Tuần 27 - Ngày 06/02/2025
|
|
|
|
Thông tin định kỳ
|
|
|
Lịch sử Kiến trúc
Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ |
28/01/2017 |
Thông tin chung:
Công trình: Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon (Orkhon Valley Cultural Landscape) Địa điểm: Mông Cổ (N47 28 45.17 E102 40 42.535)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích khu vực Di sản 121.967 ha; Vùng đệm 61.044ha
Năm thực hiện:
Giá trị: Di sản thế giới (2004; hạng mục ii; iii; iv)
Mông Cổ (Mongolia) là một quốc gia không giáp biển ở Đông Á; có biên giới với Nga về phía Bắc, biên giới với Trung Quốc về phía Nam, là Khu tự trị Nội Mông.
Mông Cổ có diện tích 1.564.116 km2; dân số khoảng 3 triệu người.
Mông Cổ được chia thành 21 tỉnh và 329 quận huyện.
Diện tích Mông Cổ phần lớn là thảo nguyên; có các dãy núi về phía Bắc và phía Tây; sa mạc Gobi về phía Nam. Ulaanbaatar là thủ đô và thành phố lớn nhất Mông Cổ, nơi cư trú của khoảng 45% dân số. Khoảng 30% dân số Mông Cổ ngày nay là dân du mục hoặc bán du mục; văn hóa ngựa vẫn còn nguyên vẹn; đa số cư dân là tín đồ Phật giáo.
40.000 năm trước trong thời đại Đồ đá cũ, tại vùng đất này đã có người sinh sống.
Khái niệm về Mông Cổ là một thế lực độc lập ở phía Bắc của Trung Quốc thể hiện trong một thư tịch chữ Hán vào năm 162 trước Công nguyên (TCN).
Mông Cổ là nơi cư trú của các dân tộc du mục. Theo thời gian họ hình thành các nhóm bộ tộc giúp gia tăng sức mạnh và ưu thế. Các thể chế thường thấy là chức vụ Hãn, Kurultai (hội đồng tối cao), Tả dực và Hữu dực, binh lính (Keshig).
Đế quốc đầu tiên tại Mông Cổ là Hung Nô (Xiongnu, tồn tại thế kỷ 3 TCN đến năm 93 sau Công nguyên). Đế quốc Hung Nô (Xiongnu Empire) đã nhanh chóng nổi lên thành mối đe dọa lớn nhất cho nhà Tần (tồn tại năm 221 TCN–207 TCN), buộc Trung Hoa phải xây Trường thành.
Đế quốc Hung Nô bị thay thế bằng Đế quốc Tiên Ti (Xianbei, 93–234). Toàn bộ Mông Cổ ngày nay nằm trong lãnh thổ quốc gia này.
Tiếp đó, Mông Cổ thuộc quyền cai trị của Đế quốc Nhu Nhiên (Rouran, tồn tại 330 - 555). Vị vua tại vương triều này dùng chữ "Khả Hãn" làm đế hiệu. Đế quốc này bị người Đột Quyết (Göktürk, tồn tại 552–744) đánh bại.
Kế tiếp là Hãn quốc Hồi Cốt (Uyghur Khaganate, tồn tại 745–840). Sau đó vương triều này lại bị người Kyrgyz đánh bại. Người Khiết Đan là hậu duệ của người Tiên Ti lập vương triều nhà Liêu cai trị Mông Cổ (tồn tại năm 907–1125).
Sau đó Mông Ngột Quốc (Khamag Mongol 1125–1206) tiền thân của Đế quốc Mông Cổ được thành lập.
Năm 1206, Thành Cát Tư Hãn lập ra Đế quốc Mông Cổ (tồn tại năm 1206- 1368), phát triển thành đế quốc lục địa lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Cháu nội của ông là Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên (tồn tại năm 1271–1368) và chính phục miền Nam Trung Quốc. Sau khi nhà Nguyên sụp đổ, người Mông Cổ triệt thoái về Mông Cổ.
Đến thế kỷ 16, Phật giáo Tây Tạng bắt đầu truyền đến Mông Cổ. Nhà Thanh (tồn tại 1636–1912) do người Mãn lập ra, sáp nhập Mông Cổ trong thế kỷ 17.
Đến đầu thập niên 1900, khoảng một phần ba nam giới trưởng thành tại Mông Cổ là tăng nhân.
Sau khi nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912, Ngoại Mông Cổ tuyên bố độc lập từ nhà Thanh và đến năm 1921 thiết lập nền độc lập thực tế từ Trung Hoa Dân Quốc.

