Thông tin chung:
Công trình: Thung lũng Kathmandu (Kathmandu Valley), Nepal
Địa điểm: Kathmandu, Lalitpur và Bhaktapur, Nepal (N27 42 14,22 E85 18 30,888)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích khu vực Di sản 167,37 ha; Vùng đệm: 70,29ha
Năm thực hiện:
Giá trị: Di sản thế giới (1979; hạng mục iii; iv; vi)
Nepal là một quốc gia nằm sâu trong lục địa tại vùng vùng Himalaya ở Nam Á, giáp biên giới với Tây Tạng của Trung Quốc ở phía Bắc và Ấn Độ ở phía Nam, Đông và Tây.
Nepal có diện tích khoảng 147184km2; dân số khoảng 30 triệu người, thủ đô là thành phố Kathmandu. Diện tích lãnh thổ nhỏ, song Nepal có tám trong số mười đỉnh núi cao nhất thế giới.
Tên "Nepal" lần đầu tiên được ghi lại trong các văn bản từ thời kỳ Vệ Đà (Vedic Period, tồn tại vào năm 1500 – 500 TCN) của tiểu lục địa Ấn Độ (Nam Á), Trong thời kỳ Ấn Độ giáo là tôn giáo chủ yếu của đất nước.
Vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên (TCN), Phật Gautama (Gautama Buddha), người sáng lập ra Phật giáo, được sinh ra tại miền Nam Nepal. Nepal trở thành một vùng đất tâm linh, đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo đến Đông Á qua Tây Tạng.
Vào năm 800 TCN, tại vùng phía Đông Himalaya (bao gồm cả Nepal ngày nay) nằm dưới quyền thống trị bởi vương triều Kirata (Kirata Kingdom).
Đến năm 250 TCN, các khu vực phía Nam Nepal nằm dưới ảnh hưởng của Đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại năm 323 TCN - 184 TCN).
Đến thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, phần lớn Nepal nằm dưới ảnh hưởng của Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại vào thế kỷ 3 sau CN đến 543 sau CN).
Tiếp đó, Thung lũng Kathmandu thuộc Nepal ngày nay dưới quyền thống trị của Vương quốc Licchavi (Licchavi Kingdom, tồn tại trong khoảng từ năm 400 - 750 sau Công nguyên). Đây được coi là thời kỳ hoàng kim của Nepal.
Tiếp theo, Thung lũng Kathmandu thuộc Nepal ngày nay dưới quyền thống trị của Triều đại Malla (Malla Dynasty, tồn tại năm 1201- 1779). Thời kỳ của Triều đại Malla cũng là một thời kỳ vàng son kéo dài hơn 600 năm, liên quan đến tuyến đường thương mại đến Tây Tạng.
Sự cai trị của người Newars bản địa ở Nepal Mandala kết thúc bởi cuộc chinh phục của Vương quốc Gorkha (Gorkha Kingdom, nằm tại phía Tây Nepal, tồn tại năm 1559 – 1768).
Triều đại Shah (Shah Dynasty) thuộc Vương quốc Gorkha đã thành lập Vương quốc Nepal (Kingdom of Nepal, tồn tại năm 1768–2008) và sau đó liên minh với Đế quốc Anh.
Đất nước này chưa bao giờ là thuộc địa nhưng đóng vai trò là một quốc gia đệm giữa Đế chế Trung Hoa và Ấn Độ thuộc Anh. Năm 2008, nước cộng hòa được thành lập, chấm dứt chế độ quân chủ Hindu cuối cùng trên thế giới .
Thung lũng Kathmandu nằm tại chân dãy núi Himalaya, thuộc thủ đô Kathmandu, có hình lòng chảo với diện tích khoảng 570km2, phần chính của thung lũng nằm ở cao độ 1425m so với mực nước biển. Thung lũng được bao quanh bởi 5 ngọn núi: Shivapuri tại phía Bắc (ở độ cao 2.732m), Phulchowki tại phía Nam (2.762m), Nagarjun tại phía Đông (2.175m) và Chandragiri (2.242m) và Jamacho (2096m) tại phía Tây. Tại đây có nhiều nhánh sông, sông chính là Bagmati.
Kathmandu được thành lập năm 723 nằm ở vị trí trung tâm, là kinh đô của liên minh cổ đại trên tiểu luc địa Ấn Độ được gọi là Nepal Mandala, thuộc sự thống trị của người Newars bản địa trong nhiều thế kỷ.
Người Newar là những cư dân của thung lũng Kathmandu và các vùng lân cận; những người tạo ra lịch sử và nền văn minh Nepal. Họ hình thành một cộng đồng ngôn ngữ và văn hóa chủ yếu là người Ấn Độ-Aryan và Tây Tạng-Miến Điện, gồm các bộ tộc theo Ấn Độ giáo và Phật giáo với ngôn ngữ Newar là ngôn ngữ chung.
Người Newars đã phát triển sự phân công lao động và một nền văn minh đô thị tinh vi chưa từng thấy ở những nơi khác trên chân núi Himalaya; được biết đến với những đóng góp cho văn hóa, nghệ thuật và văn học, thương mại, nông nghiệp và ẩm thực.
Thung lũng trở thành thủ đô của các đế chế. Vùng đất xung quanh dần bị họ chinh phục.
Thung lũng Kathmandu là nơi phát triển nhất và đông dân cư nhất ở Nepal. Các thương nhân trong thung lũng Kathmandu đã thống trị được Con đường Tơ lụa cổ đại nhánh Himalaya.
Nặm 2015, tại đây đã xảy ra một trận động đất mạnh phá hủy nhiều công trình có giá trị lịch sử.
Thung lũng Kathmandu, Nepal được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (1979) với các tiêu chí:
Tiêu chí (iii): Bảy cụm di tích của Di sản là một bằng chứng đặc biệt về nền văn minh truyền thống tại thung lũng Kathmandu. Truyền thống văn hóa của những người đa sắc tộc Newars định cư ở thung lũng Himalaya xa xôi này trong hai thiên niên kỷ, được thể hiện trong một xã hội đô thị độc đáo, nơi tự hào có một trong những nghề thủ công phát triển cao nhất về gạch, đá, gỗ. và đồ đồng trên thế giới. Sự chung sống và hòa hợp của Ấn Độ giáo và Phật giáo với các nghi lễ Vật linh (animist rituals) và Mật tông (Tantrism) tại đây được coi là duy nhất.
Tiêu chí (iv) : Di sản bao gồm các dạng công trình kiến trúc, cụm công trình, khu vực đô thị, minh họa cho các nền văn hóa phát triển trong thung lũng, đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 15 – 18 sau Công nguyên, thể hiện qua các minh chứng tinh tế của các khu phức hợp cung điện, cụm công trình đền, chùa, tháp tại thung lũng Kathmandu.
Tiêu chí (vi): Di sản gắn liền với sự chung sống và hòa hợp độc đáo của Ấn Độ giáo và Phật giáo với các nghi lễ Vật linh và Mật giáo. Các giá trị của Di sản mang tính biểu tượng và nghệ thuật cao được thể hiện trong các trang trí của các tòa nhà, cấu trúc đô thị gắn với môi trường tự nhiên xung quanh, liên quan chặt chẽ với những truyền thuyết, nghi lễ và lễ hội.


