu phố cổ nằm trọn trong phường Minh An, diện tích khoảng 200 ha, với những con đường ngắn và hẹp, có đoạn uốn lượn, chạy dọc ngang theo kiểu bàn cờ. Đường Trần Phú, Lê Lợi, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thái Học là các con đường chính, nơi tập trung nhiều nhất những công trình kiến trúc quan trọng, cũng như những ngôi nhà cổ điển hình cho kiến trúc Hội An.
Trong phố cổ nổi bật nhất là các hội quán, miếu, chùa do người Hoa xây dựng để tưởng nhớ quê hương của họ.
Trong các dãy phố, những ngôi nhà truyền thống cao 1- 2 tầng được tu bổ và bảo tồn cùng với những ngôi nhà có kiến trúc mặt tiền kiểu Pháp, là nhà ở của các công chức thời Pháp thuộc.
Ngôi nhà cổ nhất khu phố cổ hiện được sử dụng làm Bảo tàng Văn hóa Dân gian Hội An.
Tại đây có công trình nổi tiếng là chùa Cầu.

Bến thuyền Hội An

Nhà dọc theo các ô đường phố trong Phố cổ Hội An

Bản đồ Di sản Phố cổ Hội An với một số công trình chính
Kiến trúc truyền thống – nhà ở kết hợp buôn bán
Kiểu nhà ở phổ biến nhất ở Hội An là những ngôi nhà phố một hoặc hai tầng với đặc trưng chiều ngang hẹp khoảng 4-8m, chiều sâu khoảng 10-40m, tạo nên kiểu nhà hình ống. Những vật liệu chính dùng để xây dựng nhà đều có sức chịu lực và độ bền cao do đặc điểm khí hậu khắc nghiệt và bão lụt hàng năm của vùng này. Thông thường, các ngôi nhà có kết cấu kiểu nhà khung gỗ, hai bên có tường gạch ngăn cách.
Theo chiều sâu, nhà ở dạng hình ống gồm các lớp: Vỉa hè, nhà chính, nhà phụ, hiên, nhà cầu và sân trong, hiên, nhà sau, vườn sau…, tạo thành không gian buôn bán, không gian sinh hoạt và không gian thờ cúng. Nhà trước là không gian cho cửa hàng, kho. Phần sân trời được trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh…Nhà cầu có mái che nối nhà trước và nhà sau. Không gian sinh hoạt của gia đình ở phía nhà sau, được ngăn buồng bằng các vách gỗ. Vườn sau là không gian dành cho bếp, vệ sinh và chức năng phụ khác. Để không ảnh hưởng đến việc buôn bán, ban thờ gia tiên thường đặt trên gác lửng của nhà trước hoặc nhà sau. Tại những ngôi nhà hai tầng, toàn bộ tầng hai của nhà trước thường được dùng làm kho hàng và là nơi thờ cúng.
Những ngôi nhà cổ Hội An là những ngôi nhà có nhiều mái. Mái lợp bằng ngói, hai lớp (kiểu lợp ngói âm dương), được cố định bằng vữa. Bó nóc và tường hồi được xây cao.
Các loại nhà phố tại đây được phân loại thành các nhóm:
- Nhà một tầng vách gỗ, phân bố chủ yếu dọc đường Trần Phú, Lê Lợi, xây dựng vào thế kỷ 18 và 19;
- Nhà hai tầng có mái hiên, dọc đường Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, xây dựng vào thể 19, đầu thế kỷ 20;
- Nhà hai tầng vách gỗ có ban công, dọc đường Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thị Minh Khai, xây dựng vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20;
- Nhà hai tầng tường gạch, dọc đường Nguyễn Thái Học, Trần Phú, xây dựng vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20;
- Nhà hai tầng kiến trúc Pháp, dọc đường Nguyễn Thái học, xây dựng đầu thế kỷ 20.