Bản đồ Mông Cổ và vị trí tỉnh Övörkhangai (South Hangay)
Thung lũng sông Orkhon có diện tích khoảng 121967ha, là một khu vực đồng cỏ rộng lớn hai bên bờ sông Orkhon ở miền Trung Mông Cổ, cách thủ đô Ulaanbaatar khoảng 320 km về phía Tây.
Sông Orkhon bắt nguồn từ dãy núi Khangai, dài 1124km, là con sông dài nhất Mông Cổ. Các phụ lưu chính của sông Orkhon là sông Tuul và sông Tamir.
Trải qua nhiều thế kỷ tiếp nối nhau, Thung lũng Orkhon là mảnh đất lành cho những người du mục. Đây là nơi cư trú liên tục qua các thời kỳ Tiền sử, Đồ đồng và trong những năm đầu và sau Công nguyên bởi người Hun, người gốc Thổ Nhĩ Kỳ, người Uighur, Kidans và cuối cùng là người Mông Cổ. Đỉnh cao về uy thế văn hóa của khu vực, là nơi đây trở thành Karakorum lịch sử - thủ đô của Đế quốc Mông Cổ được thành lập bởi Thành Cát Tư Hãn (Chinggis Khaan) vào năm 1220.
Thung lũng Orkhon hiện còn lưu giữ nhiều di tích, thể hiện đây là nơi tập trung các hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa du mục kế tiếp nhau, tiến hóa từ thời tiền sử trong sự hài hòa với cảnh quan thiên nhiên của thảo nguyên; tạo thành bản sắc độc đáo của khu vực. Nơi đây đã trở thành cội nguồn cho các hoạt động chính trị, thương mại, các hoạt động văn hóa và tôn giáo của các chế độ du mục kế tiếp. Thung lũng Orkhon còn có vai trò như là điểm giao của các nền văn minh, nối Đông và Tây trên khu vực Âu, Á rộng lớn.
Giá trị văn hóa hàng ngàn năm tại thung lũng Orkhon tích tụ thành Cảnh quan văn hóa, bao gồm: Tàn tích các trụ bia thuộc Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ (Đột Quyết/Göktürk) vào thế kỷ thứ 6,7; Tàn tích cố đô Khar Balgas của Đế quốc Uighur vào thế kỷ thứ 6, 7 và tàn tích cố đô Karakorum của Để quốc Mông Cổ vào thế kỷ 13-14; Tu viện Phật giáo sớm nhất Mông Cổ Erdene Zuu, tu viện Shankh Western và tu viện Tuvkhun Hermitage, là bằng chứng cho truyền thống phổ biến tôn giáo rộng rãi và lâu dài cũng như tập quán văn hóa của các phái Bắc Tông Phật Giáo.
Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 2004) với tiêu chí:
Tiêu chí (ii): Thung lũng Orkhon là chứng minh rõ ràng về một nền văn hóa du mục có sức sống mạnh mẽ và lâu dài, đã dẫn đến sự phát triển mạng lưới thương mại rộng khắp; sáng tạo nên các trung tâm hành chính, thương mại, quân sự và tôn giáo lớn. Các trung tâm đô thị của các đế chế tại đây có ảnh hưởng xã hội rộng khắp châu Á và châu Âu; hấp thụ ảnh hưởng từ cả hai phía Đông và Tây, góp phần thúc đẩy sự trao đổi các giá trị của nhân loại.
Tiêu chí (iii): Các di tích trong Thung lũng Orkhon là bằng chứng về một nền văn hóa của cộng đồng du mục phát triển mạnh mẽ trong hai thế kỷ 13-14. Nền văn hóa này hiện vẫn được sùng kính, thực sự là trung tâm niềm tin của xã hội Mông Cổ và rất được tôn trọng như một cách sống cao quý trong sự hài hòa với cảnh quan tự nhiên.
Tiêu chí (iv): Thung lũng Orkhon là một ví dụ nổi bật minh họa cho một vài giai đoạn quan trọng trong lịch sử loài người: i) Trước hết đây trung tâm của đế chế Mông Cổ; ii) Phản ánh một sự tiếp biến quyền lực Mông Cổ từ quyền lực Thổ Nhĩ Kỳ; iii) Các tu viện Erdene Zuu và Tuvkhun đã thiết lập một hình thức Phật giáo Mông Cổ; iv) thành phố Khar Balgas phản ánh văn hóa đô thị của người Uighur (Duy Ngô Nhĩ) tại thủ đô của Đế chế Uighur.