Sơ đồ vị trí khu vực Di sản Thung lũng Kathmandu, Nepal
Di sản Thung lũng Kathmandu, Nepal là nơi giao nhau của các nền văn minh cổ xưa của châu Á, nơi tập trung đến 130 di tích quan trọng, trong đó có nhiều địa điểm hành hương của những tin đồ theo đạo Hindu và Phật giáo. Tại đây có 7 di sản tiêu biểu nằm tại 3 thành phố:
Quảng trường Bhaktapur Durbar và Đền Changu Narayan tại thành phố Bhaktapur;
Đền Pashupatinath; Bảo tháp Boudhanath; Quảng trường Kathmandu Durbar ; Đền Swayambhunath tại thành phố Kathmandu;
Quảng trường Patan Durbar tại thành phố Lalitpur.
Di sản tại thành phố Bhaktapur
Thành phố cổ Bhaktapur nằm tại phía Đông của thung lũng Kathmandu, cách thành phố Kathmandu 13 km về phía Đông, là tiểu vương quốc (thị quốc) lớn nhất trong 3 tiểu vương quốc Bhaktapur,
Kathmandu và Lalitpur của người Newars. Thành phố ngày nay có khoảng 80 ngàn dân.
Quảng trường Bhaktapur Durbar
Di sản Quảng trường (Bhaktapur Durbar Square) là một khu vực được giới hạn bởi các công trình kiến trúc, đền, tháp rất hoành tráng và sinh động, là thành quả to lớn của những nghệ sĩ và thợ thủ công Newari qua nhiều thế kỷ.
Di sản có diện tích 3,61ha, vùng đệm 10,71ha.
Quảng trường bị hư hại nghiêm trọng trong trận động đất vào năm 1934 và năm 2015.
Lối vào chính của Quảng trường từ phía Tây với các công trình chính:
- Cổng chính phía Tây (Old Town Entrance Gate): xây bằng gạch, phía trước có các bức phù điêu trang trí; Phía sau cổng là tượng Ugrachandi và Ugrabhairab (Ugrachandi và Ugrabhairab Statue);
- Đền Krishna (Krishna Temple): nằm cạnh cổng chính phía Tây, là dạng kiến trúc đền rất phổ biển tại Kathmandu và Nepal. Công trình đặt trên hai tầng bệ, mặt bằng hình vuông, 3 gian, cao 2 tầng, mái kép, vươn rất xa ra ngoài, được đỡ bằng các thanh chống xiên gỗ, như một khối điêu khắc;
- Bảo tàng nghệ thuật Quốc gia (National Art Gallery): là 2 khối nhà cao 3 tầng nằm tại phía Bắc của Quảng trường;
- Cung điện 55 cửa sổ (Pachpanna Jhyale Durbar), nằm tại phía Bắc quảng trường, là một phần của cung điện hoàng gia (cho đến năm 1796), được xây dựng vào năm 1427 và tu sửa lại trong thế kỷ 17. Công trình xây dựng bằng gạch, có hình dáng duyên dáng và công phu với ban công của 55 cửa sổ, được coi là một kiệt tác độc đáo chạm khắc gỗ, và là một trong những di tích lâu đời nhất tai Nepal.
- Cổng vàng (Golden Gate - Lu Dhowka): nằm cạnh Cung điện 55 cửa sổ, được cho là hình mẫu đẹp nhất và đa dạng về loại hình này trên thế giới, là một viên ngọc lấp lánh trong khung cảnh tuyệt đẹp xung quanh.
- Tượng nữ thần của vua (King Bhupatindra Mallas Column): được đặt trên cột, nằm giữa Quảng trường. Đây là một trong những bức tượng đẹp nhất trong số nhiều bức tượng tại Quảng trường.
- Đền Vatsala Durga (Vatsala Durga Temple): nằm phía sau cột tượng nữ thần. Đền bằng đá sa thạch thờ nữ thần Devi Vatsala với nhiều chạm khắc phức tạp. Cạnh đền là một tháp treo chuông (Teleju Bell). Sau đền là một bể nước (Dhunge Dhara). Đền bị phá hủy hoàn toàn trong trận động đất năm 2015.
- Đền bát giác Chayasilin (Chayasilin Mandap): nằm tại phía Bắc đền Vastala Dunga, như một bông hoa sen, có mặt bằng hình vuông với một khối trụ giữa, 4 phía là 3 gian 12 cột, mái kép với mái dưới dạng bát giác, mái trên hình vuông;
- Đền Pashupatinath Temple (Pashupatinath Temple): nằm tại phía Nam đền Vastala Dunga, có cấu trúc xây dựng như đền Krishna nhưng quy mô lớn hơn.
- Đền Siddhi Laxmi Temple: nằm tại phía Đông của quảng trường chính, là một đền tháp bằng đá, đặt trên bệ cao, lối lên đền từ hướng Nam với các con thú đá trang trí hai bên.

