Thông tin chung:
Công trình: Meteora
Địa điểm: Trikala, Vùng Thessaly, Hy Lạp (N39 43 0,012 E21 37 59,988)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 271,87 ha; diện tích vùng đệm 1.884,14 ha
Năm xây dựng:
Giá trị: Di sản thế giới (1988; hạng mục i; ii; iv; v; vii)
Hy Lạp (Greece) là một quốc gia nằm ở Đông Nam Châu Âu, cực nam của Balkans; ngã tư của Châu Âu, Châu Á và Châu Phi. Hy Lạp có chung biên giới đất liền với Albania về phía tây bắc, North Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ về phía đông bắc; giáp biển Aegean ở phía đông, biển Ionian ở phía tây, biển Cretan và Địa Trung Hải ở phía nam.
Hy Lạp có diện tích 131957km2, dân số khoảng 10,72 triệu người (năm 2019).
Hy Lạp ngày nay được phân thành 7 bang, 13 khu vực với 325 thành phố. Athens là thành phố thủ đô và lớn nhất, thuộc khu vực Attica.
Hy Lạp được coi là cái nôi của nền văn minh phương Tây, là nơi sinh của nền dân chủ, triết học, văn học, nghiên cứu lịch sử, khoa học chính trị, toán học và một số ngành khoa học khác; đề tài cho nhiều bộ phim phương Tây và Thế vận hội Olympic.
Từ thế kỷ 8 trước Công nguyên (TCN), Hy Lạp gồm nhiều thị quốc (thành bang) độc lập, được gọi là poleis (số ít là polis - thành phố; chữ polis trong Acropolis có ý nghĩa như vậy), kéo dài tới vùng Địa Trung Hải và Biển Đen. Các thị quốc Hy Lạp liên kết thành Liên minh Delian (Delian League, thành lập năm 478 TCN).
Vào thế kỷ 4 TCN, vua Argead Philip II (trị vì năm 359–336 TCN) của tiểu quốc Macedonia đã thống nhất phần lớn đất nước Hy Lạp ngày nay. Con trai của ông là Alexander Đại đế (Alexander the Great, trị vì năm 336- 323 TCN) nhanh chóng chinh phục mở rộng lãnh thổ, từ đông Địa Trung Hải đến Ấn Độ, tạo ra một trong những đế chế lớn nhất thời bấy giờ. Từ đây mở ra một thời kỳ đỉnh cao của văn hóa Hy Lạp.
Hy Lạp bị Cộng hòa La Mã (Roman Republic, tồn tại năm 509 – 27 TCN) thôn tính vào thế kỷ 2 TCN, trở thành một phần không thể thiếu của Đế chế La Mã (Roman Empire, tồn tại năm 27 TCN – 476) và vương quốc tiếp theo là Đế chế Byzantine (Byzantine Empire, tồn tại năm 395–1453). Cả hai đế chế này đều sử dụng ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp.
Về tôn giáo, Chính Thống giáo Hy Lạp (Greek Orthodox) xuất hiện trong thế kỷ 1, đã góp phần hình thành bản sắc của Hy Lạp hiện đại và lan truyền văn hóa Hy Lạp tới các vùng đất theo Chính Thống giáo Hy Lạp (thuộc Chính thống giáo Đông phương).
Thế kỷ 15, Hy Lạp nằm dưới sự thống trị của Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman Empire, tồn tại năm 1299–1922). Hy Lạp giành lại độc lập vào năm 1830.
Hy Lạp là một quốc gia có hệ thống di tích lịch sử phong phú, phản ánh một phần qua 18 Di sản Thế giới được UNESCO công nhận (đến năm 2019), trong đó có Khu di tích Meteora, tỉnh Trikala, vùng Thessaly.
Bản đồ Hy Lạp và vị trí tỉnh Trikala, Vùng Thessaly, Hy Lạp
Meteora là một khu vực núi đá nằm gần thị trấn Kalabaka, rìa phía tây bắc của vùng đồng bằng Thessaly, gần sông Pineios và dãy núi Pindus (nằm tại Bắc Hy Lạp và Nam Albania, dài khoảng 160km, với độ cao tối đa 2637m so với mực nước biển).