Sơ đồ vị trí khu vực Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Sơ đồ phạm vi khu vực Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Thung lũng sông Orkhon, Mông Cổ

Cư dân du mục trong Thung lũng Orkhon, Mông Cổ
Các công trình nổi bật trong khu vực Di sản:
Các tấm bia Orkhon
Các tấm bia Orkhon (Orkhon Inscriptions), còn gọi là bia Kul Tigin, là hai tấm bia được dựng lên bởi người Đột Quyết (Göktürk, tồn tại 552–744).
Bia được dựng vào đầu thế kỷ thứ 8 tại Thung lũng Orkhon ở Mông Cổ, vinh danh 2 hoàng tử người Thổ Nhĩ Kỳ, Kul Tigin và anh trai Bilge Khagan; miêu tả về sự nghiệp đoàn kết của họ và các cuộc tranh đấu với người Trung Quốc.
Tấm bia là những phiến đá có chạm khắc cả 4 mặt. Chữ khắc trên bia bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ cổ trên 3 mặt và tiếng Trung Quốc trên mặt còn lại.
Bia được dựng lên trên lưng rùa đá. Xung quanh bia có tường bao quanh.
Hiện khu vực tấm bia Orkhon đang được nghiên cứu và tiếp tục khám phá.

Tấm bia cổ Orkhon, hiện đặt tại Bảo tàng Orkhon, Kharkhorin, Mông Cổ
Cố đô Khar Balgas
Thành phố Khar Balgas (còn có tên là Ordu-Baliq – có nghĩa là thành phố của quân đội ) được thành lập vào năm 744 và sụp đổ vào năm 840, nằm cách cố đô Karakorum khoảng 30km về phía Tây Bắc, là thủ đô của Đế quốc Uighur (Uyghur Khaganate).
Thành phố có diện tích 3200ha. Các tàn tích còn sót lại: Các bức tường cao 10m; Tòa thành cao 12m tại góc Tây Nam thành; Một tháp cao 14m tại khu vực trung tâm…cho thấy đây là một thành phố lớn và giàu có. Thành phố có thể được chia thành: Trung tâm thành phố với thành bao quanh dành cho hoàng gia và khu vực tôn giáo; Khu vực dành cho sản xuất hàng thủ công và trao đổi thương mại trên con đường tơ lụa.