Phạm vi Di sản Quảng trường Bhaktapur Durbar, Nepal

Sơ đồ các hạng mục công trình chính tại Quảng trường Bhaktapur Durbar, Nepal

Cổng chính (cổng phía Tây) vào Quảng trường Bhaktapur Durbar, Nepal

Đền Krishna nằm cạnh cổng chính vào Quảng trường Bhaktapur Durbar (cổng phía Tây)

Tượng trang trí trước lối vào Bảo tàng nghệ thuật Quốc gia (tại đầu phía Tây quảng trường)

Quảng trường Bhaktapur Durbar, Nepal

Cổng vàng và Cung điện 55 cửa sổ, Di sản Quảng trường Bhaktapur Durbar

Cụm công trình trung tâm của quảng trường: Tượng nữ thần của vua đặt trên cột; Đền Vatsala Durga (bằng đá sa thạch); Tháp chuông; Đền bát giác Chayasilin (lề trái) và Đền Pashupatinath Temple (lề phải)
Đền Siddhi Laxmi nằm tại phía Đông Quảng trường Bhaktapur Durbar
Đền Changu Narayan
Di sản Đền Changu Narayan (Changu Narayan Temple) nằm trên một đỉnh đồi cao, bao quanh là rừng cây và một ngôi làng nhỏ, cách 22km về phía Đông thủ đô Kathmandu.
Di sản có diện tích 35,92ha.
Đền Changu Narayan thờ thần Vishnu, là một trong ba vị thần chính của Ấn Độ giáo (Vishnu, Brahma và Shiva). Đây được coi là một trong những ngôi đền cổ nhất trong lịch sử Nepal.
Đền là một quần thể với hàng chục hạng mục công trình. Bao quanh là các công trình tạo thành tường thành. Giữa quần thể là một sân rộng. Đền nằm gần chính giữa sân (trong hình vẽ ký hiệu 1).
Đền chính Changu Narayan được xây dựng theo phong cách kiến trúc Nepal truyền thống với mặt bằng hình vuông, dạng hai tầng mái (mái kép) đặt trên các bệ đá. Lối lên đền từ bốn phía, hai bên lối lên là các tượng thú như sư tử, voi…Các thanh xiên chống kết cấu mái bằng gỗ, tạc 10 hiện thân của thần Vishnu và các thần khác. Cửa ra vào đền được mạ vàng với chạm khắc thần rắn Nagas.
Ngoài ra, trong sân đền có vô số đền thờ nhỏ, tượng các vị thần, tượng vua và hoàng hậu, các điêu khắc đá.
Đền Changu Narayan còn là nơi tổ chức lễ hội, hội chợ vào những dịp khác nhau. Một trong những lễ hội chính được gọi là Changu Narayan Jatra.