Tại Meteora có những tháp đá khổng lồ và độc đáo, từ mặt đất vươn lên trời, như những “Cột trời”.
Các hang động tại những tháp đá khổng lồ tại Meteora đã có người sinh sống liên tục từ 50.000 đến 5.000 năm trước.
Meteora không được nhắc đến trong thần thoại Hy Lạp cổ điển cũng như trong văn học Hy Lạp cổ đại.
Những người đầu tiên được ghi nhận sống ở Meteora sau Kỷ nguyên Đồ đá mới là một nhóm tu sĩ ẩn tu. Vào thế kỷ 9 sau Công nguyên, họ đã di chuyển lên và sống trong những hốc và khe nứt trong tháp đá; một số tháp cao tới 550m so với đồng bằng xung quanh. Chiều cao này, kết hợp với sự kiên cố của những bức tường vách đá, đã kìm chân những người bên ngoài muốn nhòm ngó họ.
Ban đầu, các tu sĩ sống cô độc, chỉ nhóm họp vào Chủ Nhật và những ngày đặc biệt để thờ phượng và cầu nguyện trong một nhà thờ được xây dựng dưới chân tháp đá được gọi là Dupiani.
Cho đến thế kỷ 11, các tu sĩ chỉ ở trong các hang động tự nhiên của Meteora.
Cuối thế kỷ 11, đầu thế kỷ 12, tại Meteora đã dần hình thành cộng đồng tu viện được gọi là Skete tại thị trấn Kalabaka (Skete of Stagoi). Skete là một cộng đồng tu viện trong Chính thống giáo Đông phương, cho phép sự độc lập tương đối của các tu sĩ. Chính thống giáo Đông phương (Eastern Orthodox với khoảng 220 triệu tín đồ) từ năm 1054, là một trong ba nhánh chính của Cơ đốc giáo hay Kito giáo (Christian), bên cạnh Công giáo (Catholic Church) và Tin lành (Protestantism). Chính thống giáo Đông phương khác biệt với Chính thống giáo phương Đông (Oriental Orthodox với khoảng 60 triệu tín đồ).
Skete là một trong bốn loại trật tự tu viện, cùng với chế độ Ẩn tu (Eremitic), Mật tu (Lavritic) và Cộng tu (Coenobitic), đã trở nên phổ biến trong thời kỳ đầu hình thành của Cơ đốc giáo (Christian). Cộng đồng Skete thường có một số phòng hoặc hang động nhỏ, là nơi tu luyện của các vị tu sĩ, cùng với một nhà thờ hoặc nhà nguyện tập trung (do họ xây dựng). Những cộng đồng này được coi là cầu nối giữa lối sống Ẩn tu và Cộng tu.
Khi kinh đô Constantinople của Đế chế Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) thất thủ trước sự vây hãm của Đế chế Ottoman vào năm 1453, nhiều vị tu sĩ ẩn tu cho rằng đây là nơi ẩn náu lý tưởng. Đến cuối thế kỷ 15, tại Meteora đã có 24 tu viện được thành lập và tiếp tục phát triển cho đến thế kỷ 17.
Quần thể các tu viện Meteora được xây dựng trực tiếp trên bề mặt đỉnh các tháp đá mà không có nền móng, tường xây bằng đá, mái dốc lợp ngói. Bề mặt tường ngoài được trang trí bằng các dải đá màu khác nhau.
Việc tiếp cận đỉnh các tháp đá được sử dụng bằng thang có thể tháo rời hoặc tời kéo, cho cả người và hàng hóa. Việc vận chuyển này kéo dài cho đến thế kỷ 17. Sau đó, người ta xây dựng các tuyến đường đi bộ với các bậc thang.
Địa điểm này đã bị đánh bom trong Thế chiến 2, bị chiếm đóng và nhiều kho tàng nghệ thuật bị đánh cắp.
Ngày nay, quy mô tu viện tại Meteora đã giảm xuống, chỉ còn một phần ba so với ban đầu. Trong số 24 tu viện xưa kia, nay chỉ còn 6 tu viện (4 của nam, 2 của nữ) vẫn còn hoạt động, với mỗi tu viện có khoảng 10 tu sĩ.