Tàn tích tường thành cổ Khar Balgas, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ
Cố đô Karakorum
Thành phố là thủ đô của Đế quốc Mông Cổ từ 1235 – 1260 (từ năm 1260- 1368, Nhà Nguyên tiếp nối Đế quốc Mông Cổ, chuyển kinh đô về Khanbaliq/Bắc Kinh), và lại trở thành kinh đô vào thời Bắc Nguyên, thế kỷ 14.
Thành phố nằm tại Tây Bắc của tỉnh Övörkhangai (South Hangay), gần thành phố Kharkhorin và liền kề với tu viện Erdene Zuu. Đây là một trong khu vực canh tác lâu đời nhất tại Mông Cổ.
Với vai trò là thủ đô của một đế chế hùng mạnh, thành phố được miêu tả là nơi rất có tính quốc tế và tôn giáo khoan dung. Thành phố có tường bao quanh bốn phía với bốn cổng ra vào từ bốn hướng. Tại đây có nhiều đền thờ, tu viện, chùa. Khi nhà Nguyên chuyển kinh đô về Khanbaliq/Bắc Kinh, thành phố chỉ có vai trò là trung tâm hành chính của một tỉnh. Thành phố được phục hồi vào thế kỷ 14 (1371-1388) khi trở lại thành kinh đô của triều Bắc Nguyên.
Hiện nay thành phố chỉ còn tàn tích được phát hiện tại các khai quật vào những năm gần đây (2000- 2004) với các hiện vật như các con đường lát đá, móng và tường gạch của các tòa nhà, hệ thống lò sưởi; nhà xưởng chế biến kim loại, thủy tinh, đồ trang sức bằng xương, đồ gốm, tiền xu từ Trung Quốc và Trung Á…

Mô hình cố đô Karakorum tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Mông Cổ tại Ulaan-Baatar

Tàn tích tường công trình tại cố đô Karakorum, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Tàn tích một lò chế biến kim loại tại cố đô Karakorum, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Tàn tích một ngôi tháp mộ cổ tại cố đô Karakorum, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ
Tu viện Erdene Zuu
Tu viện Erdene Zuu (Erdene Zuu monastery) là một trong tu viện Phật giáo lâu đời nhất còn tồn tại ở Mông Cổ, nằm tiếp giáp với cố đô Karakorum, thuộc tỉnh Övörkhangai (South Hangay).
Tu viện được xây dựng vào năm 1585, bao quanh bởi một bức tường với 108 bảo tháp như một chuỗi tràng hạt Phật giáo Tây Tạng.
Nhiều công trình có tường được sơn và mái kiểu Trung Quốc bằng gạch gốm màu xanh lá cây.
Tu viện bị hư hỏng vào năm 1688, được xây dựng lại vào năm 1872 với 82 ngôi chùa và là nơi tu luyện của 1000 tu sĩ. Năm 1947, tu viện được chuyển thành bảo tàng. Sau năm 1990, bảo tàng được giao lại cho các Lạt ma và nơi đây lại trở thành tu viện.
Trong Tu viện hiện có nhiều công trình nổi tiếng, thu hút tín đồ và khách hành hương:
- Đền Laviran (Laviran Temple);
- Chùa Khiid (Khiid Temple);
- Bảo tháp Vàng (Golden Stupa);
- Ngôi đền của các Lạt Ma (Świątynia Dalajlamy)…

Phối cảnh Tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Các tháp dọc theo tường thành Tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Tượng rùa đá tại Tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Bên trong Tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Đền Laviran tại Tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Chùa Khiid tại tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Tượng Phật trong chùa Khiid tại tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Bảo tháp Vàng tại tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Ngôi đền của các Lạt Ma tại tu viện Erdene Zuu, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ
Tu viện Shankh Khiid
Tu viện Shankh Khiid (Shankh Khiid Monastery) nằm cách 25 km về phía Đông Nam thành phố Kharkhorin, tỉnh Övörkhangai (South Hangay), là một trong những tu viện lâu đời nhất và có ý nghĩa lịch sử nhất của Mông Cổ.
Tu viện được thành lập vào năm 1647, được di dời ra một số nơi sau đó được định cư tại vị trí hiện tại vào năm 1787. Vào thời hoàng kim, tu viện gồm 20 tòa nhà, chứa được 1500 tu sĩ.
Tu viện bị đóng cửa vào năm 1937 và hầu như bị phá hủy sau đó.