Sơ đồ phạm vi Di sản Đền Changu Narayan, Bhaktapur, Nepal

Sơ đồ mặt bằng quần thể đền Changu Narayan, Bhaktapur, Nepal

Mặt đứng đền Changu Narayan - ngôi đền truyền thống Nepal điển hình

Phối cảnh đền Changu Narayan, Bhaktapur, Nepal

Trang trí cửa vào đền và thanh chống xiên đỡ mái hiên rộng, đền Changu Narayan, Bhaktapur, Nepal

Các tượng trang trí gắn với các sự tích tôn giáo xung quanh đền Changu Narayan, Bhaktapur, Nepal
Di sản tại thành phố Kathmandu:
Kathmandu là thủ đô của Nepal, diện tích khoảng 49,45km2, là thành phố lớn nhất ở Nepal, với dân số khoảng 1,4 triệu người.
Đền Pashupatinath
Di sản đền Pashupatinath (Pashupatinath Temple) là ngôi đền nổi bật trong khu vực với 518 ngôi đền, tháp, tu viện và các di tích tượng, phù điêu, chữ viết được thực hiện trong nhiều thế kỷ.
Di sản có diện tích 83,55ha, vùng đệm 11,55ha.
Quần thể đền Pashupatinath nằm tại trung tâm thị trấn Deopatan, trên bờ sông Bagmati, về phía Đông Bắc thung lũng Kathmandu. Đây là một ngôi đền Hindu nổi tiếng thờ Pashupatinath, là hóa thân của thần Shiva, chúa tể của muôn loài. Đền hình thành từ thế kỷ thế 11 đến thế kỷ 15 (được cho là có liên quan đến giáo phái khổ hạnh Pashupata và thờ thần hoàng của người cai trị Thung lũng Kathmandu), là một trong những ngôi đền Hindu linh thiêng và cổ nhất tại Kathmandu.
Ngôi đền ban đầu đã bị phá hủy. Hình thức hiện tại là ngôi đền được xây dựng lại vào năm 1679.
Quần thể đền Pashupatinath gồm một mật độ dày đặc các công trình bao quanh, tạo thành một sân trong.
Giữa sân là ngôi đền chính có hình thức kiến trúc đền truyền thống Nepal, đặt trên bệ 1 tầng, mặt bằng hình vuông, 2 tầng, mái kép với mái ốp gạch màu vàng. Đền cao khoảng 23,6m với các cửa mạ vàng, mạ bạc có hình các vị thần giám hộ tại 4 phía. Các thanh xiên chống kết cấu mái gỗ chạm khắc hình tượng các vị thần.
Bên trong ngôi đền chính chứa một linga cao một mét với bốn mặt thể hiện biểu tượng của thần Pashupati, cũng như hình ảnh của thần Hindu giáo.
Xung quanh đền chính có nhiều đền nhỏ, bảo tháp, tượng.
Phía Bắc và Đông Bắc của đền chính là một tu viện và ngôi đền nhỏ thờ thần Vasuki (Nagaraja - là một loại rắn thần, được cho là bảo vệ cho đền chính).
Phía Đông của đền chính là cụm công trình với các bậc thềm nằm dọc theo sông Bagmati. Đây là một địa điểm thiêng liêng, nơi người hành hương tắm gội, các bệ để hỏa táng. Đối diện với đền qua sông là một dãy 15 bảo tháp thờ biểu tượng Linga.
Phía Nam của đền chính là một hành lang rộng với bậc thềm và các bảo tháp đá.
Mặt Tây của đền chính là một bức tượng khổng lồ thần Nandi (hình tượng con bò) bằng đồng.

Phạm vi Di sản đền Pashupatinath, Kathmandu, Nepal
Sơ đồ vị trí đền Pashupatinath và các công trình chính xung quanh, Kathmandu, Nepal

Phối cảnh đền Pashupatinath nhìn từ hướng Tây Nam

Phối cảnh tổng thể đền Pashupatinath nhìn từ hướng Tây Bắc

Đền Pashupatinath nằm dọc theo sông Bagmati

Lối lên đền từ phía Đông từ sông Bagmati

Đền Pashupatinath với bức tượng thần Nadi (bò vàng)

