
Thông tin chung:
Công trình: Núi Athos (Mount Athos)
Địa điểm: Khu tự trị núi Athos (Autonomous region of Mount Athos), Hy Lạp (N40 16 0.012 E24 13 0.012)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 33.042,3 ha
Năm xây dựng:
Giá trị: Di sản thế giới (1988; hạng mục i; ii; iv; v; vi; vii)
Hy Lạp (Greece) là một quốc gia nằm ở Đông Nam Châu Âu, cực nam của Balkans; ngã tư của Châu Âu, Châu Á và Châu Phi. Hy Lạp có chung biên giới đất liền với Albania về phía tây bắc, North Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ về phía đông bắc; giáp biển Aegean ở phía đông, biển Ionian ở phía tây, biển Cretan và Địa Trung Hải ở phía nam.
Hy Lạp có diện tích 131957km2, dân số khoảng 10,72 triệu người (năm 2019).
Hy Lạp ngày nay được phân thành 7 bang, 13 khu vực với 325 thành phố. Athens là thành phố thủ đô và lớn nhất, thuộc khu vực Attica.
Hy Lạp được coi là cái nôi của nền văn minh phương Tây, là nơi sinh của nền dân chủ, triết học, văn học, nghiên cứu lịch sử, khoa học chính trị, toán học và một số ngành khoa học khác; đề tài cho nhiều bộ phim phương Tây và Thế vận hội Olympic.
Từ thế kỷ 8 trước Công nguyên (TCN), Hy Lạp gồm nhiều thị quốc (thành bang) độc lập, được gọi là poleis (số ít là polis - thành phố; chữ polis trong Acropolis có ý nghĩa như vậy), kéo dài tới vùng Địa Trung Hải và Biển Đen. Các thị quốc Hy Lạp liên kết thành Liên minh Delian (Delian League, thành lập năm 478 TCN).
Vào thế kỷ 4 TCN, vua Argead Philip II (trị vì năm 359–336 TCN) của tiểu quốc Macedonia đã thống nhất phần lớn đất nước Hy Lạp ngày nay. Con trai của ông là Alexander Đại đế (Alexander the Great, trị vì năm 336- 323 TCN) nhanh chóng chinh phục mở rộng lãnh thổ, từ đông Địa Trung Hải đến Ấn Độ, tạo ra một trong những đế chế lớn nhất thời bấy giờ. Từ đây mở ra một thời kỳ đỉnh cao của văn hóa Hy Lạp.
Hy Lạp bị Cộng hòa La Mã (Roman Republic, tồn tại năm 509 – 27 TCN) thôn tính vào thế kỷ 2 TCN, trở thành một phần không thể thiếu của Đế chế La Mã (Roman Empire, tồn tại năm 27 TCN – 476) và vương quốc tiếp theo là Đế chế Byzantine (Byzantine Empire, tồn tại năm 395–1453). Cả hai đế chế này đều sử dụng ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp.
Về tôn giáo, Chính Thống giáo Hy Lạp (Greek Orthodox Church) xuất hiện trong thế kỷ 1, đã góp phần hình thành bản sắc của Hy Lạp hiện đại và lan truyền văn hóa Hy Lạp tới các vùng đất theo Chính Thống giáo Hy Lạp.
Thế kỷ 15, Hy Lạp nằm dưới sự thống trị của Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman Empire, tồn tại năm 1299–1922). Hy Lạp giành lại độc lập vào năm 1830.
Hy Lạp (Hellenic Republic) là một quốc gia có hệ thống di tích lịch sử phong phú, phản ánh một phần qua 18 Di sản Thế giới được UNESCO công nhận (đến năm 2019), trong đó có Quần thể di tích Núi Athos (Mount Athos).