Các tu sĩ cho đến ngày nay vẫn làm việc chăm chỉ để kiếm sống. Cộng đồng tu sĩ trong mỗi tu viện chia sẻ khối lượng công việc với nhau. Mỗi tu sĩ đóng góp tùy theo năng lực của mình sản xuất hàng hóa để bán hoặc để duy trì tài sản của tu viện và phải tự túc đến hết mức có thể. Một nguồn thu nhập quan trọng khác là quyên góp từ người hành hương, gồm tiền bạc, hàng hóa, dịch vụ, tài sản, những thứ khác mà các vị tu sĩ cần để hỗ trợ cuộc sống của họ.
Các tu viện của Meteora đại diện cho một ví dụ độc đáo về đời sống tu viện Chính thống giáo Đông phương, kể từ thế kỷ 14.
Tu viện Chính thống giáo Đông phương nằm trên tháp đá tại vùng Meteor, Trikala, Hy Lạp
Tu sĩ Chính thống giáo Đông phương tại Thánh địa Meteor, Trikala, Hy Lạp
Meteora là một hệ thống tháp đá ở miền trung Hy Lạp, lưu giữ một trong những khu phức hợp lớn nhất và được xây dựng kiên cố nhất của tu viện Chính thống giáo phương Đông, đứng thứ hai sau Thánh địa Núi Athos (Mount Athos), Hy Lạp.
Quần thể Núi Meteora, Trikala, vùng Thessaly, Hy Lạp được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 1988) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Việc biến một khu vực hầu như không thể tiếp cận được với những tháp đá sa thạch như các “Cột trời” thành một quần thể các tu viện linh thiêng từ thế kỷ 11, đã làm khu vực Meteora trở thành một công trình sáng tạo nghệ thuật độc đáo, kết hợp vẻ đẹp tự nhiên của địa điểm với các hình thức kiến trúc; là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
Hơn nữa, các tu viện của Meteora là một viện bảo tồn thực sự của các kiệt tác khác nhau, từ các bức tranh trên tường, đến các biểu tượng di động, đồ vật bằng vàng, đồ thêu và các bản thảo mà mỗi tu viện gìn giữ.
Tiêu chí (ii): Khu vực Meteora có ảnh hưởng lâu dài trong thế giới Chính thống giáo Đông phương. Đây được coi là một trong những trung tâm tâm linh đối với sự phát triển của kiến trúc tôn giáo và hội họa hoành tráng. Những bức bích họa từ thế kỷ 16 tại đây đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của hội họa hậu Byzantine và được lan truyền rộng rãi trong phạm vi từ đảo Crete, Hy Lạp đến bán đảo Balkans từ thế kỷ 16 trở đi.
Tiêu chí (iv): 24 tu viện tại Meteora đã được xây dựng vào thời kỳ phục hưng vĩ đại thế kỷ 15, bất chấp những khó khăn đáng kinh ngạc. Hiện tại, chỉ còn lại 6 tu viện. Các tu viện tại Meteora là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc tu viện Chính thống giáo Đông phương: Quần thể kiến trúc có bố cục theo hướng tận dụng tối đa bề mặt chật hẹp của đỉnh tháp đá. Trung tâm quần thể là nhà thờ công giáo; công trình xung quanh dành riêng cho hoạt động cộng đồng (dinh thự, mật thất, trạm xá, thư viện), công trình phục vụ (nhà nguyện), công trình phòng thủ (kho vũ khí, tháp kiên cố) và tháp vận chuyển.
Tiêu chí (v): Lý tưởng tu viện ở Meteora đã bảo tồn những nơi định cư truyền thống của con người và đã trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của sự thay đổi trong xã hội đương đại. Meteora cũng là một viện bảo tồn của kiến trúc bản địa cũng như các truyền thống thủ công.
Tiêu chí (vii): Meteora hết sức nổi bật với vẻ đẹp tự nhiên độc đáo của các tháp đá, kết hợp với các công trình kiến trúc của các tu viện, tạo thành một địa điểm có tầm quan trọng về thẩm mỹ.