Nội thất bên trong đền Pashupatinath, Kathmandu, Nepal
Bảo tháp Boudhanath
Di sản Bảo tháp Boudhanath (Boudhanath Stupa) nằm cách trung tâm Kathmandu về phía Đông Bắc khoảng 11km, là một trong những tháp dạng tròn lớn nhất trên thế giới. Tháp được cho là xây dựng vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên.
Di sản có diện tích 1,27ha, vùng đệm 2,83ha.
Tháp nằm trên tuyến đường thương mại cổ xưa từ Tây Tạng đi vào thung lũng Kathmandu. Đây là nơi các thương nhân và người hành hương nghỉ ngơi và cầu nguyện. Sau năm 1959, nhiều người dân Tây Tạng đã đến định cư ở khu vực xung quanh bảo tháp Boudhanath. Tháp được cho là nơi chôn cất hài cốt của Đức Phật Kassapa (Ca Diếp). Tương truyền rằng, tín đồ đi vòng quanh Bảo tháp sẽ nhận được cơ hội sửa chữa các lỗi lầm của mình.
Ngày nay, chùa tháp Boudhanath là một trong những nơi quan trọng nhất của các cuộc hành hương và thiền định của Phật giáo Tây Tạng và người dân Nepal.
Lối vào chính Bảo tháp từ phía Bắc. Xung quanh là đường phố với các tòa tu viện, nhà ở.
Ngôi tháp được cấu trúc theo mô hình các hình vuông và hình tròn đan xen nhau. Mỗi phần của ngôi tháp đều có ý nghĩa biểu trưng nhất định.
Từ trên nhìn xuống, bảo tháp trông giống như một biểu tượng Mạn Đà La khổng lồ (Mandala – một hình vẽ biểu thị vũ trụ trong cái nhìn của một bậc giác ngộ; về cơ bản là một hình tròn).
Tháp được đặt trên 3 tầng bệ, mỗi tầng bệ có mặt bằng hình vuông, dật 1 cấp ở góc. Xung quanh bệ có một số các tháp nhỏ.
Tháp có hình dạng là một phần của khối cầu cao khoảng 36m, đường kính 100m. Vòng quanh chân của khối cầu có các hốc đặt 108 bức bích họa miêu tả các sự tích, biểu tượng, thần chú Phật…Đỉnh của tháp là một khối vuông 4 mặt với đôi mắt Phật dõi theo 4 hướng, tiếp đó là một hình tháp với 13 bậc thu nhỏ dần lên đỉnh; trên cùng là một vòm mạ vàng gắn với hình tượng một cái lọng, biểu tượng của hoàng gia.
Toàn bộ quần thể bảo tháp được bao quanh bởi một bức tường gần như hình tròn với 16 mặt. Trong lớp tường bao có các hốc đặt những bức bích họa miêu tả các sự tích Phật.
Tháp xây bằng gạch, đá, vữa.
Tháng 4/2015, một trận động đất đã làm tháp Boudhanath hư hỏng nặng.

Sơ đồ vị trí và phạm vi Di sản bảo tháp Boudhanath, Kathmandu, Nepal

Sơ đồ vị trí các di tích Phật giáo xung quanh Di sản bảo tháp Boudhanath, Kathmandu, Nepal

Phối cảnh tổng thể bảo tháp Boudhanath, Kathmandu, Nepal

Bảo tháp Boudhanath, Kathmandu, Nepal

Trang trí xung quanh và trên đỉnh Bảo tháp Boudhanath, Kathmandu, Nepal

Nội thất bên trong Bảo tháp Boudhanath, Kathmandu, Nepal

Đường phố xung quanh Bảo tháp Boudhanath, Kathmandu, Nepal
Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar
Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar (Hanuman Dhoka Durbar Square), còn gọi là quảng trường Kathmandu Durbar (Kathmandu Durbar Square) nằm tại phía Bắc của Cung điện hoàng gia của tiểu vương quốc Kathmandu.
Di sản có diện tích 5,09ha, vùng đệm 6,47ha.
Quảng trường được bao quanh bởi các công trình kiến trúc hoành tráng và sinh động thể hiện kỹ năng xây dựng của các nghệ nhân và thợ thủ công người Newars trong nhiều thế kỷ. Quảng trường Kathmandu Durbar còn có tên là Hanuman Dhoka Durbar Square, bắt nguồn từ các bức tượng khỉ (Hanuman Statue) ở lối vào của cung điện, là các tín đồ của vị thần Rama trong Độ giáo.
Quảng trường được cho là hình thành vào thế kỷ thứ 3, song các công trình hiện nay được xây dựng vào thế kỷ 15-17.
Các di tích quan trọng trong khu vực Quảng trường:
- Cung điện hoàng gia (Old Royal Palace): là nơi ở của gia đình Hoàng gia, được xây dựng vào thế kỷ 15-18, bao gồm một tổ hợp các công trình có mặt bằng hình vuông hoặc chữ nhật có sân trong (Chowk) và liên kết với nhau tạo thành các quảng trường của quần thể cung điện. Trong cung điện có các đền thờ bố trí xen kẽ với các khối công trình và nổi tiếng với nhiều cánh cửa sổ chạm khắc phức tạp. Cung điện còn được gọi là Hanuman Dhoka Durbar do tại đây có bức tượng thần khỉ (Hanuman) được đặt ngay bên cạnh lối vào chính (tại phía Bắc) cung điện. Ngày nay cung điện vẫn là nơi tổ chức các sự kiện quan trọng của hoàng gia như lễ đăng quang của vua vào năm 1975 và năm 2001.
- Đền Taleju (Taleju Temple): nằm tại phía Đông Bắc Quảng trường, là ngôi đền có cấu trúc xây dựng cao nhất trong khu vực, được xây dựng vào năm 1549. Đền có hình thức kiến trúc kiểu đền truyền thống Nepal với mặt bằng hình vuông, 3 tầng mái vươn rộng ra xung quanh với các thanh chống xiên bằng gỗ đỡ kết cấu mái; Đền đặt trên các bậc thềm, xung quanh có 16 tháp nhỏ, bố trí thành hai hàng, hàng ngoài 12 tháp, hàng trong 4 tháp.
- Đền Jagannath (Jagannath Temple): nằm tại phía Bắc của cung điện Hoàng Gia, được xây dựng vào thế kỷ 16. Đền cũng được xây dựng theo kiểu đền truyền thống Nepal song chỉ có mái kép, đặt trên một bệ có 4 bậc, xung quanh có 4 tháp nhỏ. Phía Tây của đền là một cột đá (Pratapa Malla Columm), trên đỉnh đặt tượng vua Pratap Malla.
- Đền Kasthamandap (Kasthamandap Temple) : nằm tại phía Tây Nam của cung điện Hoàng gia. Công trình được cho là làm từ gỗ của một cây duy nhất.
- Cụm 3 đền Narayan, Maju Deval và Trailokya Mohan Narayan: nằm tại phía Tây của cung điện Hoàng gia, theo hình thức đền truyền thống Nepal với 3 tầng mái và được đặt trên một bệ cao xây bằng gạch đỏ. Cụm đền được xây dựng vào thế kỷ 16. Trận động đất tháng 4/2015 đã làm cho đền Maju Deval bị phá hủy hoàn toàn.
\
Sơ đồ phạm vi Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar, Kathmandu, Nepal