Nhà cổ Hội An - nhà 2 tầng vách gỗ có ban công

Nhà cổ Hội An - nhà hai tầng tường gạch

Nhà cổ Hội An - nhà hai tầng kiến trúc Pháp
Nhà cổ Phụng Hưng
Nhà cổ Phụng Hưng (Phung Hung House – trên sơ đồ ký hiệu B), được xây dựng vào cuối thế kỷ 18. Ngôi nhà nằm kề liền với Cầu Nhật Bản (Chùa Cầu), trên đường . Đặc điểm kiến trúc nổi bật của công trình là có không gian trung tâm của nhà cao 2 tầng. Hình thức kiến trúc này có thể ảnh hưởng từ thiết kế của Nhật Bản.

Mặt trước Nhà cổ Phụng Hưng, Di sản phố cổ Hội An,

Nội thất Nhà cổ Phụng Hưng với không gian trung tâm cao 2 tầng, Di sản phố cổ Hội An với không gian trung tâm thông tầng
Nhà cổ - Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh, Hội An
Nhà cổ Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh, Hội An (Sa Huynh Culture Museum– ký hiệu D), là một ngôi nhà cổ 2 tầng kiến trúc Pháp, nằm tại 149 đường Trần Phú, mặt sau là sông Hoài. Đây là nơi trưng bày các hiện vật về đời sống, sinh hoạt của các cư dân Sa Huỳnh xưa, được cho là có sự đóng góp của nhiều tộc người, trong đó có tộc người Austronesian ở Đông Nam Á, tộc người Mon-Khmer sống dọc theo dãy núi Trường Sơn, Tây Nguyên. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa tại miền Trung và Nam Việt Nam, nở rộ vào khoảng năm 1000 TCN đến năm 200 sau Công nguyên.
Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh thành lập năm 1994, trưng bày bộ sưu tập nhiều hiện vật liên quan đến cư dân cổ thuộc hệ văn hoá Sa Huỳnh (niên đại cách nay 2000 năm) được phát hiện qua các đợt khảo sát, khai quật khảo cổ học từ Đồng bằng sông Cửu Long đến tỉnh Quảng Bình. Đây được coi là bộ sưu tập đồ tạo tác (phấn lớn từ đất nung) Sa Huỳnh lớn nhất và khác thường nhất tại Việt Nam.

Nhà cổ hai tầng kiến trúc Pháp - Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh, Di sản Hội An

Hiện vật trưng bày bên trong Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh, Di sản Hội An
Nhà cổ Đức An
Nhà cổ Đức An (Duc An House – ký hiệu F) tọa lạc tại số 129 đường Trần Phú. Công trình là một ngôi nhà buôn bán điển hình kiểu Hội An: cao 2 tầng, mặt bằng sàn hẹp, dài với một cửa hàng tại phía trước, một sân tại trung tâm, một không gian làm việc, sinh hoạt tại phía sau và không gian ở tại tầng trên.
Ngôi nhà có thể đã được xây dựng từ thế kỷ 17. Công trình hiện tại được xây dựng vào những năm 1850 trở đi. Năm 1908, ngôi nhà được chuyển đổi thành cửa hàng bán thuốc Trung Quốc. Đây cũng từng là nơi tụ họp các trí thức đầu thế kỷ 20, ví như Phan Chu Trinh.

Mặt trước Nhà cổ Đức An, DI sản Hội An

Mặt bằng tầng 1 Nhà cổ Đức An, DI sản Hội An
Không gian phòng khách phía sau cửa hàng, Nhà cổ Đức An, DI sản Hội An
Không gian sân trong, Nhà cổ Đức An, DI sản Hội An
Không gian cầu thang lên tầng trên, Nhà cổ Đức An, DI sản Hội An
Nhà cổ Tân Ký
Nhà cổ Tân Ký (Tan Ky House – ký hiệu G) là một cửa hàng buôn bán có hai mặt đường: số 101 đường Nguyễn Thái Học và đường Bạch Đằng, dọc theo sông Hoài, nhánh sông Thu Bồn. Công trình được cho là xây dựng vào cuối thế kỷ 18.
Kết cấu gỗ đỡ dầm mái của công trình được cho là theo kiến trúc Nhật Bản. Giữa hai không gian phòng lớn có một hành lang với mái đỡ dạng vòm.

Nhà cổ Tân Ký - nhà 2 tầng có mái hiên, Di sản Hội An

Nội thất phòng khách với kết cấu gỗ đỡ dầm mái theo kiến trúc Nhật Bản bên trong Nhà cổ Tân Ký, Di sản Hội An

Nội thất hàng hiên với kết cấu mái vòm bên trong Nhà cổ Tân Ký, Di sản Hội An

Phòng khách tại Nhà cổ Tân Ký, Di sản Hội An
Nhà cổ Quang Thắng
Nhà cổ Quang Thắng (Quang Thang House - ký hiệu I) tọa lạc tại số 77 đường Trần Phú. Công trình là một ngôi nhà buôn bán điển hình kiểu Hội An.
Nhà cổ Quang Thắng có thể được xây dựng vào đấu thế kỷ 18.

Nhà cổ Quang Thắng, Di sản Hội An

Phòng khách với bàn thờ phía trên (gác lửng), Nhà cổ Quang Thắng, Di sản Hội An

Sân trong Nhà cổ Quang Thắng, Di sản Hội An
Nhà cổ - Bảo tàng Thương mại Gốm sứ
Đây là một ngôi nhà cổ đẹp tọa lạc tại số 80 đường Trần Phú, được chuyển đổi thành Bảo tàng Thương mại Gốm sứ (Trading Ceramica Museum – ký hiệu J), trưng bày các đồ gốm sứ xuất khẩu của Hội An từ thế kỷ 15-17. Cấu trúc hiện tại của ngôi nhà có từ năm 1858, trên nền của ngôi nhà trước đó.
Công trình là một ngôi nhà buôn bán điển hình kiểu Hội An tương tự như Nhà cổ Đức An: cao 2 tầng, mặt bằng sàn hẹp, dài với một cửa hàng tại phía trước, một sân tại trung tâm, một không gian làm việc, sinh hoạt tại phía sau và không gian ở tại tầng trên.
Đặc biệt gian phía trước có một ô thông tầng lên tầng trên để thông thoáng, nâng chuyển hàng hóa và đồ đạc lên tầng trên khi có lụt.

Nhà cổ - Bảo tàng Thương mại Gốm sứ, Di sản Hội An
Không gian cửa hàng nhà cổ - Phòng trưng bày Bảo tàng Thương mại Gốm sứ, Di sản Hội An
Sân trong nhà cổ - Bảo tàng Thương mại Gốm sứ, Di sản Hội An
 |
 |
Ô thoáng để nâng chuyển hàng hóa và đồ đạc lên tầng trên khi có lụt tại nhà cổ - Bảo tàng Thương mại Gốm sứ, Di sản Hội An
Chùa, đình, miếu
Hội An từng là một trung tâm của Phật giáo tại Đàng Trong với đa số các ngôi chùa theo dòng Tiểu Thừa. Nhiều ngôi chùa ở đây có niên đại khởi dựng khá sớm, nhưng hầu hết kiến trúc gốc đã bị thay đổi, thậm chí mai một qua những biến thiên của lịch sử và những lần trùng tu.
Ngôi chùa sớm nhất được biết đến là chùa Chúc Thánh, tương truyền có gốc gác từ năm 1454, nằm cách trung tâm khu phố cổ khoảng 2 km về phía Bắc. Nơi đây vẫn lưu giữ nhiều di vật, tượng thờ, bia ký liên quan đến quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Đàng Trong. Ngoài ra ngoại ô Khu phố cổ còn có các chùa khác như Phước Lâm, Vạn Đức, Kim Bửu, Viên Giác... mang niên đại muộn hơn.
Giai đoạn đầu thế kỷ 20 cũng là thời kỳ xuất hiện nhiều ngôi chùa mới, ví dụ như chùa Long Tuyền, xây dựng vào năm 1909.
Bên cạnh những ngôi chùa tách khỏi làng xóm, nằm ven những dòng sông cổ, Hội An còn có các ngôi chùa làng gắn với những quần cư như một thành phần hữu cơ của tổng thể làng xóm. Điều này phản ánh giới tu hành gắn bó với thế tục và chứng tỏ Minh Hương Xã ở đây đã có một thiết chế văn hóa sinh hoạt cộng đồng khá mạnh. Trong Khu phố cổ, Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa Hội An nguyên trước đây là ngôi chùa thờ Phật bà Quan Âm do người Việt và người Minh Hương khởi dựng vào khoảng thế kỷ 17.
Các công trình đền, miếu ở Hội An mang chức năng chính là nơi thờ cúng các vị tiên hiền có công sáng lập phố, hội và Minh Hương Xã. Loại hình kiến trúc này thường có hình thức đơn giản, nằm ngay trong làng xóm, bố cục mặt bằng 1 x 3 gian tường gạch chịu lửa, mái ngói âm dương với ban thờ được đặt ở gian chính giữa.
Tiêu biểu nhất cho loại hình kiến trúc này là miếu Quan Công, còn được gọi là Chùa Ông.

Chùa Long Tuyền, Di sản Hội An

Chùa thờ Phật bà Quan Âm nay là Bảo tàng Văn hóa Dân gian Hội An
Chùa Cầu
Chiếc cầu cổ duy nhất còn lại ở Hội An ngày nay là Chùa Cầu (ký hiệu C), còn có tên gọi khác là Cầu Nhật Bản (Japanese Bridge) hay Lai Viễn Kiều.
Cầu dài khoảng 18m, bắc qua một lạch nước nhỏ chảy ra sống Thu Bồn, nối liền đường Trần Phú với đường Nguyễn Thị Minh Khai. Cầu được cho là xây dựng vào thế kỷ 17 bởi những người thợ thủ công Nhật Bản và Việt Nam. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu.
Cầu có kiểu trúc khá độc đáo, dạng trên là nhà, dưới là cầu, một loại hình kiến trúc khá phổ biến ở những quốc gia châu Á nhiệt đới.
Phần móng cầu được làm bằng các vòm trụ đá. Mặt cầu vồng lên, được lát ván làm lối qua lại, hai bên có bệ gỗ nhỏ, trước kia là nơi bày hàng buôn bán. Mái cong mềm mại của cầu được đỡ bởi một hệ thống kết cấu gỗ. Gắn liền với cầu về phía thượng nguồn là một gian thờ nhỏ thờ Huyền Thiên Đại đế, xây dựng sau cầu khoảng nửa thế kỷ. Ngôi chùa nằm ngay cạnh cầu, ngăn cách bởi một lớp vách gỗ và bộ cửa "thượng song hạ bản", tạo không gian riêng biệt. Mỗi đầu cầu, hai bên lối đi đều có hai bức tượng thú, một bên tượng khỉ, bên kia tượng chó bằng gỗ mít trong tư thế ngôi chầu. Theo truyền thuyết, con thủy quái Mamazu có đầu nằm ở Nhật Bản, đuôi ở Ấn Độ Dương và thân thì ở Việt Nam, mỗi khi cựa mình sẽ gây ra động đất, thiên tai, lũ lụt. Vì vậy những người Nhật đã xây dựng cây cầu cùng tượng Thần Khỉ và Thần Chó để trấn yểm con quái vật. Một thuyết khác cho rằng những bức tượng khỉ và chó xuất hiện trên cầu vì công trình này được khởi dựng vào năm Thân, hoàn thành vào năm Tuất.
Trải qua nhiều lần trùng tu, hình dáng cây cầu đã bị thay đổi nhiều, dáng vẻ ngày nay được hình thành trong những lần sửa chữa vào thế kỷ 18, 19, thể hiện rõ qua các trang trí bằng mảnh sứ tráng men hay đĩa sứ là biểu hiện đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn.
Cây cầu nhỏ mang tên Chùa Cầu - Lai Viễn Cầu ngày nay đã trở thành biểu tượng của thành phố Hội An.

Chùa Cầu Hội An nhìn từ trên cao, Di sản Hội An

Mặt bằng Chùa Cầu Hội An, Di sản Hội An

Chùa Cầu, Di sản Hội An

Nội thất Chùa Cầu, Di sản Hội An

Gian thờ Chó tại Chùa Cầu, Di sản Hội An

Gian thờ Khỉ tại Chùa Cầu, Di sản Hội An
Gian thờ nhỏ thờ Huyền Thiên Đại đế tại Chùa Cầu, Di sản Hội An
Đình Cẩm Phô
Đình Cẩm Phô (Dinh Cam Pho Communal House – ký hiệu A) nằm tại số nhà 52 đường Nguyễn Thị Minh Khai, được xây dựng từ rất sớm, được tu bổ lại vào năm 1817. Đình kiến trúc kiểu chữ Quốc với phương đình 4 mái phía trước, hai bên có nhà Đông, nhà Tây nối dài với bái đình thoáng rộng ở phía sau. Trang trí bờ nóc, bờ hồi, chính điện cùng các con giống độc đáo được coi là mẫu mực trong khu vực. Khi khởi lập, đình thờ Thành Hoàng, các vị thần bảo hộ cư dân cả làng. Đến đầu thế kỷ 20 sau lần tu bổ lớn vào năm 1897, đình phối thờ các vị Tiền – Hậu hiền làng Cẩm Phô nên đình có tên là “Cẩm Phô Hương Hiền”.

Mặt trước cổng vào Đình Cẩm Phô, Di sản Phố cổ Hội An

Mặt trước Đình Cẩm Phô, Di sản Phố cổ Hội An
Miếu thờ Quan Công
Miếu thờ Quan Công (Quan Cong Temple – ký hiệu M) nằm tại số 24 đường Trần Phú, góc giao với đường Nguyện Huệ, được xây dựng vào năm 1653, thờ Quan Công và còn được gọi là Chùa Ông.
Miếu được cải tạo lại nhiều lần trong khoảng thời gian từ năm 1753 đến 1827 và trong thế kỷ 20 và là một trong ví dụ điển hình về kiến trúc miếu thờ vùng Nam Trung Quốc tại Hội An. Tổ hợp công trình gồm: Tiền sảnh hay bái đường; Sân; Gian thờ. Phía sau miếu Quan Công là miếu thờ Quan Âm Bồ Tát, còn được gọi là Chùa Bà.

Mặt trước Miếu thờ Quan Công, Di sản Hội An

Sảnh tại Miếu thờ Quan Công, Di sản Hội An

Gian thờ tại Miếu thờ Quan Công, Di sản Hội An

Miều thờ Quan Âm Bồ Tát, phía sau Miếu thờ Quan Công, Di sản Hội An
Nhà thờ tộc
Nhà thờ tộc là một dạng kiến trúc nhà ở đặc biệt, của những dòng họ lớn có công lập làng, dựng phố từ thời kỳ sơ khai của Hội An và truyền lại cho con cháu làm nơi thờ tự tổ tiên. Các nhà thờ tộc có niên đại sớm nhất hầu hết của người Hoa kiều, vào đầu thế kỷ 17, số có niên đại thế kỷ 18 chỉ chiếm một phần nhỏ.
Nhiều nhà thờ họ ở đây có quy mô và kiến trúc rất đẹp, như nhà thờ tộc Trần, nhà thờ tộc Trương, nhà thờ tộc Nguyễn hay nhà thờ Tiền hiền Minh Hương.
Nhà thờ tộc Trần
Nhà thờ tộc Trần (Tran Family Shrine – ký hiệu H), nằm tại góc Đông Bắc đường Lê Lợi và Phan Chu Trinh, được xây dựng từ cuối thế kỷ 18 bởi những người thuộc gia tộc họ Trần có nguồn gốc từ Trung Quốc. Một phần công trình hiện được sử dụng làm cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ và tiền cổ Việt Nam.

Bên ngoài Nhà thờ tộc Trần, Di sản Hội An

Nội thất gian thờ và phòng khách Nhà thờ tộc Trần, Di sản Hội An
Nhà thờ Tiền hiền Minh Hương
Nhà thờ Tiền hiền Minh Hương (Minh Hương Village Shrine – ký hiệu N) nằm tại số 14 đường Trần Phú. Công trình được xây dựng vào thế kỷ 18, là nơi người Trung Quốc thờ cúng tổ tiên của họ, những người đã thành lập làng Minh Hương. Các vị thần được thờ phụng ở đây bao gồm Thánh Thiên Hậu, Thần Đất và Thần Tài. Ngôi miếu từng là văn phòng của hội đồng làng Minh Hương. Ngày nay, miếu vẫn còn được 60 gia đình của làng Minh Hương làm lễ vào mùa Xuân và mùa Thu để tôn vinh tổ tiên của họ. Tổ hợp công trình gồm: Cổng ngoài và tường bao; Sân trước và cổng trong; Sân trong và gian thờ

Cổng ngoài Nhà thờ Tiền hiền Minh Hương

Cổng trong Nhà thờ Tiền hiền Minh Hương

Sân trong phía trước gian thờ Nhà thờ Tiền hiền Minh Hương

Gian thờ chính Nhà thờ Tiền hiền Minh Hương
Hội quán
Một trong những đặc tính nổi trội của người Hoa là bất cứ nơi cư trú nào của họ ở ngoại quốc đều có các hội quán, sản phẩm sinh hoạt cộng đồng dựa trên cơ sở những người đồng hương. Tại Hội An ngày nay vẫn tồn tại 5 hội quán tương ứng với 5 bộ phận dân cư Hoa kiều lớn ở đây:
- Hội quán Phúc Kiến (chùa Kim An). Đây là hội quán lớn nhất.
- Hội quán Trung Hoa hay Dương Thương (chùa Ngũ Bang);
- Hội quán Triều Châu (chàu Ông Bổn);
- Hội quán Quỳnh Phủ (chùa Hải Nam);
- Hội quán Quảng Đông (chùa Quảng Triệu)
Các hội quán này có quy mô khá lớn, đều nằm trên trục phố Trần Phú và hướng chính ra sông Hoài.
Về hình thức, các hội quán ở Hội An được xây dựng theo một nguyên mẫu các hội quán vẫn thường gặp ở những đô thị cổ khác. Đó là một tổng thể bao gồm: cổng lớn phía trước, tiếp đến một khoảng sân rộng có trang trí cây cảnh, non bộ và hai nhà phụ thờ Tả thần và Hữu thần, sau đó là phương đình, nơi tiến hành các nghi lễ, kết thúc bởi nhà thờ, kiến trúc lớn nhất của tổng thể. Các hội quán đều được trang trí cầu kỳ, tỷ mỷ với bộ khung gỗ được chạm trổ, sơn son thếp vàng, phần mái tô điểm các con thú bằng sành tráng men nhiều màu. Ngoài chức năng duy trì sinh hoạt cộng đồng, hội quán còn một chức năng quan trọng khác, đó là tín ngưỡng. Tùy theo tục quán tín ngưỡng của từng cộng đồng mà hội quán lấy cơ sở để thờ phụng.
Hội quán Quảng Đông
Hội quán Quảng Đông (Cantonese Assembly Hall – ký hiệu E), tọa lạc tại 176 Trần Phú. Hội quán Quảng Đông (Hội Quan Quang Triệu) được thành lập năm 1786, phục vụ cộng đồng người Quảng Đông của Hội An. Bàn thờ chính dành riêng thờ Quan Công. Đây là một trong năm hội quán của các nhóm cộng đồng Trung Quốc khác nhau tại Hội An.

Mặt trước Hội quán Quảng Đông, Di sản Hội An

Gian thờ Hội quán Quảng Đông, Di sản Hội An
Hội quán Trung Hoa
Hội quán Trung Hoa (All – Chinese Assemply Hall – ký hiệu K) nằm tại số 64 đường Trần Phú. Hội quán được thành lập vào năm 1773, được sử dụng bởi các nhóm dân tộc thiểu số Trung Quốc tại Hội An, như: Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam, Triều Châu và Khánh Gia (Hakka).

Mặt trước Hội quán Trung Hoa, Di sản Hội An
Mặt trước gian thờ Hội quán Trung Hoa, Di sản Hội An
Hội quán Phúc Kiến
Hội quán Phúc Kiến (Phuc Kien Assemply Hall – ký hiệu L) nằm tại số 46 đường Trần Phú, được xây dựng vào năm 1690.
Hội quán là nơi thờ Thiên Hậu, nữ thần biển cả và là người bảo vệ các thủy thủ. Hội quán phục vụ cộng đồng Phúc Kiến (cộng đồng dân tộc Hoa lớn nhất tại Hội An). Ngoài ra tại đây cũng thờ 6 vị tướng nhà Minh chiến đấu chống lại nhà Thanh…
Tổ hợp công trình gồm: Cổng ngoài và sân ngoài; Cổng trong và sân trong; Sảnh và sân trước gian thờ; Gian thờ; Sân sau và hậu cung.

Mặt bằng Hội quán Phúc Kiến, Di sản Hội An

Cổng ngoài Hội quán Phúc Kiến, Di sản Hội An

Sân trước Cổng trong Hội quán Phúc Kiến, Di sản Hội An
Sảnh Hội quán Phúc Kiến, Di sản Hội An
Gian thờ tại Hội quán Phúc Kiến, Di sản Hội An
Nội thất gian hậu cung tại Hội quán Phúc Kiến, Di sản Hội An
Hội quán Hải Nam
Hội quán Hải Nam (Hai Nam Assemply Hall – ký hiệu O) nằm tại số 10 đường Trần Phú. Công trình được xây dựng vào năm 1851, xây dựng lại vào năm 1875 để tỏ lòng tôn kính với 108 vị thương nhân bị lực lượng hải quân Việt Nam giết trên biển do nhầm là hải tặc. Vua Tự Đức (nhà Nguyễn, trị vị từ năm 1847- 1883) sau khi trừng phạt các viên quan có trách nhiệm liên quan đã ra lệnh cho xây dựng hội quán Hải Nam tại Hội An và một số khu vực khác (bao gồm cả Đà Nẵng). Tổ hợp công trình gồm: Sân trước và cổng trước; Sân trong; Gian thờ.

Mặt trước Hội quán Hải Nam, Di sản Hội An

Sảnh và sân trước gian thờ Hội quán Hải Nam, DI sản Hội An

Gian thờ Hội quán Hải Nam, DI sản Hội An
Hội quán Triệu Châu
Hội quán Triệu Châu (Trieu Chau Assemply Hall – ký hiệu P) nằm tại góc đường Hoàng Diệu và Trần Phú. Công trình được xây dựng vào năm 1845 để vinh danh Đại tướng Phúc Bá, một vị thần có sức mạnh chế ngự biển. Ở bên phải và bên trái của bàn thờ là đền thờ thần phúc, lộc. Những người thờ cúng thường đến vào ban đêm để làm lễ. Tổ hợp công trình gồm: Cổng; Sân trong; Gian thờ.

Mặt trước Hội quán Triều Châu, Di sản Hội An

Sân trong trước gian thờ Hội quán Triều Châu, Di sản Hội An

Gian thờ Hội quán Triều Châu, Di sản Hội An
Hội An là vùng đất lành của khu vực Đông Á vào thế kỷ 17-19, nơi thu hút con người đến đây định cư, lập nghiệp, cư trú chính trị.
Khác với Huế, kinh thành cũ, nơi nhiều di sản văn hóa mang tính chất cung đình, hệ thống di tích của Hội An là những thiết chế văn hóa cổ truyền của cuộc sống đời thường. Ở Hội An, văn hóa vật thể tồn tại và tương thích với hình thái văn hóa phi vật thể, như phong tục tập quán, văn học dân gian, ẩm thực, lễ hội...
Hội An được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
http://whc.unesco.org/en/list/948
https://en.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_An
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%91_c%E1%BB%95_H%E1%BB%99i_An http://www.hoianworldheritage.org.vn/vi/news/Van-hoa-nghe-thuat/Kien-truc-Phap-o-Hoi-An-599.hwh http://vietnamtourism.com/disan/index.php?catid=2
http://www.quangnamtourism.com.vn/vn/tiemnangdulich.asp
https://www.orientalarchitecture.com/cid/118/vietnam/hoi-an
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|