Sơ đồ phạm vi Di sản Meteora, Trikala, vùng Thessaly, Hy Lạp
Sơ đồ vị trí 6 tu viện trong Khu vực Di sản Meteora, Trikala, vùng Thessaly, Hy Lạp
Khu vực Di sản gồm 6 tu viện chính:
Tu viện Sự biến hình của Đấng Cứu Rỗi
Tu viện Sự biến hình của Đấng Cứu Rỗi (Monastery of the transfiguration of the Savior) còn có tên là Tu viện lớn Meteoron (Monastery of Great Meteoron).
Tu viện nằm tại phía tây bắc Khu vực Di sản, trên một tháp đá cao 415m so với thung lũng Pineios xung quanh, tại cao độ 613m so với mực nước biển (trong hình vẽ ký hiệu 2).
Tiếp cận Tu viện từ tuyến đường bộ tại phía đông.
Tu viện Great Meteoron là tu viện lâu đời nhất và lớn nhất trong số các tu viện của Meteora.
Năm 1344, Athanasios Koinovitis (năm 1302 – 1380), một tu sĩ từ Thánh địa Núi Athos, Hy Lạp đã đưa một nhóm tín đồ đến Meteora. Từ năm 1356 đến năm 1372, ông thành lập Tu viện lớn Meteoron và xây dựng Tu viện trên đỉnh một tháp đá.
Người kế vị Thánh Athanasios là Thánh Joasaph (Jovan Uroš Nemanjić, năm 1350 – 1423, Hoàng đế người Serb và người Hy Lạp, Serbian Empire, trị vì năm 1370–1373), đã tiếp tục xây dựng thêm các phòng mật thất, trạm xá và cải tạo nhà thờ trên đỉnh tháp đá. Tu viện phát triển mạnh vào thế kỷ 16 khi nhận được nhiều khoản quyên góp của hoàng gia. Vào thời điểm đó, Tu viện có hơn 300 tu sĩ sống. Việc vận chuyển vật liệu xây dựng, thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu thông qua hệ thống thang tời.
Năm 2015, tại đây chỉ còn lại 3 tu sĩ.
Tu viện Great Meteoron là một quần thể các tòa nhà bố cục kề liền nhau, tạo thành hai cụm nhà: Cụm lớn tại phía đông và Cụm nhỏ tại phía tây, theo địa hình bề mặt tháp đá.
Trung tâm của quần thể, tại Cụm nhà lớn là một nhà thờ nhỏ. Bên trong nhà thờ được trang trí bởi các bức bích họa và đồ tế lễ. Tại đây có một giá đựng hộp sọ của các tu sĩ sống tại Tu viện trong nhiều năm.
Một phần của Tu viện hiện trở thành bảo tàng, bao gồm cả nhà bếp cũ và hầm rượu.
Tu viện lưu giữ nhiều đồ tế lễ nghệ thuật có giá trị và bộ sưu tập bản thảo lớn nhất ở Meteora. Trong số 1.124 bộ sưu tập viết tay cổ (Codex) tại Núi Meteora, Tu viện Great Meteoron đã có 610 bộ sưu tập, phần lớn thuộc thế kỷ 11- 16.
Tổng mặt bằng Tu viện lớn Meteoron, Trikala, Hy Lạp
Phối cảnh phía đông bắc Tu viện lớn Meteoron, Trikala, Hy Lạp; lối vào Tu viện
Nhà thờ Tu viện lớn Meteoron, Trikala, Hy Lạp
Nội thất nhà thờ Tu viện lớn Meteoron, Trikala, Hy Lạp
Bức tranh 2 vị thánh Fresco of Jovan và Athanasios of Meteora, tại Tu viện lớn Meteoron, Trikala, Hy Lạp
Bảo tàng lưu giữ bộ sưu tập bản thảo, Tu viện lớn Meteoron, Trikala, Hy Lạp
Bảo tàng, lưu giữ các đồ trong nhà bếp cũ và hầm rượu, Tu viện lớn Meteoron, Trikala, Hy Lạp
Tu viện Varlaam
Tu viện Varlaam (Monastery of Varlaam) là tu viện lớn thứ hai của Thánh địa Meteora. Cái tên Varlaam xuất phát từ một vị ẩn sĩ có tên là Varlaam, đã xây dựng Tu viện vào năm 1350.
Tu viện nằm tại trung tâm của Khu vực Di sản, trên một đỉnh một tháp đá cao 373m so với đáy thung lũng, tại độ cao 595m so với mực nước biển (hình vẽ ký hiệu 3). Phía tây bắc của Tu viện là Tu viện Great Meteoron
Tiếp cận Tu viện Varlaam thông qua một tuyến đường bộ tại phía đông bắc với khoảng 200 bậc tại phía bắc của tháp đá.
Sau khi tu sĩ Varlaam chết, Tu viện bị bỏ hoang trong 200 năm, cho đến khi hai anh em tu sĩ, Theophanes (họa sĩ và nhà giáo dục người Hy Lạp, năm 1490 – 1559) và Nektarios Apsarades, đến đây xây dựng lại nhà thờ vào năm 1517.
Sau đó, sự hiện diện của các vị tu sĩ liên tục suy giảm. Tính đến năm 2015, có 7 tu sĩ còn lại trong Tu viện Varlaam.
Tu viện Varlaam là một quần thể các tòa nhà, bố cục kề liền nhau, theo địa hình bề mặt hẹp của tháp đá. Trung tâm của quần thể là một nhà thờ nhỏ. Tầng trên của các công trình thường có thêm các ban công hoặc logia.
Bên trong Tu viện có một bảo tàng, mở cửa cho khách du lịch và lưu giữ một loạt các di tích, thánh tích (ngón tay của Thánh John, xương bả vai của Thánh Andrew) và kho báu của giáo hội với nhiều di vật, tác phẩm nghệ thuật và bảo thảo có giá trị.
Tổng mặt bằng Tu viện Varlaam, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh phía bắc Tu viện Varlaam, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh Nhà thờ tại Tu viện Varlaam, Meteora, Hy Lạp
Trang trí mái vòm bên trong Nhà thờ tại Tu viện Varlaam, Meteora, Hy Lạp
Bên trong Bảo tàng tại Tu viện Varlaam, Meteora, Hy Lạp
Thùng gỗ sồi chứa nước từ thế kỷ 16, Tu viện Varlaam, Meteora, Hy Lạp
Tu viện Saint Nikolas Anapafsas
Tu viện Saint Nikolas Anapafsas (Monastery of St. Nicholas Anapausas) nằm tại phía tây Khu vực Di sản, trên đỉnh một tháp đá nhỏ hẹp, cao khoảng 80m so với thung lũng xung quanh và là nơi đầu tiên mà những người hành hương bắt gặp trên đường đến Thánh địa Meteora (hình vẽ ký hiệu 4).
Tu viện được thành lập vào cuối thế kỷ 14.
Tu viện phục vụ như một nơi nghỉ ngơi cho những người hành hương và nhanh chóng có tên là "Anapausas" nghĩa là "Nghỉ dừng chân".
Tiếp cận Tu viện Saint Nikolas Anapafsas thông qua một tuyến đường bộ tại phía nam. Phía tây nam Tu viện là ngôi làng nhỏ Kastraki.
Tu viện Saint Nikolas Anapafsas như một pháo đài với số ít công trình, bố cục hợp khối theo chiều cao trên một bề mặt rất hẹp của tháp đá.
Các tầng được kết nối thông qua một cầu thang bên trong. Nhà thờ Thánh Nicholas đặt trên tầng hai, được phủ hoàn toàn bằng các bức bích họa từ thế kỷ 16. Trên tầng ba, có Bàn Thánh với những bức tường được trang trí bởi các bức bích họa thế kỷ 14, hiện là ký túc xá và nhà nguyện.
Tu viện đã được trùng tu vào thế kỷ 16 và một lần nữa vào những năm 1960.
Tu viện lưu giữ các bức bức họa được đánh giá là tốt nhất tại Khu vực Di sản, trong đó có bức bích họa được vẽ bởi tu sĩ và họa sĩ nổi tiếng Theophanes Strelitzas (người Hy Lạp, năm 1490- 1559) vào năm 1527. Một số bản thảo trong Tu viện đã được chuyển đến Tu viện Chúa Ba Ngôi (Monastery of the Holy Trinity).
Tổng mặt bằng Tu viện Saint Nikolas Anapafsas, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh phía đông Tu viện Saint Nikolas Anapafsas, Meteora, Hy Lạp
Bên trong Nhà thờ tại Tu viện Saint Nikolas Anapafsas, Meteora, Hy Lạp
Nội thất bên trong một số phòng tại Tu viện Saint Nikolas Anapafsas, Meteora, Hy Lạp
Tu viện Soussanou
Tu viện Soussanou (Monastery of Roussanou) nằm tại trung tâm Khu vực Di sản. Cái tên Roussanou được cho là xuất phát từ nhóm tu sĩ đầu tiên đến từ Nga.
Tu viện nằm trên một tháp đá với độ cao 484m so với thung lũng xung quanh (hình vẽ ký hiệu 5), phía nam của Tu viện Varlaam. Tiếp cận Tu viện Soussanou thông qua một tuyến đường bộ tại phía tây.
Phía tây Tu viện là ngôi làng nhỏ Kastraki.
Tu viện được thành lập vào năm 1529 trên tàn tích một tu viện cũ.
Vào thế kỷ 19, Tu viện suy tàn và chỉ còn là nơi sinh sống của một vài vị tu sĩ.
Hiện tại, Tu viện được phục hưng, do các nữ tu sĩ điều hành.
Tu viện Soussanou là một quần thể gồm hai khối công trình:
Khối trên nằm tại bề mặt tháp đá, có bố cục hợp khối với nhau, tương tự như các tu viện khác trong khu vực Meteora, bao gồm một tòa nhà ba tầng. Ở tầng trệt, có Nhà thờ Sự biến hình của Chúa Kitô với một số phòng nguyện, được xây dựng vào thế kỷ 16 và sau đó được trang trí vào năm 1540. Tầng thứ hai và thứ ba có các phòng chức năng khác nhau, trong đó có sảnh tiếp tân và một phòng triển lãm.
Khối dưới nằm tại chân tháp đá, gồm nhiều công trình mới xây dựng gần đây với bề mặt tường có các dãy ban công và logia.
Tu viện lưu giữ nhiêu bức bích họa tuyệt đẹp được thực hiện vào năm 1560, theo trường phái Cretan (Cretan School style), là trường phái hội họa biểu tượng, dưới sự bảo trợ của Nghệ thuật Hậu Byzantine, trở thành trường phái chính trong các bức tranh Hy Lạp thế kỷ 15 – 17, được cho là sự đồng bộ hóa giữa truyền thống nghệ thuật phương Đông và phương Tây.
Tổng mặt bằng Tu viện Soussanou, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh Tu viện Soussanou, tại vùng Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh phía đông nam Tu viện Soussanou, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh phía tây nam Tu viện Soussanou, Meteora, Hy Lạp; với khối nhà mới xây dựng dưới chân tháp đá.
Lối vào Tu viện Soussanou, Meteora, Hy Lạp
Vườn cảnh bên trong Tu viện Soussanou, Meteora, Hy Lạp
Mái vòm Nhà thờ tại Tu viện Soussanou, Meteora, Hy Lạp
Tu viện của Chúa Ba Ngôi
Tu viện của Chúa Ba Ngôi (Monastery of the Holy Trinity) nằm tại phía nam Khu vực Di sản, trên đỉnh vách đá cao hơn 400m so với thung lũng và tại cao độ 570m so với mực nước biển (hình vẽ ký hiệu 6).
Tiếp cận Tu viện Holy Trinity thông qua tuyến đường bộ tại phía đông.
Trước thế kỷ 20, tiếp cận Tu viện Holy Trinity phải băng qua một thung lũng và leo qua mỏm đá để đến được lối vào của tòa nhà. Hàng hóa được đặt trong các giỏ được kéo lên bằng tời.
Ngày nay, người ta có thể đi bộ lên Tu viện thông qua đường hầm và 130 bậc thang bằng đá.
Tu viện Holy Trinity là một trong trong những tu viện lâu đời nhất vẫn còn tồn tại của các tu viện Meteora.
Vào thế kỷ 11, các cộng đồng tôn giáo đã thành lập các ẩn thất dưới chân những tháp đá này.
Vào thế kỷ 14, Hoàng đế người Serb và người Hy Lạp John Uroš Nemanjić (Serbian Empire, trị vì năm 1370–1373), trở thành một tu sĩ (được phong Thánh với tên gọi Joasaph of Meteora) và chuyển đến Meteora; ông đã ban tặng, xây dựng lại và thành lập các tu viện ở đây. Ông cũng chính là người kế tiếp Thánh Athanasios xây dựng Tu viện lớn Meteoron.
Tu viện Holy Trinity được xây dựng vào năm 1475–1476, được trang trí bổ sung vào năm 1741.
Có thời kỳ, tại Tu viện có 50 tu sĩ. Đến đầu thế kỷ 20, chỉ còn có 5 tu sĩ.
Tu viện Holy Trinity là một quần thể các tòa nhà, bố cục kề liền nhau, theo địa hình bề mặt tháp đá. Nhà thờ là một khối trung tâm của quần thể với mái tròn nhô lên cao so với các mái dốc khác xung quanh.
Tu viện được trang trí lộng lẫy với các bức bích họa quý giá thời hậu Byzantine.
Trong Chiến tranh thế giới thứ 2, các kho báu này bị cướp phá.
Tổng mặt bằng Tu viện Holy Trinity, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh phía đông bắc Tu viện Holy Trinity, Meteora, Hy Lạp
Bên trong Tu viện Holy Trinity, Meteora, Hy Lạp
Bên trong Nhà thờ tại Tu viện Holy Trinity, Meteora, Hy Lạp
Trang trí mái vòm Nhà thờ tại Tu viện Holy Trinity, Meteora, Hy Lạp
Di tích tời quay vận chuyển người và hàng hóa tại Tu viện Holy Trinity, Meteora, Hy Lạp
Tu viện Saint Stephan
Tu viện Saint Stephan (Monastery of Saint Stephan) nằm tại phía nam Khu vực Di sản, trên một đỉnh một vách đá có độ cao 510m so với thung lũng xung quanh và cao 575m so với mực nước biển (hình vẽ ký hiệu 7).
Thung lũng phía tây nam kề liền Tu viện là thị trấn Kalabaka.
Tiếp cận Tu viện Saint Stephan thông qua tuyến đường bộ tại phía đông bắc.
Tu viện ban đầu được xây dựng vào thế kỷ 14. Nhà thờ mới được xây dựng vào năm 1798, tạo cho Tu viện trở thành công trình được xây dựng mới nhất trong khu vực Di sản.
Trong Thế chiến thứ 2, Tu viện bị ném bom.
Năm 2015, Tu viện Saint Stephan là nơi ở của 28 nữ tu sĩ và trở thành một nữ tu viện vào năm 1961.
Quần thể Tu viện bao gồm nhiều tòa nhà bố cục hợp khối với nhau trên một bề mặt của tháp đá, tạo thành một sân trong hẹp. Các công trình trong Tu viện tương tự như các tu viện khác tại Thánh địa, gồm: Nhà thờ, nhà bếp, dinh thự và một loại các phòng với các chức năng sử dụng khác nhau như làm tranh, thêu, làm hương và may vá.
Nhà thờ được trang trí bằng các bức bích họa được thực hiện sau năm 1545.
Tổng mặt bằng Tu viện Saint Stephan, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh phía tây nam Tu viện Saint Stephan, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh phía tây Tu viện Saint Stephan, Meteora, Hy Lạp
Phối cảnh phía bắc Tu viện Saint Stephan, Meteora, Hy Lạp
Nhà thờ tại Tu viện Saint Stephan, Meteora, Hy Lạp
Bên trong Nhà thờ tại Tu viện Saint Stephan, Meteora, Hy Lạp
Trang trí mái vòm Nhà thờ tại Tu viện Saint Stephan, Meteora, Hy Lạp
Tự nhiên Meteora
Đặc điểm vật lý:
Khoảng 60 triệu năm trước, trong thời kỳ Paleogen (Cổ sinh), một loạt chuyển động của trái đất đã đẩy đáy biển lên phía trên, tạo ra một bình nguyên cao và gây ra nhiều đường đứt gãy thẳng đứng trong lớp cát kết dày. Các cột đá khổng lồ sau đó được hình thành do sự phong hóa của nước, gió và nhiệt độ khắc nghiệt trên các đứt gãy thẳng đứng. Điều bất thường là sự hình thành và kiểu phong hóa này chỉ giới hạn tại một khu vực tương đối cục bộ trong hệ thống núi xung quanh.
Các tu viện được xây dựng trên những đỉnh tháp đá, được gọi là 'Meteora', cao hơn 400m so với đồng bằng Thessalian. Các tháp sa thạch có màu nâu xám.
Điều kiện khí hậu:
Có sự thay đổi khí hậu rộng từ nhiệt độ nóng bức vào mùa hè đến lạnh giá khắc nghiệt vào mùa đông với tuyết rơi dày đặc. Mùa hè là thời điểm khô hạn nhất, bão xảy ra quanh năm, đặc biệt ở độ cao lớn hơn.
Thực vật:
Khu vực Meteora bao gồm những ngọn đồi có rừng và thung lũng ven sông, trong đó có loại cây thuộc họ Platanaceae (Platanus orientalis, có tuổi thọ và tán lá rộng cao đến hơn 30m) gần làng Koniskos và loại thực vật có hoa đặc hữu Centaurea Kalambakensis (trong họ Cúc), được biết đến đầu tiên vào năm 1897.
Tại đây còn có các loài thông nhựa và cây kim giao (Cupressus sempervivens). Lớp phủ thực vật tiềm năng được mô tả là siêu Địa Trung Hải, với lớp phủ cao nhất là Quercus spp. và Ostrya spp. và rừng beech Fagus sylvatica tại độ cao trên 700m.
Tại đây đã hình thành một khu bảo tồn được gọi là Rừng thẩm mỹ Trikala (Trikala Aesthetic Forest, diện tích rộng 28ha, được thành lập vào năm 1979).
Động vật:
Động vật có vú bao gồm sói xám (Canis lupus) và chồn (Lutra lutra); Chim ăn thịt với nhiều loại loài kền kền, đại bàng; Loại chim khác như: Chim yến (Apus melba), chim én đỏ (Hirundo daurica), chích chòe (Pernis apivorus) kền kền, chim ưng (Peregrine)…
Cảnh quan tự nhiên khu vực Meteora, Hy Lạp
Khu thánh địa Meteora, Trikala, vùng Thessaly, Hy Lạp là một trong những trung tâm tôn giáo hàng đầu của Chính thống giáo phương Đông. Địa điểm hành hương và du lịch nổi tiếng tại Hy Lạp.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/455/
https://en.wikipedia.org/wiki/Greece
https://en.wikipedia.org/wiki/Thessaly
https://en.wikipedia.org/wiki/Trikala
https://en.wikipedia.org/wiki/Kalabaka
https://en.wikipedia.org/wiki/Meteora
https://en.wikipedia.org/wiki/Pindus
https://en.wikipedia.org/wiki/Skete
https://en.wikipedia.org/wiki/Monastery_of_Great_Meteoron
https://en.wikipedia.org/wiki/Monastery_of_Varlaam
https://en.wikipedia.org/wiki/Monastery_of_St._Nicholas_Anapausas
https://en.wikipedia.org/wiki/Monastery_of_Rousanou
https://en.wikipedia.org/wiki/Monastery_of_the_Holy_Trinity,_Meteora
https://en.wikipedia.org/wiki/Monastery_of_Saint_Stephen_(Meteora)
https://visitmeteora.travel/varlaam-monastery/
https://austria-forum.org/af/Geography/Europe/Greece/Pictures/Meteora/Agia_Triada_Interior_2
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|