Sơ đồ vị trí các công trình chính trên quảng trường Hanuman Dhoka Durbar, Kathmandu, Nepal

Quảng trường được giới hạn bởi các tòa cung điện xây dựng theo các giai đoạn khác nhau

Sân trong của một cụm công điện (Lohan Chowk), Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar

Đền Taleju, Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar, Kathmandu, Nepal

Đền Jagannath và một cột đá trên đỉnh đặt tượng vua Pratap Malla, Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar, Kathmandu, Nepal 

Mặt bằng và mặt cắt đền Kasthamandap - ngôi đền truyền thống điển hình Nepal, Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar, Kathmandu, Nepal

Đền Kasthamandap, Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar , Kathmandu, Nepal

Bên trong tầng 2 đền Kasthamandap, Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar , Kathmandu, Nepal

Cụm 3 đền Narayan, Maju Deval và Trailokya Mohan Narayan, Di sản Quảng trường Hanuman Dhoka Durbar, Kathmandu, Nepal
Đền Swayambhunath
Di sản Đền Swayambhunath (Swayambhunath Temple) là một quần thể nằm trên một ngọn đồi trong thung lũng Kathmandu, tại phía Tây thành phố Kathmandu.
Di sản có diện tích 32,63h, vùng đệm 25,18ha.
Quần thể đền Swayambhu là một trong những địa điểm tôn giáo lâu đời nhất tại Nepal, được thành lập vào thế kỷ 5 sau Công nguyên. Song các nghiên cứu khảo cổ cho thấy nhiều hạng mục công trình đã có mặt tại đây từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, sau đó bị phá hủy và các công trình khác xây dựng lên trên.
Quần thể đền Swayambhu thờ cả Phật giáo và Ấn Độ giáo.
Đối với người Newars theo đạo Phật , đền chiếm một vị trí trung tâm, là nơi thiêng liêng nhất cho các tín đồ hành hương Phật giáo. Đối với người Tây Tạng, đền chỉ đứng vị trí thứ hai sau bảo tháp Boudhanath tại Kathmandu.
Do tại đây có nhiều khỉ sinh sống, nên đền còn được gọi là chùa Khỉ.(Monkey Temple).
Quần thể đền bố cục uốn lượn theo sườn núi. Đỉnh của ngọn núi là bảo tháp Swayambhu (Swayambhu Stupa), xung quanh là các đền, tháp, tu viện và bảo tàng, thư viện (mới xây dựng trong những năm gần đây).
Có đến 4 đường dốc bậc lên đền (2 lối từ hướng Đông và 2 lối từ hướng Tây).
Lối vào chính lên đền từ hướng Đông với 365 bậc đá, dẫn đến hai tòa tháp màu trắng Pratapa Malla (Pratapa Malla Turm, trong hình vẽ ký hiệu 2 và 4); tiếp đó là một bệ, trên đặt một biểu tượng (ký hiệu 3) tượng trưng cho sức mạnh của thần Sấm sét (Indra) và sự bền vững của thần Kim cương (thần Vệ Đà – Vedas) theo truyền thống Phật Giáo và Ấn Độ giáo.
Trung tâm của quần thể là bảo tháp Swayambhu, có hình dạng như bảo tháp Boudhanath tại Kathmandu, nhưng quy mô nhỏ hơn với đôi mắt Phật khổng lồ nhìn về 4 hướng. Tháp hiện tại được cải tạo lại vào năm 2010, là lần cải tạo thứ 15 trong khoảng 1500 năm kể từ khi được xây dựng. Mái vòm được mạ vàng với 20kg vàng.
Phía sau của bảo tháp Swayambhu là đền Hariti (Hariti Temple - ký hiệu 9). Đền theo kiểu đền truyền thống Nepal, mái mạ vàng. Tại sân xung quanh bảo tháp Swayambhu có các công trình biểu tượng cho Đất (Vasupur - 5); Không khí (Vayupur - 6); Nước (Nagapur - ký hiệu 10); Lửa (Agnipur - ký hiệu 12) và Bầu trời (Shantipur - ký hiệu 13).
Nhiều ngôi đền bị hư hại nặng trong trận động đất vào tháng 4/2015.