Bản đồ Hy Lạp và vị trí khu tự trị Athos

Hình ảnh nhìn từ phía nam núi Athos, Hy Lạp
Núi Athos (Mount Athos) có diện tích chỉ hơn 33.000 ha, bao gồm toàn bộ dải đá hẹp ở cực đông của một trong ba bán đảo Chalcidice nhô ra biển Aegean ở phía bắc Hy Lạp.
Núi chạy từ tây bắc xuống đông nam với đỉnh có cao độ 2033m so với mực nước biển, được che phủ bởi các cánh rừng Địa Trung Hải (Mediterranean).
Núi Athos thường được gọi Núi Thánh (Holy Mountain). Đây là một khu vực có người sinh sống từ thời cổ đại và được biết đến với sự hiện diện lâu đời của người Cơ đốc giáo cũng như truyền thống lịch sử của các tu viện, có niên đại ít nhất là 800 năm sau Công nguyên và thời đại Byzantine.
Núi Athos trở thành một trung tâm tâm linh của Chính thống giáo Đông phương (Eastern Orthodox với khoảng 220 triệu tín đồ) từ năm 1054, là một trong ba nhánh chính của Cơ đốc giáo hay Kito giáo (Christian), bên cạnh Công giáo (Catholic Church) và Tin lành (Protestantism).
Chính thống giáo Đông phương khác biệt với Chính thống giáo phương Đông (Oriental Orthodox với khoảng 60 triệu tín đồ.
Vùng đất này được quản lý như một chính thể tự trị. Hiến pháp đầu tiên của vùng đất tự trị này được ký vào năm 972 bởi John I Tzimiskes (Hoàng đếByzantine, trị vì năm 969- 976). Cộng đồng tu viện Núi Athos (Monastic community of Mount Athos) dưới quyền quản lý trực tiếp của Thượng phụ hay Giáo chủ Đại kết Constantinople (Ecumenical Patriarch of Constantinople). Thượng phụ được coi là người đại diện và lãnh đạo tinh thần của các Cơ đốc Chính thống giáo (Orthodox Christians) trên toàn thế giới.
Đại kết Constantinople là một trong những tổ chức lâu đời nhất trên thế giới và đã có một phần nổi bật trong lịch sử thế giới. Các Giáo chủ Đại kết trong thời Cổ đại đã giúp truyền bá đạo Cơ đốc và giải quyết các tranh chấp về giáo lý khác nhau. Vào thời Trung cổ, họ đóng một vai trò quan trọng trong các công việc của Nhà thờ Chính thống giáo Đông phương (Eastern Orthodox). Hiện nay, ngoài việc mở rộng đức tin Cơ đốc và giáo lý Chính thống giáo Đông phương, các giáo sĩ còn tham gia vào công cuộc đối thoại giữa các giáo phái, làm công việc từ thiện và bảo vệ truyền thống Cơ đốc Chính thống giáo.
Cộng đồng tự trị tại Núi Athos bao gồm 20 tu viện (17 Hy Lạp, 1 Nga, 1 Serbia và 1 Bungary), ẩn thất và các khu định cư phụ thuộc nằm trên sườn dốc của các gò núi.
Hầu hết các tu viện đều nằm gần bờ biển, ngoại trừ các tu viện Koutloumousiou, Philotheou, Konstamonitou, Zografou và Chilandariou (Helandariou), nằm trong đất liền.
Đây là nơi tu luyện của khoảng 1400 tu sĩ Chính thống giáo Đông phương đến từ Hy Lạp, Bulgaria, Georgia, Moldova, Nga, Romania, Serbia và các nơi khác. Họ sống một cuộc đời khổ hạnh ở Athos, biệt lập với phần còn lại của thế giới. Để trở thành một tu sĩ trên núi Athos, một người phải đủ 18 tuổi và đã trải qua một thử thách từ một đến ba năm. Núi Thánh Athos là nơi cấm phụ nữ và trẻ em.
Núi Athos là một địa điểm nghệ thuật được công nhận. Cách bố trí của các tu viện có ảnh hưởng đến tận nước Nga, và trường phái hội họa của nó đã ảnh hưởng đến lịch sử nghệ thuật Chính thống giáo.
Các tu viện tại đây lưu giữ một bộ sưu tập phong phú các hiện vật được bảo quản tốt, sách quý hiếm, tài liệu cổ và các tác phẩm nghệ thuật có giá trị lịch sử to lớn.
Ngoài tu viện, tại đây còn có cơ sở phụ trợ, được gọi là: sketae, kellia và kathismata (các bộ phận sinh hoạt của tu viện, do các tu sĩ điều hành), phục vụ cho canh tác nông nghiệp, một hoạt động chiếm một phần quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của vị tu sĩ.
Cảnh quan tại đây phản ánh các phương thức canh tác truyền thống của tu viện, nơi duy trì quần thể các loài thực vật hiện đã trở nên hiếm hoi trong khu vực.
Quần thể Núi Athos, tại khu tự trị Athos, Hy Lạp được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 1988) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Việc biến một ngọn núi thành một nơi linh thiêng đã làm Núi Athos trở thành một công trình sáng tạo nghệ thuật độc đáo, kết hợp vẻ đẹp tự nhiên của địa điểm với các hình thức kiến trúc; là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người. Hơn nữa, các tu viện của Athos là một viện bảo tồn thực sự của các kiệt tác khác nhau, từ các bức tranh trên tường, như các tác phẩm của họa sĩ Hy Lạp Manuel Panselinos (cuối thế kỷ 13 - đầu thế kỷ 14) tại Nhà thờ Protaton, Karyes, vào khoảng năm 1290 và của họa sĩ Hy Lạp Frangos Catellanos (năm 1510/20 – 1590) tại Tu viện Great Lavra, vào năm 1560, đến các biểu tượng di động, đồ vật bằng vàng, đồ thêu và các bản thảo mà mỗi tu viện gìn giữ.
Tiêu chí (ii): Núi Athos có ảnh hưởng lâu dài trong thế giới Chính thống giáo. Athos là trung tâm tâm linh, đối với sự phát triển của kiến trúc tôn giáo và hội họa hoành tráng.
Cách bố trí điển hình của các tu viện tại Thánh địa Athos đã được sử dụng ở tận nước Nga. Các chủ đề biểu tượng, được hệ thống hóa bởi trường phái hội họa ở Núi Athos và được trình bày chi tiết trong Hướng dẫn vẽ tranh (Guide to Painting, do Didron phát hiện và xuất bản năm 1845), đã được sử dụng trong phạm vi từ đảo Crete, Hy Lạp đến bán đảo Balkans (gồm toàn bộ lãnh thổ của Hi Lạp, Bulgaria, Albania, Montenegro, Bắc Macedonia và Bosnia và Herzegovina cùng với một phần khu vực của Slovenia, Croatia, Serbia, Romania và Thổ Nhĩ Kì) từ thế kỷ 16 trở đi.
Tiêu chí (iv): Các tu viện của Thánh địa Athos là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc tu viện Chính thống giáo (Orthodox monastic): một quần thể kiến trúc hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình thang được bao quanh bởi các tòa nhà tôn giáo; Trung tâm quần thể là nhà thờ công giáo, đứng độc lập. Các tu viện được tổ chức chặt chẽ theo các nguyên tắc có từ thế kỷ 10, là các khu vực dành riêng cho các hoạt động cộng đồng (dinh thự, mật thất, trạm xá, thư viện) và những khu vực chỉ dành riêng cho mục đích phục vụ (nhà nguyện, đài phun nước), và các công trình phòng thủ (kho vũ khí, tháp kiên cố). Tổ chức các vùng đất nông nghiệp trong các khu đất thuộc sự quản lý của tu viện và do các tu sĩ vận hành (idiorrythmic sketae, kellia và kathismata) cũng rất đặc trưng của thời kỳ Trung cổ.
Tiêu chí (v): Lý tưởng tu viện ở Núi Athos đã bảo tồn những nơi định cư truyền thống của con người, nơi đại diện cho nền văn hóa nông nghiệp của Địa Trung Hải và đã trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của sự thay đổi trong xã hội đương đại. Núi Athos cũng là một viện bảo tồn của kiến trúc bản địa cũng như các truyền thống nông nghiệp và thủ công.
Tiêu chí (vi): Là một trung tâm tâm linh Chính thống giáo từ thế kỷ 10, Thánh địa Athos trở thành ngôi nhà tâm linh chính của Nhà thờ Chính thống giáo vào năm 1054. Thánh địa vẫn giữ được vai trò nổi bật này ngay cả sau khi kinh đô Constantinople của Đế chế Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) thất thủ trước sự vây hãm của Đế chế Ottoman vào năm 1453 và sự thành lập của chế độ tự chủ đặc biệt Moscow vào năm 1589 (Autocephalous patriarchy, trạng thái của một nhà thờ Thiên chúa giáo có thứ bậc mà giám mục đứng đầu không phải báo với bất kỳ giám mục cấp cao nào). Núi Athos gắn liền trực tiếp và hữu hình với lịch sử của Cơ đốc giáo Chính thống, ở các mức độ khác nhau, có mặt ở hơn 20 quốc gia trong thế kỷ 20. Địa điểm hàng nghìn năm tuổi này, nơi có sức nặng của lịch sử ở vùng nông thôn, những di tích và bộ sưu tập quý giá được hình thành qua thời gian, vẫn giữ được ý nghĩa phổ biến và đặc biệt cho đến ngày nay.
Tiêu chí (vii): Sự tương tác hài hòa giữa các phương thức canh tác truyền thống và lâm nghiệp có liên quan đến việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc của tu viện trong suốt nhiều thế kỷ, đã dẫn đến việc bảo tồn tuyệt vời vẻ đẹp tự nhiên độc đáo của các khu rừng Địa Trung Hải và hệ thực vật liên quan tại Núi Athos.