Phối cảnh Tu viện Shankh Khiid, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ


Tòa tháp chính của Tu viện Shankh Khiid, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ
Tu viện Tuvkhun
Tu viện Tuvkhun (Tövkhön Monastery), nằm cách thành phố KharKhorin, tỉnh Övörkhangai (South Hangay) khoảng 70 km. Tu viện nằm tại độ cao 2312m so với mực nước biển, trên đỉnh núi thiêng Shireet Ulaan, được bao quanh bởi tảng đá và rừng, chi phối thung lũng Orkhon.
Tu viện được thành lập vào năm 1648, bị phá hủy năm 1688 và được phục hồi vào năm 1773 và bị hủy hoại hầu như hoàn toàn vào cuối những năm 1930.
Tu viện được phục hồi một phần vào năm 1997.

Phối cảnh Tu viện Tuvkhun, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Công trình bên trong Tu viện Tuvkhun, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ

Một bức tranh thờ bên trong Tu viện Tuvkhun, Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ
Di sản Cảnh quan văn hóa thung lũng Orkhon, Mông Cổ với tàn tích của những cố đô, đền chùa, tu viện, trụ bia, tháp mộ cổ…hiện vẫn giữ được ở một mức độ cao của tính xác thực, gắn liền với những ngọn núi và các nhánh sông thiêng; một cảnh quan văn hóa tiếp tục phản ánh giá trị truyền thống lâu đời của cộng đồng du mục Trung Á cho đến tận ngày nay.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
http://whc.unesco.org/en/list/1081
https://en.wikipedia.org/wiki/Mongolia
https://en.wikipedia.org/wiki/Ordu-Baliq
https://en.wikipedia.org/wiki/Karakorum
https://en.wikipedia.org/wiki/Erdene_Zuu_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Shankh_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Tövkhön_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Orkhon_inscriptions
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|
Cập nhật ( 13/08/2020 )
|
Tin mới đưa:- Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
- Quần thể Takht-e Soleyman, Western Azerbaijan, Iran
- Các thị trấn Baroque muộn tại Val di Noto, Sicily, Ý
- Samarkand – Ngã tư văn hóa, Uzbekistan
- Hang động Vân Cương, Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc
- Công trình Villa d'Este, Tivoli, Rome, Ý
- Cột Chúa Ba Ngôi ở Olomouc, Czech
- Thung lũng Loire giữa Sully-sur-Loire và Chalonnes, Pháp
- Quần thể Tu viện Ferapontov, Vologda, Nga
- Nhà thờ St James ở Šibenik, Croatia
- Mỏ đá lửa Thời kỳ Đồ đá mới ở Spiennes, Mons, Bỉ
- Lăng mộ Hoàng gia của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, Trung Quốc
- Hang động Long Môn, Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc
- Vương cung thánh đường San Francesco và địa điểm khác của Dòng Phanxicô tại Assisi, Ý
- Công trình Villa Adriana, Tivoli, Rome, Ý
Tin đã đưa:- Núi thiêng Sulamain-Too, Osh, Kyrgyzstan
- Thị trấn cảng lịch sử Levuka, Fiji
- Tòa tháp giáo đường và các di chỉ khảo cổ xung quanh tại Jam, Shahrak, Ghur, Afghanistan
- Các công trình kiến trúc của Le Corbusier, một đóng góp nổi bật cho trào lưu hiện đại
- Thị trấn lịch sử Shukhothai và các thị trấn lịch sử lân cận, Thái Lan
- Di chỉ khảo cổ Ban Chiang, Udon Thani, Thái Lan
- Cảnh quan văn hóa tại Bali, Indonesia: Hệ thống canh tác Subak, Bali, Indonesia
- Di sản khảo cổ tại Thung lũng Lenggong, Malaysia
- Khu khảo cổ người tiền sử Sangiran ở đảo Java, Indonesia
- Quần thể đền Prambanan, Indonesia
- Các nhà thờ kiểu Baroque tại Philippines
- Di sản Mỏ thủy ngân ở Almaden, Tây Ban Nha
- Thị trấn đồng hồ La Chaux-de-Fonds và Le Locle, Thụy Sĩ
- Vùng mỏ than Nord - Pas de Calais, Pháp
- Khu mỏ đồng tại Falun, Dalama, Thụy Điển
|