Sơ đồ phạm vi Di sản Quần thể đền Swayambhunath, Kathmandu, Nepal

Sơ đồ vị trí các công trình chính tại Quần thể đền Swayambhu, Kathmandu, Nepal

Quần thể đền Swayambhu nằm trên một ngọn núi

Lối vào chính dẫn lên Quàn thể đền Swayambhu, Kathmandu, Nepal

Trung tâm của Quần thể đền là bảo tháp Swayambhu, hai bên là hai tòa tháp màu trắng Pratapa Malla và các đền tháp khác

Biểu tượng tượng trưng cho sức mạnh của thần Sấm sét (Indra) và sự bền vững của thần Kim cương (thần Vệ Đà – Vedas) đặt trước lối vào bảo tháp

Trang trí bệ và đỉnh bảo tháp Swayambhu, Quần thể đền Swayambhu, Kathmandu, Nepal

Đền Hariti với bề mặt mạ vàng, Quần thể đền Swayambhu, Kathmandu, Nepal

Đền xung quanh bảo tháp: đến Shantipur (bầu trời), là một trong 5 ngôi đền tượng trưng cho đất, không khí, nước, lửa và bầu trời.
Di sản tại thành phố Lalitpur
Lalitpur (còn có tên là Patan) là một thành phố trung tâm của khu vực Laitpur, diện tích 385km2, dân số khoảng 460 ngàn người, nằm tại phía Nam thành phố Kathmandu.
Patan là một trong những thành phố Phật giáo lâu đời nhất và là trung tâm của cả Ấn Độ giáo và Phật giáo. Với 136 quảng trường hay khoảng sân và 55 ngôi chùa, đền lớn. Hầu hết các cấu trúc này nằm trong vùng lân cận của quảng trường Durbar.
Quảng trường Patan Durbar
Di sản Quảng trường Patan Durbar (Patan Durbar Square) nằm tại trung tâm thành phố Lalitpur.
Diện tích di sản 5,3h, diện tích vùng đệm 13,55ha.
Một trong những điểm thu hút của quảng trường là cung điện hoàng gia cổ xưa, nơi các triều đại Malla (Malla Dynasty) cư trú. Đây là triều đại cầm quyền tại Nepal trong khoảng thời gian từ năm 1201- 1779, thời đại mà người dân sống trong và xung quanh thung lũng Kathmandu bắt đầu được gọi là " Newars " (hoặc Nepa). Mallas (tiếng Phạn: đô vật) là gia tộc cầm quyền.
Quảng trường Patan Durbar là một thành tựu đáng ngạc nhiên về kiến trúc của người Newa.
Quảng trường được hình thành bởi các công trình cung điện, đền, tháp, tượng, bố trí dọc theo một tuyến đường rộng, chạy theo hướn Bắc – Nam. Phần lớn các công trình cung điện nằm tại phía Đông của quảng trường.
Quảng trường Patan Durbar được cho là đã có từ thời Cổ đại. Các kiến trúc hiện nay được xây dựng vào những năm 1600, bị hư hỏng nặng trong trận động đất tháng 4/2015.
Quảng trường lát bằng gạch đỏ. Các ngôi đền chính nằm đối diện với mặt phía Tây của cung điện. Lối vào các đền thờ phải vào từ hướng Đông, hướng tới cung điện.
Một số hạng mục công trình chính trong quảng trường:
- Cung điện hoàng gia (Royal Palace): bao gồm 2 cụm chính nằm tại đầu phía Bắc và Nam của quảng trường. Mỗi cụm có 2 khối công trình theo dạng mặt bằng hình vuông hoặc chữ nhật với sân trong. Trong sân trong và phía trước cung điện có nhiều tượng đài, giếng nước…Các công trình trong cung điện có các cửa gỗ chạm khắc tinh tế, tạo kiến trúc mặt đứng tuyệt đẹp. Gần cung điện có các trụ cột trang trí và bức tượng của vua Yoga Narendra Malla (Lalitpur).
- Sân trước các cung điện: có 3 sân chính Mul Chowk; Sundari Chowk, và Mani Keshar Chowk. Sân nổi tiếng nhất và lớn nhất là sân Mul Chowk; nằm giữa hai cụm cung điện; giữa sân có đền Degutale (Degutale Temple) và đền Taleju (Taleju Temple). Sân Sundari Chok được thiết kế chìm xuống so với nền xung quanh. Lối vào của các sân đều được trang trí bằng các tượng thần, thú gắn với các sự tích tôn giáo.
- Đền Krishna (Krishna Temple): nằm tại đầu phía Nam của Quảng trường, là ngôi đền quan trọng nhất trong khu vực, được xây dựng vào năm 1637. Đền được xây dựng theo phong cách chùa núi (Shikhara) Ấn Độ với các hình chạm khắc bằng đá dọc theo cột. Tại tầng đầu tiên chạm khắc miêu tả các sự kiện trong câu chuyện sử thi Ấn Độ cổ đại Mahabharata; trên tầng hai chạm khắc miêu tả các sự kiện trong câu chuyện sử thi Ấn Độ cổ đại Ramayana. Chùa có 21 tháp nhọn, cao 3 tầng. Tầng 1 thờ thần Krishna là hóa thân của thần Vishnu (một trong ba vị thần chính của Ấn Độ giáo: Vishnu, Brahma và Shiva); hai bên thờ Radha (người hầu) và Rukmini (vợ) của thần Krishna. Tầng hai thờ thần Shiva. Tầng ba thờ Đức Phật (Gautama Buddha). Quảng trường trước đền là nơi có thể chứa được hàng ngàn người hành hương và tín đồ Hindu trong ngày lễ Krishna Janmashtami (kỷ niệm ngày sinh hàng năm của thần Krishna).
- Đền Bhimsen (Bhimsen Temple): nằm tại đầu phía Bắc của Quảng trường, được xây dựng trong năm 1680, thờ vị thần kinh doanh và thương mại Bhimsen. Đền có hình dáng của ngôi đền Nepal truyền thống và nổi tiếng với 3 cửa sổ vàng.
- Đền thờ Vishwanath (Vishwanath Temple): nằm cạnh đền Bhimsen, là đền thờ dành riêng cho thần Shiva, được xây dựng vào năm 1627. Đền có hình dáng của ngôi đền Nepal truyền thống với các thanh xiên gỗ đỡ mái được chạm khắc các hình tượng thường thấy trong các đền thờ Shiva tại Ấn Độ. Trước cửa đền là tượng hai con voi. Xung quanh đền là các tác phẩm điêu khắc như con bò, xe của Shiva…
- Đền Taleju (Taleju Temple): nằm tại trung tâm của quảng trường, cùng phía với cụm công trình cung điện. Đền được xây dựng vào năm 1640, xây dựng lại vào năm 1667. Đền thờ thần Taleju Bhawani là vị thần bảo trợ cho các vị vua triều đại Malla. Đền cao 5 tầng với tầng mái.
- Đền Jagannarayan (Jagannarayan Temple): nằm tại phía Tây của quảng trường, là một ngôi đền truyền thống Nepal điển hình với mặt bằng hình vuông, 2 tầng mái với các thanh chống xiến đỡ kết cấu mái.