Sơ đồ phạm vi Khu Di sản Núi Athos, Hy Lạp

Sơ đồ các hạng mục di tích chính tại Khu Di sản Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện tại phía tây Núi Athos
Khu Di sản Núi Athos, Hy Lạp có nhiều tu viện, trong đó có tới 20 tu viện, nhà thờ chính. Tại phía tây có 10 tu viện, từ bắc xuống nam gồm:
Tu viện Zographou
Tu viện Zographou (Zograf Monastery/ Bulagarian) là tu viện đầu tiên của dãy tu viện tại phía tây Núi Athos, nằm trên một sườn núi dốc về phía tây.
Tới Tu viện có 2 tuyến đường bộ từ phía tây và đông. Cổng vào chính từ phía bắc.
Tu viện được thành lập vào cuối thế kỷ 9 hoặc đầu thế kỷ 10 bởi ba người Bulgaria đến từ Ohrid, một thành phố ở Bắc Macedonia. Tu viện được coi là tu viện lịch sử của người Bulgaria trên Núi Athos và là nơi sinh sống của các tu sĩ Chính thống giáo Bulgaria. Trong suốt thời Trung cổ, Tu viện được các nhà cai trị Bulgaria hỗ trợ một cách hào phóng. Tu viện cũng nhận được tài sản đất đai của các nhà cai trị Byzantine (Emperor of the Romans) và các nhà cai trị người Serbia.
Tu viện Zograf đã bị quân Thập tự chinh (Crusades) cướp phá vào năm 1275.
Tu viện lại bị tấn công và cướp phá trong hai năm 1307 – 1309. Nhiều tu sĩ bị giết hại. Trong số 300 tu viện trên Athos vào đầu thế kỷ 14, chỉ còn lại 35 tu viện vào cuối thế kỷ 14, trong đó có Tu viện Zographou.
Tu viện được phục hồi nhanh chóng với sự giúp đỡ và hỗ trợ từ các Hoàng đế dòng tộc Palaeologue và các hoàng tử của các Vương quốc Moldavian và Wallachian. Tu viện cũng được cấp nhiều tài sản ở một số vùng của Romania, Bulgaria, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, nhưng hiện chỉ giữ lại được những tài sản ở Hy Lạp.
Tu viện tồn tại trong diện mạo hiện đại từ thế kỷ 16, trong khi các tòa nhà ngày nay có niên đại từ giữa thế kỷ 18. Cánh phía nam được xây dựng vào năm 1750, cánh phía đông vào năm 1758, nhà thờ nhỏ được xây dựng vào năm 1764 và nhà thờ lớn vào năm 1801. Cánh phía bắc và phía tây có từ nửa sau thế kỷ 19 và việc xây dựng quy mô lớn kết thúc vào năm 1896.
Tu viện đứng thứ 9 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện là một quần thể các công trình tạo thành một hình chữ nhật, bao quanh một sân trong rộng rãi. Giữa sân trong là nhà thờ với tháp chuông. Phía tây là vách núi gần như dựng đứng.
Các công trình trong Tu viện có cấu trúc tương tự như nhiều lâu đài, pháo đài xây dựng trên sườn núi. Theo chiều cao phân thành: Phần đế, phần bệ, phần thân và mái nhà. Phần đế nhà là phần tường đá, gạch xây trên nền địa hình cao thấp khác nhau để tạo thành một mặt bằng thuận tiện cho việc xây dựng. Trong phần đế có không gian như phần tầng hầm. Phần bệ nhà tương tự như phần tầng trệt (phân biệt bởi cửa sổ với vòm tường phía trên rộng). Phần thân nhà của Tu viện cao 2- 4 tầng với hệ thống cửa phía trên có vòm tròn. Một số cửa có thêm ban công. Một số đoạn tường có thêm các khối logia. Mái của các tòa tu viện dạng mái dốc lợp ngói. Bề mặt Tu viện trang trí đơn giản, không có cột với các thức cột trang trí.
Nhà thờ bên trong Tu viện thường có mặt bằng hình chữ thập, hình một cây thánh giá Hy Lạp (Croce Greca, 4 nhánh dài bằng nhau). Mái của Nhà thờ được tạo bởi các mái vòm tròn gắn liền với mái hoặc nhô lên cao bởi hệ thống các cột đỡ hoặc vòm tường. Bề mặt của Nhà thờ được trang trí bởi dải màu của các viên gạch gốm. Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ (tại phía bắc), một số tu viện nhỏ nằm rải rác và các mảnh vườn canh tác.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 15 tu sĩ.
Tu viện còn lưu giữ nhiều lễ phục, đồ dùng phục vụ, biểu tượng và thánh tích có giá trị.
Tu viện Zograf sở hữu một thư viện có ý nghĩa quan trọng đối với văn hóa Bulgaria với các bản thảo thời Trung cổ. Thư viện Tu viện chứa 388 bản viết tay bằng tiếng Slavonic và 126 bản bằng tiếng Hy Lạp, cũng như khoảng 10.000 cuốn sách in. Hai điều lệ hoàng gia Bulgaria thời Trung cổ, Hiến chương Zograf (Zograf Charter) và Hiến chương Rila (Rila Charter), được phát hiện trong thư viện của Tu viện.

Tổng mặt bằng Tu viện Zographou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh tổng thể Tu viện Zographou, Núi Athos, Hy Lạp.

Sân trong, Tu viện Zographou, Núi Athos, Hy Lạp.

Bên trong Tu viện Zographou, Núi Athos, Hy Lạp.
Tu viện Konstamonitou
Tu viện Konstamonitou (Konstamonitou Monastery) nằm trong một thung lũng nhỏ, tại độ cao 200m so với mực nước biển.
Tới Tu viện, từ biển có 2 tuyến đường bộ tại phía tây và phía nam. Cổng chính vào Tu viện tại phía nam và phía đông.
Tu viện được thành lập vào giữa thế kỷ 11, bởi một thành viên vô danh của gia đình quý tộc Byzantine Kastamonites hoặc từ những người đến từ nơi khác. Tu viện dành riêng cho Thánh Stephen.
Sau khi bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn vào những năm 1420 và được phục hồi bởi Radich Postupovich (năm 1413–1441, một nhà quý tộc giàu có người Serbia).
Vào thế kỷ 16, Tu viện bị hư hại nặng do hỏa hoạn. Sự phục hồi bắt đầu từ thế kỷ 18 và 19 với sự hỗ trợ tài chính từ bên ngoài. Tu viện thu hút được nhiều tu sĩ đến từ vùng đất Nam Slav và trải qua một thế kỷ thịnh vượng.
Tu viện Konstamonitou đứng thứ 20 và cuối cùng trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện là một quần thể các công trình tạo thành một hình chữ nhật, bao quanh một sân trong hẹp. Chính giữa sân trong là Nhà thờ có quy mô lớn. Các tòa nhà hiện tại của tu viện có niên đại từ thế kỷ 18 và 19.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ (tại phía tây và nam), tàn tích của một tu viện nhỏ tại phía tây và các mảnh vườn canh tác.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 20 tu sĩ.
Tu viện còn lưu giữ nhiều lễ phục, đồ dùng phục vụ, biểu tượng và thánh tích có giá trị.
Thư viện của tu viện chứa 110 bản thảo và khoảng 5.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Konstamonitou, Núi Athos, Hy Lạp.

Mặt tiền chính phía nam Tu viện Konstamonitou, Núi Athos, Hy Lạp.
Tu viện Dochiariuo
Tu viện Dochiariuo (Dochiariuo Monastery) nằm sát chân núi, giáp biển. Ba mặt bắc, đông và nam là sườn núi, mặt tây là biển.
Tới Tu viện, có một tuyến đường bộ từ phía bắc và từ biển. Cổng vào Tu viện tại phía bắc, tây và nam.
Tu viện được thành lập vào cuối thế kỷ 10 hoặc đầu thế kỷ 11 và được dành để tưởng nhớ các Tổng lãnh thiên thần Michael và Gabriel.
Vào cuối thế kỷ 15, Tu viện là nơi tu hành của những tu sĩ người Serb và là một trong những tu viện lớn nhất trên Núi Athos.
Tu viện đứng thứ 10 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện là một quần thể tựa lưng và núi, quay mặt ra biển. Tương tự như các tu viện khác tại Núi Athos, Tu viện Dochiariuo gồm các dãy nhà bao quanh một sân trong hẹp. Chính giữa sân trong là nhà thờ. Phía đông của Tu viện là một tháp phòng thủ.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ (tại phía tây, đông và nam), một số tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu tại phía tây nam.
Năm 2011, Tu viện là một cộng đồng với 53 tu sĩ.
Tu viện còn lưu giữ nhiều lễ phục, đồ dùng phục vụ, biểu tượng và thánh tích có giá trị (mảnh vở của Thập tự giá).
Thư viện lưu giữ 545 bản thảo, 62 trong số đó được viết trên giấy da và hơn 5.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Dochiariuo, Núi Athos, Hy Lạp.

Phối cảnh Tu viện Dochiariuo, Núi Athos, Hy Lạp.
Tu viện Xenofontos
Tu viện Xenofontos (Xenofontos Monastery) có mặt bắc tựa vào gò núi, mặt đông là một thung lũng hẹp. Phía tây và nam giáp biển.
Tới Tu viện, có 2 tuyến đường bộ tại phía bắc, đông và từ biển. Cổng chính vào Tu viện tại phía bắc và phía nam.
Tu viện được dành riêng cho Thánh St George, được xây dựng vào thế kỷ 10 hoặc 11.
Sau khi kinh đô Constantinople của Đế chế Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) thất thủ trước sự vây hãm của Đế chế Ottoman vào năm 1453, Tu viện bắt đầu một thời kỳ khó khăn khi liên tục bị cướp biển phá hủy nhiều lần. Sau đó đã được xây dựng lại.
Tu viện đứng thứ 16 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện là một quần thể gồm các dãy nhà bao quanh một sân trong rộng rãi. Chính giữa sân trong là nhà thờ. Nhà thờ chính của Tu viện được xây dựng năm 1821, theo phong cách Tân cổ điển (Neo-classical Style), là một trong nhà thờ lớn nhất tại núi Athos. Tại đây có nhiều nhà nguyện. 11 nhà nguyện bên trong Tu viện và 6 bên ngoài.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, một số tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu tại phía nam.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 55 tu sĩ, hầu hết là người Hy Lạp.
Tu viện còn lưu giữ nhiều lễ phục, đồ dùng phục vụ, biểu tượng và thánh tích có giá trị.
Thư viện chứa khoảng 300 bản thảo và 4.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Xenofontos, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh nhìn từ phía biển Tu viện Xenofontos, Núi Athos, Hy Lạp

Sân trong Tu viện Xenofontos, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Aghios Panteleimon
Tu viện Aghios Panteleimon (Aghios Panteleimon Monastery; Russian) có mặt bắc và đông tựa vào núi. Phía tây và nam giáp biển.
Tới Tu viện, có 1 tuyến đường bộ tại phía bắc và từ biển. Cổng vào Tu viện tại phía bắc và từ phía biển.
Nơi đây chỉ có các tu sĩ Nga, do Nhà thờ Chính thống giáo Nga cử đến và các nghi lễ được phục vụ bằng tiếng Nga , mặc dù thực tế là tất cả các tu sĩ trên Núi Athos cuối cùng đều trở thành công dân của Hy Lạp.
Tu viện được thành lập bởi một số tu sĩ đến từ Kievan Rus vào thế kỷ 11, được công nhận là một tu viện riêng biệt vào năm 1169. Tu viện ban đầu được gọi là Old Russik.
Tu viện được xây dựng lại sau một trận hỏa hoạn vào thế kỷ 13 với sự hỗ trợ của Hoàng đế Đông La Mã Byzantine Andronicus Paleologos (trị vì năm 1282- 1328) và các hoàng tử Serbia.
Tu viện phát triển thịnh vượng trong thế kỷ 16 và 17 được bảo trợ bởi các Sa hoàng và Công tước của Nga.
Tu viện hiện nay nằm trên một địa điểm mới, gần bờ biển hơn, được thực hiện trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19, với sự giúp đỡ tài chính của các vị cai trị Moldo-Wallachia, Skarlatos Kallimachos.
Tu viện bị phá hủy bởi một trận hỏa hoạn vào năm 1968 và được phục dựng lại.
Tại đây có 1.000 tu sĩ Nga vào năm 1895, 1.446 vào năm 1903 và hơn 2.000 vào năm 1913 và giảm xuống còn 13 vào đầu những năm 1970.
Vào những năm 1990, Hy Lạp đã nới lỏng chính sách hạn chế và Tu viện đã trải qua một cuộc hồi sinh.
Tu viện đứng thứ 19 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện Aghios Panteleimon ngày nay là một quần thể các công trình, bao quanh một sân trong rộng. Chính giữa sân trong là Nhà thờ chính của Tu viện (Katholikon), được xây dựng từ năm 1812–1821 và được dành riêng cho Thánh Panteleimon. Công trình có cùng phong cách Tân cổ điển như tất cả các nhà thờ tại Thánh địa Athos. Cánh phía đông của Tu viện, hiện sử dụng làm khu tiếp khách với sức chứa 1.000 tu sĩ.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu tại phía tây. Quần thể tu viện là một trong những Tu viện lớn nhất tại Thánh địa Athos.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với khoảng 70 tu sĩ người Nga và Ukraine.
Tu viện Aghios Panteleimon là nơi lưu giữ lễ phục, đồ dùng phục vụ, biểu tượng và thánh tích vô giá, như di vật của Thánh Panteleimon, một trong những vị thánh phổ biến nhất ở Nga. Chuông tu viện có từ thế kỷ 19, được cho là lớn nhất ở Hy Lạp.
Thư viện được đặt trong một tòa nhà riêng biệt trong Tu viện. Thư viện chứa 1.320 bản viết tay bằng tiếng Hy Lạp và 600 bản Slavonic khác, cũng như 25.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Aghios Panteleimon, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh nhìn từ phía biển Tu viện Aghios Panteleimon, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Xiropotamou
Tu viện Xiropotamou (Xiropotamou/ Xeropotamou Monastery) nằm trên một gò núi, phía đông là một khe núi hẹp.
Tới Tu viện, có 2 tuyến đường bộ tại phía bắc, phía đông và 1 tuyến đường bộ từ biển tại phía nam. Cổng vào Tu viện tại phía bắc.
Theo truyền thuyết, Tu viện được thành lập vào giữa thế kỷ 5. Tu viện hiện tại được thành lập vào thế kỷ thứ 10, dành riêng cho Bốn mươi vị tử vì đạo của Sebaste (Forty Martyrs of Sebaste).
Tu viện Xeropotamou thịnh vượng cho đến thế kỷ 13, trước khi bị người Frank chiếm đóng và cướp bóc.
Tu viện được phục hưng vào thế kỷ 14 với sự hỗ trợ của Hoàng đế Đông La Mã Byzantine Andronicus Paleologos (trị vì năm 1282- 1328) và các hoàng tử Serbia.
Sau khi kinh đô Constantinople của Đế chế Byzantine thất thủ trước sự vây hãm của Đế chế Ottoman vào năm 1453, Tu viện bắt đầu một thời kỳ khó khăn khi liên tục bị các cuộc tấn công từ bên ngoài và các trận hỏa hoạn lớn vào năm 1507 và 1609.
Tu viện được xây dựng lại vào năm 1761-1763, bị thiệt hại do hỏa hoạn gần đây vào năm 1950 và 1973.
Tu viện đứng thứ 8 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện là một quần thể gồm các dãy nhà bao quanh một sân trong rộng rãi. Chính giữa sân trong là nhà thờ. Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, một số tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu tại phía nam.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 25 tu sĩ.
Tu viện Xeropotamou lưu giữ nhiều bức bức họa và thánh tích, nổi bật nhất là mảnh lớn nhất còn tồn tại của Thập tự giá. Kho bạc của Tu viện còn lưu giữ các bộ lễ phục và các đồ tễ lễ.
Thư viện của Tu viện chứa 409 bản thảo, trong đó có 20 bộ được viết trên giấy da và khoảng 4000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Xeropotamou, Núi Athos, Hy Lạp.


Cấu trúc xây dựng điển hình của các tòa nhà bên trong Tu viện Xeropotamou, Núi Athos, Hy Lạp: Công trình với các ban công, logia; Nhà thờ với các mái vòm tròn; Tháp phòng thủ; Đài phun nước...

Bức tranh Thánh (“Sự phán xét cuối cùng”) trong Tu viện Xeropotamou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Simonos Petras
Tu viện Simonos Petras (Simonos Petras Monastery) nằm trên đỉnh của một tảng đá khổng lồ, trên một vách đá cao 330m, gần biển, phía tây là một khe núi hẹp.
Tới Tu viện, có 1 tuyến đường bộ tại phía tây và tuyến đi bộ với các bậc dốc từ biển tại phía nam. Cổng chính vào Tu viện tại phía bắc và phía nam.
Tu viện được thành lập vào thế kỷ 13 bởi Thánh Simon the Athonite (Saint Simon the Myrrh-bearer). Năm 1364, Tu viện được người Serbia tài trợ cho việc cải tạo và mở rộng Tu viện.
Vào cuối thế kỷ 15, đây trở thành Tu viện của người Bulgaria.
Năm 1581, 1622 Tu viện bị hỏa hoạn và sau đó được phục dựng lại.
Năm 1891, một trận hỏa hoạn phá hủy hoàn toàn các tòa nhà và kho tàng của Tu viện.
Giữa thế kỷ 20, Tu viện gần như bị bỏ hoang và mới được tái lập lại vào năm 1973. Năm 1990, Tu viện lại bị hỏa hoạn kéo dài đến 14 ngày và sau đó được phục dựng lại.
Tu viện đứng thứ 13 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình, bao quanh một sân trong chật hẹp. Chính giữa sân trong là Nhà thờ chính của Tu viện.
Tu viện bao gồm một số tòa nhà nhiều tầng, tòa nhà chính ở vị trí của cấu trúc ban đầu, được xây dựng bởi Thánh Simon. Tòa nhà chính đã được mô tả là "Công trình xây dựng táo bạo nhất của bán đảo". Các tu sĩ của Tu viện, theo truyền thống, đánh dấu số tầng từ trên xuống dưới, do đó tầng trên cùng là tầng đầu tiên và tầng dưới cùng là tầng cuối cùng.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu nhỏ tại phía nam.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 54 tu sĩ.
Tu viện Simonos Petras còn lưu giữ được nhiều biểu tượng, lễ phục và rất nhiều thánh tích trong đó di tích cánh tay trái của Thánh Mary Magdalene, được coi là một trong những người sáng lập Tu viện.
Kho lưu trữ của Tu viện chứa một loạt các tài liệu bằng tiếng Hy Lạp, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Romania, cùng với các bản thảo vào thời hậu Byzantine (từ thế kỷ 15).

Tổng mặt bằng Tu viện Simonos Petras, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh phía nam của Tu viện Simonos Petras, Núi Athos, Hy Lạp

Sơ đồ mặt cắt Tu viện Simonos Petras, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Osiou Gregoriou
Tu viện Osiou Gregoriou (Osiou Gregoriou Monastery) nằm tại phía chân một gò núi tại phía đông bắc, 3 mặt còn lại sát biển.
Tới Tu viện, có 1 tuyến đường bộ tại phía bắc và từ biển; Rất khó tiếp cận bằng đường bộ. Cổng chính vào Tu viện tại phía bắc.
Tu viện được thành lập vào năm 1310 bởi Thánh Gregory the Hesychas.
Tu viện Gregoriou bị hỏa hoạn vào năm 1496 và 1761 và ngay sau đó được phục dựng lại.
Tu viện mới được cải tạo lại vào năm 1997. Các tu sĩ tại đây có nguồn gốc từ Hy Lạp và Slav.
Tu viện đứng thứ 17 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình, bao quanh một sân trong chật hẹp. Chính giữa sân trong là Nhà thờ chính của Tu viện.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu nhỏ tại phía bắc.
Vào năm 2020, Tu viện là một cộng đồng với 90 tu sĩ.
Tu viện được biết đến với sự tham gia, đóng góp vào các cuộc đối thoại thần học, nhiều ấn phẩm sách thần học và mục vụ (dịch vụ chăm sóc tín đồ của các tu sĩ), thông qua các hoạt động sản xuất đồ thủ công như hương, dầu ô liu…
Tu viện lưu giữ khoảng 300 bản thảo, trong đó có 11 bản in trên giấy da, và có khoảng 20.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Osiou Gregoriou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Osiou Gregoriou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Dionysiou
Tu viện Dionysiou (Dionysiou Monastery) nằm tại chân một gò núi tại phía đông và nam, phía đông bắc là một thung lũng nhỏ, phía tây sát biển.
Tới Tu viện, có 1 tuyến đường bộ tại phía đông bắc (chạy dọc theo thung lũng) và từ biển. Cổng chính vào Tu viện tại phía bắc và tây.
Tu viện được dành riêng cho Thánh John the Baptist, được thành lập vào thế kỷ 14 bởi Thánh Dionysius, là tu viện là của người Serbia.
Tu viện được xây dựng theo phong cách Byzantine.
Năm 1535, Tu viện bị hỏa hoạn thiêu rụi và sau đó được xây dựng lại.
Tu viện đứng thứ 5 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình, bao quanh một sân trong chật hẹp. Chính giữa sân trong là Nhà thờ chính của Tu viện; kề liền là tòa tháp phòng thủ cao 25m, xây dựng vào năm 1520.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu tại phía tây bắc.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với khoảng 50 tu sĩ.
Tu viện Dionysiou lưu giữ lưu giữ các bộ lễ phục, đồ tễ lễ và thánh tích, trong đó có có di tích của Thánh Niphon, Giáo chủ Constantinople, được đặt trong một hầm mộ đặc biệt.
Thư viện của Tu viện có 804 bản thảo và hơn 4.000 cuốn sách in. Các bản thảo cổ nhất có từ thế kỷ 11.

Tổng mặt bằng Tu viện Dionysiou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Dionysiou, Núi Athos, Hy Lạp

Bên trong nhà ăn, Tu viện Dionysiou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Agiou Pavlou
Tu viện Agiou Pavlou (Agiou Pavlou Monastery) nằm tại chân gò núi tại phía đông; phía bắc là một thung lũng, phía tây là hướng biển.
Tới Tu viện, có 2 tuyến đường bộ tại phía bắc, nam và từ biển. Cổng chính vào Tu viện tại phía đông và nam.
Tu viện được thành lập vào cuối thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 11 bởi Thánh Paul của Xeropotamou, cũng là người sáng lập ra Tu viện Xeropotamou.
Tu viện ban đầu được dành riêng cho Thánh George, nhưng ngay từ đầu đã lấy tên của người sáng lập ra nó.
Nhà thờ Tu viện là nơi dành riêng cho Sự hiện diện của Chúa Kitô (Presentation of Jesus at the Temple).
Giữa năm 1355 và 1365, một nhà quý tộc người Serbia đã mua lại và trùng tu tu viện đã đổ nát, trở thành trụ trì của Tu viện. Tu viện Agiou Pavlou là của người Serb.
Tu viện phát triển rực rỡ trong thế kỷ 17, suy tàn vào thế kỷ 18. Vào đầu thế kỷ 19, với nguồn hỗ trợ mới, Tu viện dần phục hồi.
Tu viện đứng thứ 14 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình, bao quanh một sân trong rộng về phía đông. Chính giữa sân trong là Nhà thờ chính của Tu viện. Tháp phòng thủ nằm tại phía bắc.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu tại phía tây.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 31 tu sĩ.
Tu viện Agiou Pavlou lưu giữ rất nhiều thánh tích, trong đó một mảnh của Thập tự giá. Kho bạc của Tu viện còn lưu giữ các bộ lễ phục và các đồ tễ lễ.
Thư viện của Tu viện chứa 494 bản thảo và hơn 12.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Agiou Pavlou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Agiou Pavlou, Núi Athos, Hy Lạp

Nhà thờ tại sân trong Tu viện Agiou Pavlou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện tại phía đông Núi Athos
Khu Di sản Núi Athos, Hy Lạp có nhiều tu viện, tại phía đông có 10 tu viện, từ bắc xuống nam gồm:
Tu viện Chilandariou
Tu viện Chilandariou (Hilandar/Chilandariou Monastery/ Serbian) là tu viện đầu tiên của dãy tu viện tại phía đông Núi Athos, nằm giữa các gò núi tại phía đông và tây, bắc và nam là thung lũng.
Tới Tu viện, có 2 tuyến đường bộ tại phía bắc (từ biển) và đông nam. Cổng chính vào Tu viện từ bắc, đông và nam.
Tu viện được thành lập vào năm 1198 bởi Thánh Stefan Nemanja (Saint Symeon). Ông là Đại công tước (Grand prince, trị vì năm 1166–1196) của Đại công quốc Serbia (Grand Principality of Serbia), người sau khi từ bỏ ngai vàng đã tuyên thệ xuất gia và trở thành một tu sĩ. Ông cùng với con trai mình là Thánh Saint Sava, người đã ở trên núi Athos và sau này trở thành Tổng giám mục đầu tiên của Serbia, đã thành lập Tu viện. Khi thành lập, tu viện đã trở thành tâm điểm của đời sống tôn giáo và văn hóa Serbia, cũng như "Trường đại học đầu tiên của Serbia".
Thánh Saint Symeon qua đời trong tu viện vào năm 1200, nơi ông được chôn cất bên cạnh nhà thờ chính của Tu viện. Sau này, hài cốt của ông đã được chuyển tới Tu viện Studenica (Studenica Monastery, cũng là Di sản thế giới, năm 1986), tại Serbia.
Tu viện bị quân Thập tự chinh cướp phá vào năm1204.
Vào đầu thế kỷ 14, các tu viện trên Núi Thánh Athos liên tục bị cướp phá. Trong số 300 tu viện và cộng đồng tu viện trên Athos, Tu viện Chilandariou chỉ nằm trong số 35 tu viện còn tồn tại.
Vào thế kỷ 15, Đế chế Byzantine đã bị người Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục. Tu viện dần suy tàn. Vào thế kỷ 17, vai trò của các tu sĩ Serbia nhường cho các tu sĩ Bulgaria. Đầu thế kỷ 20, vị thế của các tu sĩ Serbia mới dần hồi phục.
Năm 2004, một trận hỏa hoạn đã phá hủy một nửa Tu viện. Thư viện và nhiều biểu tượng lịch sử bên trong Tu viện đã được cứu. Sau đó, Tu viện dần được khôi phục.
Tu viện đứng thứ 4 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình, bao quanh một sân trong rộng về phía bắc. Chính giữa sân trong là Nhà thờ chính của Tu viện. Tháp phòng thủ nằm tại phía đông.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và bến tàu tại phía bắc. Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 45 tu sĩ.
Tu viện lưu giữ nhiều các Thánh tích và di vật lịch sử.
Thư viện của Tu viện lưu giữ 181 bản viết tay bằng tiếng Hy Lạp và 809 bản Slavic, khoảng 20 000 cuốn sách in, trong đó có 3 000 bản bằng tiếng Hy Lạp.

Tổng mặt bằng Tu viện Chilandariou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Chilandariou, Núi Athos, Hy Lạp

Nhà thờ tại sân trong Tu viện Chilandariou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Esphigmeunou
Tu viện Esfigmenou (Esfigmenou Monastery) nằm tại thung lũng giữa ba ngọn núi tại phía đông, nam và tây. Phía bắc giáp biển.
Tới Tu viện, có 2 tuyến đường bộ tại phía đông, tây và từ biển tại phía bắc. Cổng chính vào Tu viện từ bắc, đông và nam.
Tu viện Esfigmenou dành riêng cho sự kiện Thăng thiên của Chúa Kitô (Ascension of Jesus). Tu viện hiện tại có từ cuối thế kỷ thứ 10 hoặc đầu thế kỷ 11, trong khi truyền thống cho rằng địa điểm này đã được sử dụng làm tu viện từ đầu thế kỷ thứ 5.
Tu viện rất thịnh vượng cho đến thế kỷ 14, khi bị hỏa hoạn và cướp biển hủy hoại.
Tu viện phục hồi lại vào thế kỷ 17, 18.
Tu viện đứng thứ 18 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình tháp chuông, nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong rộng rãi. Chính giữa sân trong là Nhà thờ chính của Tu viện.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, nhà nguyện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và 2 bến tàu tại phía bắc.
Công trình kiến trúc hiện tại chủ yếu xây dựng trong nửa đầu thế kỷ 19. Nhà thờ được xây dựng từ năm 1806- 1810 theo phong cách của nhà thờ tại Thánh địa Athos. Công trình to lớn, uy nghi với 8 mái vòm trên mái phủ chì. Mái vòm trung tâm là mái vòm lớn nhất. Công trình được xây dựng bằng đá cẩm thạch, vận chuyển đến từ đảo Tinos (cách bán đảo Athos 300km về phía nam).
Tu viện có 13 nhà nguyện, 8 bên trong và 5 bên ngoài.
Kho bạc của tu viện cất giữ nhiều Thánh tích và di vật lịch sử quan trọng.
Tu viện cũng có một bộ sưu tập lớn các bản thảo. Thư viện của nó có 372 bản thảo, trong đó 75 bản là giấy da, một số có trang trí mang tính biểu tượng và khoảng 8.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Esfigmenou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Esfigmenou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh nhìn từ phía biển Tu viện Esfigmenou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Vatopedion
Tu viện Vatopedion (Vatopedion Monastery) nằm trên một sườn núi tương đối bằng phẳng, dốc từ nam ra bắc, tới biển.
Tới Tu viện, có 3 tuyến đường bộ tại phía đông, tây, nam và từ biển tại phía bắc. Cổng chính vào Tu viện từ 4 hướng.
Tu viện được thành lập vào nửa sau thế kỷ 10, là tu viện của người Hy Lạp. Tu viện đã được mở rộng nhiều lần trong lịch sử của nó, đặc biệt là trong thời kỳ Byzantine và trong thế kỷ 18 và 19.
Tu viện đứng thứ 2 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong rộng rãi. Nhà thờ chính của Tu viện nằm tại góc phía đông bắc của sân trong. Bên trong Tu viện có nhiều tháp, trong đó có Tháp đồng hồ thời kỳ Byzantine.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và 2 bến tàu tại phía bắc.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 120 tu sĩ.
Tu viện Vatopedi lưu giữ nhiều Thánh tích và nhiều biểu tượng.
Thư viện chứa 2.000 bản thảo và 35.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Vatopedion, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Vatopedion, Núi Athos, Hy Lạp

Cấu trúc xây dựng các tòa nhà với logia tại Tu viện Vatopedion, Núi Athos, Hy Lạp

Sân trong Tu viện Vatopedion, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Pantokrator
Tu viện Pantokrator (Pantokrator Monastery) nằm trên một sườn núi tại phía tây, dốc ra biển tại phía đông. Tới Tu viện, có 2 tuyến đường bộ tại phía tây, bắc và từ biển tại phía đông nam. Cổng chính vào Tu viện từ phía tây và nam.
Tu viện được dành riêng cho sự kiện Biến hình của Chúa Jesus (Transfiguration of Jesus).
Tu viện được thành lập vào khoảng năm 1360, của người Hy Lạp. Tu viện được trùng tu và mở rộng vào thế kỷ 16. Tu viện bị ảnh hưởng của các trận hỏa hoạn vào năm 1393, 1733, 1948. Sau đó được phục dựng lại.
Tu viện đứng thứ 7 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong hẹp. Nhà thờ chính của Tu viện nằm tại góc phía bắc của sân trong. Phía tây của Tu viện là một tháp chính (Megas Pyrgos) hay tháp phòng thủ, cao 7 tầng, là một trong số tháp lớn nhất trong các tu viện tại Thánh địa Athos. Tháp là nơi chứa các bộ sưu tập đồ tế lễ, biểu tượng, sách và tài liệu được in tại Tu viện. Tòa tháp được tân trang lại hoàn toàn vào năm 1995.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và 1 bến tàu tại phía đông nam.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 30 tu sĩ.
Tu viện sở hữu một bộ sưu tập đáng kể về các vị thánh và nhiều biểu tượng từ thế kỷ 14 - 19.
Thư viện của Tu viện lưu giữ khoảng 350 bản thảo, và 3.500 cuốn sách in, bằng tiếng Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.

Tổng mặt bằng Tu viện Pantokratoros, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Pantokratoros, Núi Athos, Hy Lạp

Các tòa nhà và tháp phòng thủ bao quanh Tu viện Pantokratoros, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Stavronikita
Tu viện Stavronikita (Stavronikita Monastery) nằm trên một sườn núi đá tại phía tây, tại cao độ 50m so với mực nước biển, dốc ra biển tại phía đông.
Tới Tu viện, có 1 tuyến đường bộ tại phía tây và từ biển tại phía đông nam.
Cổng chính vào Tu viện từ phía tây và nam.
Tu viện Stavronikita là tu viện nhỏ nhất trong số 20 tu viện tại Núi Athos, dành riêng cho Thánh Nicholas, được cho là thành lập vào cuối nửa đầu thế kỷ 11.
Thế kỷ 13, Tu viện bị bỏ hoang do các cuộc tấn công của cướp biển cũng như các tác động của cuộc Thập tự chinh lần thứ tư đối với toàn bộ Đế chế Byzantine. Tu viện Stavronikita của người Hy Lạp và là một tu viện nhỏ bé so với các tu viện khác tại Thánh địa Athos. Hai trận hỏa hoạn năm 1607 và 1741 đã thiêu rụi Tu viện. Sau đó, Tu viện được phục hồi.
Tu viện lại bị ba trận hỏa hoạn vào năm 1864, 1874 và 1879 gây thiệt hại lớn. Tu viện bị bỏ hoang vào nửa sau của thế kỷ 20. Công việc cải tạo lại Tu viện diễn ra từ năm 1981 đến năm 1999.
Tu viện đứng thứ 15 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong nhỏ hẹp. Nhà thờ chính của Tu viện nằm tại góc phía đông của sân trong. Tháp phòng thủ nằm tại rìa phía nam sân trong.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và 1 bến tàu tại phía đông nam.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 30 - 40 tu sĩ.
Tu viện Stavronikita có một bộ sưu tập các biểu tượng và Thánh tích đáng chú ý.
Thư viện Tu viện cũng có một bộ sưu tập gồm 171 bản thảo, trong đó 58 bản được viết trên giấy da.

Tổng mặt bằng Tu viện Stavronikita, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Stavronikita, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Koutloumousiou
Tu viện Koutloumousiou (Koutloumousiou Monastery) nằm tại giữa bán đảo, gần đỉnh núi Athos, giữa một thung lũng tương đối phẳng.
Tới Tu viện, có các tuyến đường bộ tại bốn phía.
Cổng chính vào Tu viện từ phía đông, tây và bắc.
Phía bắc Tu viện hiện là một khu định cư của cộng đồng tu sĩ mang tên Karyes. Vào năm 2011, tại đây có 163 người, là khu định cư lớn nhất Núi Athos. Nhà thờ chính ở Karyes là Protaton, là nhà thờ của người Protos. Biểu tượng Axion Estin nổi tiếng được lưu giữ tại Protaton.
Tu viện đứng thứ 6 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong rộng. Nhà thờ chính của Tu viện nằm chính giữa sân trong.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 26 tu sĩ.
Thư viện của tu viện chứa 662 bản thảo và khoảng 3.500 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Koutloumousiou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh sân trong Tu viện Koutloumousiou, Núi Athos, Hy Lạp

Tổng mặt bằng Khu định cư Karyes, Núi Athos, Hy Lạp. Chính giữa trung tâm là Nhà thờ Protaton; phía nam của ảnh là Tu viện Koutloumousiou

Nhà thờ Protaton, Karyes, Tu viện Koutloumousiou, Núi Athos, Hy Lạp

Bức bính họa Axion Estin nổi tiếng được lưu giữ tại Nhà thờ Protaton, Karyes, Tu viện Koutloumousiou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Iviron
Tu viện Iviron (Iviron Monastery) nằm giữa một thung lũng, phía bắc, tây và nam là núi. Mặt đông là biển.
Tới Tu viện, có 2 tuyến đường bộ tại phía bắc, nam và từ biển tại phía đông. Cổng chính vào Tu viện từ phía nam và bắc.
Tu viện được hình thành vào thế kỷ 10, là nơi tu luyện của người Gruzia.
Tu viện đứng thứ 3 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong rộng. Nhà thờ chính nằm tại góc phía đông của sân trong, được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ 11 và được trùng tu vào năm 1513. Ngoài Nhà thờ chính, trong sân trong có nhiều công trình.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác và 2 bến tàu tại phía đông bắc và đông nam.
Tu viện Iviron có một bộ sưu tập các di vật, biểu tượng và Thánh tích đáng chú ý, trong đó có biểu tượng Panagia Portaitissa, một bức phù điêu mạ vàng, kích thước 1,37 x 0,94m, được cho là kỳ diệu và nổi tiếng nhất tại Núi Athos (liên quan đến truyền thuyết: Thế kỷ 9, Bức phù điêu Đức Mẹ Đồng Trinh là tài sản của một góa phụ vùng Tiểu Á. Một lần, binh lính đến đây cướp bóc, đã dùng kiếm đánh vào Bức phù điêu; Máu chảy ra từ gò má Đức Mẹ. Người lính sợ hãi và khuyên người phụ nữ giấu bức phù điêu. Người phụ nữ đem Bức phù điêu thả xuống biển. Bức phù điêu trôi dạt đến Núi Thánh Athos).
Thư viện của tu viện chứa hơn 2000 bản thảo và khoảng hơn 15.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Iviron, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Iviron, Núi Athos, Hy Lạp

Biểu tượng Panagia Portaitissa (với vết thương trên cằm của Đức Mẹ), lưu giữ tại Tu viện Iviron, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Philotheou
Tu viện Philotheou (Philotheou Monastery) nằm trên một gò núi. Phía tây là một thung lũng hẹp và sâu.
Tới Tu viện, có các tuyến đường bộ tại bốn phía. Cổng chính vào Tu viện từ 4 phía.
Tu viện được thành lập vào cuối thế kỷ 10, của người Albania.
Vào năm 1539-1540, Tu viện đã được tu sửa lại với kinh phí của các vị vua Gruzia.
Vào thế kỷ 14- 16, đây là nơi định cư của tu sĩ người Serbia và Bulgaria.
Sau đó Tu viện dần trở nên hoang vắng và phục hồi lại vào thế kỷ 18 khi được các nhà cai trị Hy Lạp hỗ trợ kinh phí xây dựng.
Tu viện đứng thứ 12 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong rộng. Nhà thờ chính của Tu viện nằm chính giữa sân trong.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn canh tác.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 60 tu sĩ.
Tu viện Philotheou có một bộ sưu tập các di vật, biểu tượng và Thánh tích như một mảnh của Thánh giá; Cánh tay phải của Thánh John Chrysostom.
Thư viện chứa 250 bản thảo và 2500 cuốn sách in (trong đó 500 cuốn bằng tiếng Nga và tiếng Rumani).

Tổng mặt bằng Tu viện Philotheou, Núi Athos, Hy Lạp


Sân trong Tu viện Philotheou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Karakallou
Tu viện Karakallou (Karakallou Monastery) nằm trên một gò núi gần biển. Phía tây là núi, phía đông bắc và tây nam là thung lũng hẹp.
Tới Tu viện, có các tuyến đường bộ tại phía tây bắc, nam và đông. Cổng chính vào Tu viện từ phía tây.
Tu viện được thành lập vào thể kỷ 11, của người Albania, được đặt tên theo nhà sáng lập.
Vào thế kỷ 13, do hoạt động của cướp biển và người La Mã, Tu viện hoàn toàn bị bỏ hoang. Tu viện được xây dựng lại vào thế kỷ 16, sau đó lại bị cướp biển phá hủy.
Tu viện được xây dựng lại sau đó 16 bởi các vị cai trị người Moldavian.
Tu viện bị dần tài sản vào thời kỳ thời kỳ người Ottoman cai trị (kéo dài đến năm 1830, khi người Hy Lạp giành lại độc lập).
Tu viện đứng thứ 11 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong. Nhà thờ chính của Tu viện nằm chính giữa sân trong, được xây dựng vào năm 1548- 1536 theo phong cách của các nhà thờ tại Athos. Các bức tranh tường trong Nhà thờ được thêm vào năm 1716, 1763. Tháp phòng thủ nằm tại phía tây sân trong.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn nho với cơ sở sản xuất rượu vang nổi tiếng.
Ngày nay, Tu viện là một cộng đồng với 50 tu sĩ.
Tu viện Karakallou có một bộ sưu tập rất nhiều lễ phục, các di vật, biểu tượng và Thánh tích.
Thư viện của Tu viện chứa khoảng 330 bản thảo, trong đó có 42 bản trên giấy da và khoảng 3.000 cuốn sách in.

Tổng mặt bằng Tu viện Karakallou, Núi Athos, Hy Lạp

Phối cảnh Tu viện Karakallou, Núi Athos, Hy Lạp

Sân trong Tu viện Karakallou, Núi Athos, Hy Lạp
Tu viện Megisti Lavra
Tu viện Megisti Lavra (Megisti Lavra/ Great Lavra Monastery) nằm trên một gò núi phẳng, ở độ cao 160m so với mực nước biển.. Ba mặt bắc, tây và nam là núi; mặt phía đông là biển.
Tới Tu viện, có 2 tuyến đường bộ tại phía bắc, nam và từ biển tại phía đông. Cổng chính vào Tu viện từ bốn phía.
Tu viện Great Lavra là tu viện đầu tiên được xây dựng trên núi Athos,vào năm 963, đánh dấu sự khởi đầu của đời sống tu viện có tổ chức tại Núi Athos. Lịch sử của Tu viện là đầy đủ nhất so với lịch sử của các tu viện khác, bởi vì các tài liệu lưu trữ lịch sử của nó được bảo quản gần như nguyên vẹn. Việc nghiên cứu các tài liệu lưu trữ tại đây có thể góp phần hoàn thiện kiến thức về lịch sử của các tu viện khác, những nơi có tài liệu lưu trữ đã bị thất lạc một phần hoặc toàn bộ.
Tu viện được thành lập bởi Athanasius the Athonite (người Byzantine khoảng năm 920 – 1003), được coi là người sáng lập cộng đồng tu viện trên Núi Athos; mà từ đó đã phát triển thành trung tâm lớn nhất của chủ nghĩa tu viện Chính thống phương Đông.
Tu viện được xây dựng với sự trợ giúp của Hoàng đế Byzantine Nikephoros II Phokas (trị vì năm 963- 969). Các Hoàng đế Byzantine tiếp theo cũng ban cho Tu viện Lavra nhiều vùng đất tài sản khác bao gồm đảo Saint Eustratius và Tu viện của Saint Andreas ở Thessaloniki.
Trong thế kỷ 11, tại Tu viện có tới 700 tu sĩ. Vào thế kỷ 14, Tu viện cũng phải chịu các cuộc tấn công từ cướp biển như tất cả các tu viện khác trên núi Athos.
Vào cuối thế kỷ 15, Tu viện thuộc người Hy Lạp.
Tu viện đứng thứ 1 trong hệ thống phân cấp các tu viện tại Thánh địa Athos.
Tu viện hiện tại là một quần thể các công trình nhà khách, nhà ăn và nhà nguyện của các tu sĩ, bao quanh một sân trong rộng. Nhà thờ chính của Tu viện nằm chính giữa sân trong.
Xung quanh Tu viện có cụm công trình phụ trợ, tu viện nhỏ, các mảnh vườn (và cả một sân đỗ trực thăng).
Phong cách của Tu viện sau này được các tu viện khác sao chép.
Các bức bích họa trong nội thất Tu viện được thực hiện vào năm 1535 bởi họa sĩ vĩ đại Theophanis.
Phía bắc của Sảnh hiên (narthex), có phòng nguyện mang tên Bốn mươi Tử đạo Sebaste, trong đó có mộ của của Thánh Athanasius. Đối diện với lối vào trung tâm có hình dạng của một cây thánh giá và là lớn nhất trên Núi Athos.
Tu viện lưu giữ nhiều thánh tích và có tới 2.500 biểu tượng bao gồm toàn bộ lịch sử văn hóa của thiên niên kỷ thứ hai.
Thư viện của tu viện nằm phía sau nhà thờ chính, chứa 2.116 bản viết tay tiếng Hy Lạp, còn có hơn 20.000 cuốn sách được in và khoảng 100 bản thảo bằng các ngôn ngữ khác. Bộ sưu tập là một trong những bộ sưu tập bản thảo Hy Lạp phong phú nhất trên thế giới.

Tổng mặt bằng Tu viện Great Lavra, Núi Athos, Hy Lạp

Sân trong Tu viện Great Lavra, Núi Athos, Hy Lạp

Bức bích họa Chúa Jesus của họa sĩ Frangos Catellanos, tại Tu viện Great Lavra, Núi Athos, Hy Lạp
Tự nhiên tại Núi Athos
Núi Athos là khu vực núi cao và khó tiếp cận, có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo. Sự tương tác hài hòa giữa các phương thức canh tác truyền thống và lâm nghiệp, cùng với việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc của tu viện trong suốt nhiều thế kỷ, đã bảo tồn tuyệt vời các khu rừng Địa Trung Hải và hệ thực vật Núi Athos.
Khí hậu của khu vực bán đảo Athos thuộc vùng Địa Trung Hải, với mùa đông ôn hòa và mùa hè mát mẻ. Lượng mưa dao động từ 600 đến 800 mm, trên đỉnh núi hơn 1.000 mm.
Thực vật núi Athos
Phần lớn thảm thực vật (Flora) Núi Athos được bao phủ bởi rừng hỗn hợp lá rộng. Rừng thông đen (Pinus nigra) được tìm thấy ở độ cao hơn. Thảm thực vật cũng được tìm thấy trên khắp Núi Athos. Các loại cây rừng điển hình là dẻ ngọt (Castanea sativa), sồi Holm (Quercus ilex), sồi Hungary (Quercus frainetto), tiêu huyền phuong đông (Platanus orientalis ), thông đen (Pinus nigra), tuyết tùng (Calocedrus decurrens).
Các loài thực vật phổ biến khác bao gồm bìm bịp (Arbutus unedo), bách (Cupressus sempervirens), nguyệt quế (Laurus nobilis), đậu lăng (Pistacia lentiscus), phillyrea (Phillyrea latifolia), ô liu dại (Olea europea) và thạch nam ( Erica spp.). Núi Athos cũng là nơi sinh sống của 350 loài nấm.
Động vật núi Athos
Động vật có vú bao gồm: Sói xám (Canis lupus), lợn rừng (Sus scrofa), cáo đỏ (Vulpes vulpes), chó rừng (Canis aureus), lửng châu Âu (Meles meles), chồn sồi (Beech marten/Martes foina), chồn Ecmin (Mustela erminea), chồn hương (Mustela nivalis vulgaris), nhím châu Âu (Erinaceus concolor), chuột chù (Crocidura spp.), và Hải cẩu thầy tu Địa Trung Hải (Monachus monachus).
Các loài chim bao gồm: Cò đen (Ciconia nigra), đại bàng lông ngắn (Circaetus gallicus), đại bàng vàng (Aquila chrysaetos), chim cắt nhỏ (Falco naumanni), chim Capercaillie (Tetrao urogallus), cú đại bàng (Bubo bubo), chim Yelkouan shearwater (Puffinus yelkouan), và mòng biển Audouin (Larus audouinii).
Di sản Núi thánh Athos, Hy Lạp có một ảnh hưởng rộng lớn, trở thành một địa điểm hành hương "Ngôi nhà của Chúa và Cổng thiên đàng"; "Nơi ẩn náu của mọi đức tính", thu hút được nhiều tín đồ Cơ đốc giáo. Trường phái hội họa Núi Athos đã ảnh hưởng đến lịch sử nghệ thuật Chính thống giáo (Orthodox art). Đây cũng là nơi du khách chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ và hoang dã của cảnh quan.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/454/
https://en.wikipedia.org/wiki/Greece
https://en.wikipedia.org/wiki/Eastern_Orthodoxy
https://en.wikipedia.org/wiki/Athanasius_of_Alexandria
https://en.wikipedia.org/wiki/Mount_Athos
https://en.wikipedia.org/wiki/Monastic_community_of_Mount_Athos
https://sites.google.com/site/mepnevmaelliniko/athostoagionoros?tmpl=%2Fsystem
%2Fapp%2Ftemplates%2Fprint%2F&showPrintDialog=1
https://en.wikipedia.org/wiki/Zograf_Monastery
https://orthodoxwiki.org/Zographou_Monastery_(Athos)
https://en.wikipedia.org/wiki/Konstamonitou_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Docheiariou
https://en.wikipedia.org/wiki/Xenophontos_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/St._Panteleimon_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Xeropotamou_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Simonopetra
https://en.wikipedia.org/wiki/Gregoriou_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Dionysiou_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Agiou_Pavlou_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Hilandar
https://en.wikipedia.org/wiki/Esphigmenou
https://en.wikipedia.org/wiki/Vatopedi
https://en.wikipedia.org/wiki/Pantokratoros_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Stavronikita
https://en.wikipedia.org/wiki/Koutloumousiou_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Monastery_of_Iviron
https://en.wikipedia.org/wiki/Philotheou_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Karakallou_Monastery
https://en.wikipedia.org/wiki/Great_Lavra
https://en.wikipedia.org/wiki/Karyes,_Mount_Athos
https://en.wikipedia.org/wiki/Manuel_Panselinos
https://www.monastiriaka.gr/en/holy-monastery-of-pantokratoros--w-77842.html
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|