Phạm vi Di sản Quảng trường Patan Durbar, Laitpur, Nepal

Sơ đồ vị trí các công trình chính tại Quảng trường Patan Durbar, Laitpur, Nepal

Phối cảnh tổng thể Quảng trường Patan Durbar , Laitpur, Nepal


Sân trong cụm cung điện (Mul Chowk), Quảng trường Patan Durbar , Laitpur, Nepal

Trang trí một giếng tại sân trong cung điện, Quảng trường Patan Durbar , Laitpur, Nepal

Đền Krishna, Quảng trường Patan Durbar , Laitpur, Nepal

Đền Vishwanath (với 2 tượng voi) và đền Bhimsen, Quảng trường Patan Durbar , Laitpur, Nepal

Đền Jagannarayan, Quảng trường Patan Durbar , Laitpur, Nepal

Tỷ lệ ngôi đền Nepal truyền thống - Đền Jagannarayan, Quảng trường Patan Durbar , Laitpur, Nepal
Di sản thế giới tại Thung lũng Kathmandu, Nepal là minh chứng cho những nỗ lực phi thường của các triều đại kế tiếp nhau, không chỉ thể hiện qua các cuộc giao tranh mà còn trong phát triển nghệ thuật và văn hóa. Nơi đây đã hình thành được môi trường cạnh tranh giữa các triều đại để khẳng định vị thế của mình, phấn đấu vượt lên nhau gắn với sự phát triển của hoạt động thương mại và hòa nhập tôn giáo. Các cụm di tích trong Di sản tạo thành các bảo tàng mở về kiến trúc, điêu khắc và nghệ thuật…minh chứng một kỷ nguyên vàng văn hóa trong nền văn minh Nepal.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
http://whc.unesco.org/en/list/121/
https://en.wikipedia.org/wiki/Kathmandu_Valley
https://en.wikipedia.org/wiki/Bhaktapur_Durbar_Square
https://en.wikipedia.org/wiki/Changu_Narayan
https://en.wikipedia.org/wiki/Pashupatinath_Temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Boudhanath
https://en.wikipedia.org/wiki/Kathmandu_Durbar_Square
https://en.wikipedia.org/wiki/Swayambhunath
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi |