Thông tin chung:
Công trình: Hang động Elephanta (Elephanta Caves)
Địa điểm: Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ (N18 58 0,012 E72 56 8,988)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm hình thành: Thế kỷ 4- 6 sau Công nguyên
Giá trị: Di sản thế giới (1987); hạng mục i ; iii
Ấn Độ (India) là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích 3.287.263 km3 (đứng thứ 7 trên thế giới); dân số khoảng 1324 triệu người (năm 2016). Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương tại phía Nam, biển Ả Rập phía Tây Nam, vịnh Bengal phía Đông Nam, giáp Pakistan ở phía Tây; với Trung Quốc, Nepal, Bhutan ở phía Đông Bắc; Myanmar và Bangladesh ở phía Đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilisation) thời Cổ đại, có các tuyến đường buôn bán mang tính lịch sử cùng với những đế quốc rộng lớn, giàu có về thương mại và văn hóa.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), tại đây đã xuất hiện các đô thị lớn với số dân hàng vạn người, được quy hoạch với hệ thống thoát nước, cấp nước phức tạp, nhà gạch nung, các kỹ thuật mới trong hoạt động thủ công mỹ nghệ và luyện kim…
Sự phân tầng xã hội, dựa trên đẳng cấp, xuất hiện trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Sự tập quyền chính trị sớm nhất diễn ra dưới thời Đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 322 - 187 TCN); Đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại trong giai đoạn 187- 78 TCN) và Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 319 đến 550 sau Công nguyên).
Các vương quốc trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 3 TCN đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên tại Tiểu lục địa Ấn Độ (Middle kingdoms of India) có ảnh hưởng to lớn đến nền văn hóa của khu vực xung quanh, lan truyền đến tận Đông Nam Á.
Đây cũng là nơi bắt nguồn của 4 tôn giáo nội sinh lớn:
Ấn Độ giáo (Hinduism) là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, xuất phát từ khu vực Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), là sự hợp nhất hay đồng bộ hóa các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và không có người sáng lập; hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, sau khi kết thúc thời kỳ Vệ Đà (Vedic period, năm 1500 – 500 TCN), phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ giáo bao gồm các nhóm tôn giáo khác biệt nhau về triết lý, song được liên kết bởi các khái niệm chung, các nghi thức, vũ trụ học, tài nguyên văn bản Hindu (luận về thần học, triết lý, thần thoại, kinh Vệ Đà, Yoga, nghi lễ, cách thức xây dựng đền thờ) và tập tục hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Bốn giáo phái lớn nhất của Ấn Độ giáo là Vaishnavism, Shaivism, Shaktism và Smartism.
Phật giáo (Buddhism) do Đức Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama/ Tất đạt đa Cồ đàm, năm 624 TCN – 534 TCN) sáng lập. Sau này, Phật giáo phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa); Phật giáo Đại thừa (Bắc tông, Đại chúng); Phật giáo Chân ngôn (Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa).
Jaina giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo lâu đời trên thế giới, do Đức Mahavir (năm 599 trước TCN – 527 TCN) sáng lập ra tại Bắc Ấn Độ, gần như là cùng thời với Phật giáo, với triết lý và phương thức thực hành dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn.
Sikh giáo (Sikhism) do Đức Guru Nanak (năm 1469 - 1539) sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, giữa Pakistan và Ấn Độ.
Ngoài ra, tại đây còn xuất hiện các tôn giáo ngoại nhập như: Do Thái giáo (Judaism), Bái Hỏa giáo (là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islamic). Các tôn giáo này được truyền đến Ấn Độ vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, bổ sung vào văn hóa đa dạng của khu vực.
Vào thời Trung cổ, phần lớn miền Bắc Ấn Độ thuộc Vương quốc Hồi giáo Delhi (Delhi Sultanate), kéo dài trong khoảng 320 năm (1206- 1526). Trong giai đoạn này, sự kết hợp giữa văn minh Ấn Độ với văn minh Hồi giáo, sự hội nhập giữa tiểu lục địa Ấn Độ với vùng lục địa Phi – Á – Âu (Afro-Eurasia) đã có một tác động to lớn lên văn hóa và xã hội Ấn Độ. Khi Delhi thành thủ đô Hồi giáo vào năm 1193, tại đây đã hình thành được nền kiến trúc Hồi giáo - Ấn Độ (Indo-Islamic architecture, nguồn gốc từ Iran), đạt được sự tăng trưởng dân số và kinh tế cùng với việc xuất hiện ngôn ngữ Hindi-Urdu (Hindustani language). Vương quốc Hồi giáo Delhi cũng có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi các cuộc xâm lăng của Đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ 13, 14.
Vào thời Trung cổ, miền Nam Ấn Độ phân thành nhiều vương quốc nhỏ, ví dụ như :
Vương quốc Vijayanagara (Vijayanagara Empire): nằm trên Cao nguyên Deccan (Deccan Plateau), miền nam Ấn Độ, kinh đô là thành phố Vijayanagara (bang Karnataka hiện tại). Triều đại này được thành lập năm 1336, kéo dài đến năm 1646. Vijayanagara đã trở thành một thành trì của Ấn Độ giáo trong giai đoạn người Hồi giáo làm bá chủ ở miền bắc Ấn Độ, nổi tiếng vì bảo trợ cho việc học chữ Phạn. Đây là vương quốc giàu có nhờ buôn bán gia vị và sản xuất hàng dệt vải bông.
Vương quốc Đông Ganga (Eastern Ganga dynasty): thuộc vùng Kalinga (bao gồm cả bang Odisha hiện tại) là khu vực ven biển phía Đông, giữa sông Mahanadi và sông Godavari với kinh đô là Dantapura, sau đó được chuyển đến Kalinganagara (Mukhalingam) và cuối cùng đến Kataka (Cuttack). Triều đại này tồn tại vào thế kỷ 11- đầu thế kỷ 15, được đánh giá là vương triều bảo trợ tuyệt vời cho tôn giáo và nghệ thuật. Nhiều ngôi đền của thời kỳ Đông Ganga được xếp hạng là những kiệt tác của kiến trúc Ấn Độ giáo. Người cai trị đáng chú ý của triều đại Đông Ganga là vua Narasingha Deva I, giai đoạn năm 1238-1264. Ông là một chiến binh mạnh mẽ, đã tổ chức đánh bại nhiều đợt tấn công của Vương quốc Hồi giáo Delhi và thậm chí còn truy đuổi kẻ thù. Vua Narasingha Deva I cho xây dựng Đền Mặt trời tại Konark để kỷ niệm những chiến thắng của mình đối với người Hồi giáo và nhiều ngôi đền, pháo đài khác.
Vào thế kỷ 16, Đế quốc Mughal (Mughal Empire, năm 1526 – 1857) hình thành, chinh phục các vương quốc nhỏ, mở rộng lãnh thổ ra gần như toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần của Afghanistan với số dân vào giai đoạn cực thịnh lên đến 150 triệu người. Đế quốc Mughal đạt đến đỉnh cao vinh quang trong triều đại của Shah Jahan (trị vì năm 1628 đến 1658) và ông được coi là một trong những hoàng đế Mughal vĩ đại nhất. Trong giai đoạn này, kiến trúc Mughal đạt đến đỉnh cao với các công trinh nổi tiếng như: Taj Mahal và Moti Masjid tại Agra, Pháo đài Đỏ (Red Fort), Jama Masjid, Delhi và Pháo đài Lahore (Lahore Fort).
Tiểu lục địa Ấn Độ dần bị Anh thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh từ giữa thế kỷ 19.
Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947, sau cuộc đấu tranh giành độc lập do Mahatma Gandhi (năm 1869 – 1948) lãnh đạo.
Ngày nay, Ấn Độ là một liên bang bao gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ thuộc liên bang. Dưới bang là các đơn vị hành chính: quận (huyện, khu); phân khu và làng xã.
Maharashtra là một bang ở bán đảo phía tây Ấn Độ, chiếm một phần đáng kể của Cao nguyên Deccan. Bang được chia thành 6 đơn vị và 36 quận với thủ phủ của bang là thành phố Mumbai. Thành phố là nơi có ba Di sản Thế giới được UNESCO công nhận: Hang động Elephanta (Elephanta Caves); Ga Chhatrapati Shivaji (Chhatrapati Shivaji Terminus) và Quần thể tòa nhà Victoria và Art Deco tại Mumbai (Victorian and Art Deco Ensemble of Mumbai).
Bản đồ Ấn Độ và vị trí thành phố Mumbai
Quần thể di tích Hang động Elephanta (Elephanta Caves) nằm trên Đảo Elephanta, nằm cách phía đông Cảng Mumbai khoảng 10km và cách phía tây Cảng Jawaharlal Nehru khoảng 2 km.
Đảo có diện tích khoảng 10 km2 khi thủy triều lên và khoảng 16 km2 khi thủy triều xuống. Rìa đảo có 3 ngôi làng nhỏ : Set Bunder ở phía tây bắc, Mora Bunder ở phía đông bắc và Gharapuri (Raj Bunder) ở phía nam.
Đảo có chiều dài 2,4 km với hai ngọn núi độ cao trung bình khoảng 150 m, cao nhất 173m, so với mực nước biển. Ngăn cách giữa hai ngọn núi là một khe núi hẹp và sâu, chạy từ bắc xuống nam.
Đảo Elephanta tuy nhỏ song có vô số di tích khảo cổ cổ đại nằm rải rác, là bằng chứng duy nhất cho quá khứ văn hóa phong phú của nó. Đây là hòn đảo có người định cư vào thế kỷ 2 TCN. Ban đầu, địa điểm này có các tu sĩ Phật giáo Tiểu thừa tu luyện. Sau này, các tu sĩ Hindu giáo đến lập đền thờ.
Các di tích đền, chùa hang tạc vào đá tại đây được cho rằng xây dựng từ thế kỷ 4 – 6 sau Công nguyên, trong thời đại của Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại năm 319 – 550 sau Công nguyên).
Thời kỳ Gupta được coi là thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật cổ điển Bắc Ấn Độ. Mặc dù hội họa đã phổ biến, nhưng các tác phẩm nghệ thuật còn sót lại hầu như là điêu khắc tôn giáo.
Thời kỳ này chứng kiến sự xuất hiện các vị thần tạc vào đá mang tính biểu tượng trong nghệ thuật Ấn Độ giáo, Phật giáo và Jaina giáo. Các di tích nổi tiếng nhất còn lại theo phong cách Gupta là các hang động tại Ajanta (Chùa hang Ajanta tại Aurangabad, bang Maharashtra, Ấn Độ) ; Ellora (Quần thể đền chùa hang Ellora tại Aurangabad, bang Maharashtra, Ấn Độ) và Elephanta (Quần thể đền hang Elephanta, tại Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ). Cả 3 địa điểm này đều trở thành Di sản thế giới do UNESCO công nhận.
Vào thế kỷ thứ 6, Elephanta trở nên nổi tiếng trong khu vực với tên gọi Gharapuri, nghĩa là ‘’Ngôi làng của các hang động’’. Tên này vẫn được sử dụng trong ngôn ngữ Marathi địa phương.
Vào năm 1534, vùng đất này bị chuyển nhượng lại cho các thương gia Bồ Đào Nha. Người Bồ Đào Nha đặt tên đảo là "Đảo Elephanta", bởi bức tượng voi bằng đá đẽo khổng lồ nằm tại rìa đảo. Họ dùng bức tượng như điểm mốc để cập tàu, thuyền và phân biệt đảo với các hòn đảo khác gần Mumbai. Vào năm 1864, Bức tượng voi đã bị hư hại khi dự kiến di dời đến Anh, được lắp ráp lại vào năm 1914 và hiện đang nằm tại Công viên Jijamata Udyaan ở thành phố Mumbai.
Di tích Đền chùa hang tạc vào trong đá trên Đảo Elephanta bị hủy hoại chủ yếu vào thời kỳ người Bồ Đào Nha chiếm giữ đảo. Năm 1661, người Bồ Đào Nha nhượng lại đảo cho người Anh. Trong thời kỳ thuộc địa Anh, cùng với việc phát triển thành phố cảng Bombay (Mumbai), các đền, chùa hang tại Elephanta tái xuất hiện như một trung tâm thờ cúng của người Hindu giáo.
Tượng voi đá Elephanta, bị vỡ khi người Anh cố gắng chuyển đến Anh vào năm 1864. Các mảnh ghép hiện nằm tại Công viên Jijamata Udyaan, thành phố Mumbai, Ấn Độ
Các di tích đền, chùa hang tại đảo Elephanta bố trí bao quanh hai ngọn núi đá : Núi phía tây Đảo Elephanta, còn gọi là Núi Pháo (Canon Hill): Có 5 đền hang Hindu giáo, loại đền hang cắt vào đá (ký hiệu từ Cave 1- 5). Núi phía đông Đảo Elephanta còn gọi là Núi Tháp (Stupa Hill) : Có 2 chùa hang Phật giáo, loại chùa hang cắt vào đá (ký hiệu Cave 6, 7), bể chứa nước và 1 bảo tháp bằng gạch.
Những di tích khảo cổ này là minh chứng về sự cư trú của con người trên đảo từ đầu thế kỷ thứ 2 TCN, trong đó có một số di tích bằng đá được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 4 - 6 sau Công nguyên.
Quan trọng nhất trong số các di tích tại đây là Hang chính (Great Cave/ Grand Cave) được đánh số 1 (Cave 1) với chiều dài đến 39m. Đây là đền hang Hindu giáo, thờ thần Shiva. Đền hang cắt vào trong đá này có bố cục gần giống với đền hang Hindu giáo Dumar Lena tại Ellora, Ấn Độ (Hang Cave 29/ Dhumar Lena Cave, tại Quần thể đền chùa hang Ellora, Khulatabad Taluk, quận Aurangabad, bang Maharashtra, Di sản thế giới năm 1983).
Bên trong sảnh chính vào Đền hang 1 có một kiệt tác điêu khắc mang tên Trimurti còn gọi là Sadashiva (Đấng tối cao) cao tới 7m, mô tả hình tượng thần Shiva 3 đầu, thể hiện 3 đặc điểm của thần Shiva: Đấng sáng tạo, Người bảo vệ và Kẻ hủy diệt, tương ứng với thần Aghora hoặc Bhairava (bên trái), Taptapurusha hoặc Mahadeva (chính giữa) và Vamadeva hoặc Uma (bên phải). Xung quanh là các vị thần khác như Nataraja, Yogishvara, Andhakasuravadha, Ardhanarishwara, Kalyanasundaramurti, Gangadharamurti và Ravanaanugrahamurti với sự thu hút về hình thức, kích thước, chủ đề, hình ảnh đại diện, nội dung, sự liên kết và cách thức thực hiện.
Các di tích đền, chùa hang tại đảo Elephanta là một trong những công trình quan trọng về Kiến trúc cắt vào đá tại Ấn Độ (Rock-cut rchitecture).
Kiến trúc cắt vào đá là hoạt động tạo ra một công trình kiến trúc bằng cách chạm khắc vào khối đá tự nhiên rắn chắc. Kiến trúc cắt vào đá của Ấn Độ rất đa dạng và phong phú hơn bất kỳ hình thức kiến trúc cắt vào đá nào trên thế giới, chủ yếu mang tính chất tôn giáo. Có hơn 1.500 cấu trúc cắt vào đá được biết đến ở Ấn Độ, trong đó chứa các tác phẩm nghệ thuật với tầm quan trọng toàn cầu và hầu hết được trang trí bằng những bức chạm khắc đá tinh xảo.
Kiến trúc cắt vào đá lâu đời nhất tại Ấn Độ có từ thế kỷ thứ 3 TCN. Chúng được thực hiện trong thời kỳ giao thương hàng hóa bùng nổ giữa Đế chế La Mã và Đông Nam Á qua Ấn Độ. Kiến trúc cắt đá (chùa hang) không chỉ được tạo ra bởi tu sĩ Phật giáo, mà còn được tạo ra bởi các vị vua Hindu giáo dành riêng cho những vị thần Hindu giáo (đền hang). Vào thế kỷ thứ 5, những ngôi chùa, đền hang dần nhường chỗ cho các ngôi chùa, đền với cấu trúc độc lập, song vẫn còn được xây dựng tiếp tục cho đến thế kỷ 12.
Phối cảnh tổng thể đảo Elephanta, Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ
Quần thể di tích Hang động Elephanta, Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1987) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Mười lăm bức phù điêu lớn xung quanh Điện thờ trong Đền hang chính Elephanta là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người, không chỉ là một trong những ví dụ vĩ đại nhất của nghệ thuật Ấn Độ mà còn là một trong những bộ sưu tập quan trọng nhất đối với sự sùng bái thần Shiva.
Tiêu chí (iii): Các đền, chùa hang Elephanta là thành tựu tráng lệ nhất trong lịch sử kiến trúc cắt vào đá ở miền Tây Ấn Độ. Bức tượng Trimurti Sadashiva (thần Shiva ba mặt) và các tác phẩm điêu khắc khổng lồ khác, cùng với khung cảnh thẩm mỹ của chúng, là những ví dụ sáng tạo nghệ thuật độc đáo, một bằng chứng đặc biệt về một truyền thống văn hóa.
Sơ đồ phạm vi Di sản Quần thể di tích Hang động Elephanta, Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ
Sơ đồ vị trí di tích chính tại Đảo Elephanta, Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ
Các di tích hang động Elephanta chứa các tác phẩm điêu khắc cắt vào trong đá bazan rắn, thể hiện sự đồng bộ ý tưởng và hình tượng của Hindu giáo (Ấn Độ giáo) và Phật giáo. Tại đây không không có đền thờ Jain giáo như các quần thể hang động tại các nơi khác trong đất liền.
Phần lớn tác phẩm nghệ thuật đã bị hư hỏng. Nhiều tác phẩm nghệ thuật tại Quần thể đền, chùa hang Elephanta bị đánh cắp và một số hiện được lưu giữ tại các viện bảo tàng lớn trên khắp Ấn Độ.
Bức tượng thần Brahma làm bằng đá bazan có niên đại vào thế kỷ thứ 6, tìm thấy trong hang động Elephanta, Maharashtra ; được trưng bày tại Bảo tàng Prince of Wales, Mumbai, Ấn Độ
Các di tích trong Khu vực Di sản tập trung tại hai địa điểm : Núi phía tây Đảo Elephanta, còn gọi là Núi Pháo (Canon Hill) và Núi phía đông Đảo Elephanta, còn gọi là Núi Tháp (Stupa Hill).
Nhóm di tích tại Núi phía Tây
Ngọn núi phía tây, còn gọi là Núi Pháo (Canon Hill), được đặt theo tên của những khẩu pháo, nơi tiền đồn của thành phố Mumbai chống lại cướp biển và nạn ngoại xâm.
Tại đây có 5 đền hang Hindu giáo, được cắt vào đá, ký hiệu từ Đền hang 1 – 5 (Cave 1- 5).
Các ngôi đền hang chủ yếu thờ thần Shiva, liên quan đến những truyền thuyết và thần học của giáo phái Shaivism và cũng thể hiện một cách tôn kính 3 giáo phái Hindu giáo còn lại khác là Vaishnavism, Shaktism và Smartism.
Hướng của các ngôi đền hang Hindu giáo được đặt theo hình tượng biểu thị vũ trụ (Mandala) của Hindu giáo : Đền thờ hướng về phía đông ; Điện chính thờ linh vật Shiva Lingam nằm tại phía tây ; Đền thờ Sadashiva (Đấng tối cao) với Điện thờ Mukhalingam (Biểu tượng Linga gắn với khuôn mặt Shiva) nằm tại phía nam.
Kiến trúc của các ngôi đền hang Hinhdu giáo trong Quần thể Di sản, tương tự như các ngôi đền Hindu khác, được thiết kế nhằm liên kết giữa con người và thần linh, phản ánh tổng hợp về nghệ thuật, đức tin, giá trị và lối sống trong Ấn Độ giáo. Tất cả các yếu tố do vũ trụ tạo ra và tôn vinh cuộc sống trong Ấn Độ giáo đều có mặt trong một ngôi đền Hindu, từ lửa đến nước, từ hình ảnh của thiên nhiên đến các vị thần, từ nữ tính đến nam tính, từ mong muốn (Kama) đến phương tiện của cuộc sống (Artha, là một trong bốn mục tiêu của cuộc sống con người: Sự nghiệp, Kỹ năng, Sức khỏe, Sự thịnh vượng và Phương tiện để hoàn thành cuộc sống)…
Các di tích tại Quần thể hang động Elephanta xuất hiện từ một truyền thống nghệ thuật kiến trúc cắt vào đá lâu đời, nhưng thể hiện sự mới mẻ. Đó là sự kết hợp giữa vẻ đẹp thẩm mỹ, nghệ thuật điêu khắc, tín ngưỡng tâm linh và sự tham gia của các biểu tượng sắc thái (Rasas). Tín ngưỡng tâm linh và biểu tượng sắc thái của người Ấn Độ được sử dụng tinh vi trong cấu trúc đền chùa hang tại đây, thể hiện qua 9 biểu tượng sắc thái với vị thần và màu sắc kèm theo :
1) Śṛṅgāraḥ : Lãng mạn, Tình yêu, sự hấp dẫn. Vị thần chủ trì: Vishnu. Màu sắc: xanh nhạt ;
2) Hāsyam : Tiếng cười, sự phản chiếu, hài kịch. Vị thần chủ trì: Shiva. Màu sắc: trắng;
3) Raudram: Tức giận, nộ khí. Vị thần chủ trì: Shiva. Màu sắc : đỏ;
4) Kāruṇyam: Từ bi, thương xót. Vị thần chủ trì: Yama. Màu sắc: xám;
5) Bībhatsam: Kinh tởm, chán ghét. Vị thần chủ trì: Shiva. Màu sắc: xanh lam;
6) Bhayānakam: Kinh hoàng, khiếp sợ. Vị thần chủ trì: Yama. Màu sắc : đen;
7) Veeram: Chủ nghĩa anh hùng. Vị thần chủ trì: Indra. Màu sắc: da cam;
8) Adbhutam: Kinh ngạc, ngạc nhiên. Vị thần chủ trì: Brahma. Màu sắc: vàng;
9) Śāntam : Hòa bình hay tĩnh lặng. Vị thần chủ trì: Vishnu. Màu sắc: trắng kim cương (perpetual white).
Biểu thị vũ trụ (Mandala) của Hindu giáo, cơ sở để bố trí các đền hang tại Quần thể di tích Hang động Elephanta, Ấn Độ
Các di tích tại đây là một bằng chứng kỹ vĩ về sức lao động của con người. Nhiều người trong thế hệ sau còn cho rằng : Các di tích tại đây là do thế lực ngoài hành tinh xây dựng.
Đền hang chính- Đền hang 1
Đền hang chính (Great Cave/ Grand Cave) được đánh số là Đền hang 1 (Cave 1), nằm trên sườn đồi.
Từ chân núi lên Đền hang phải đi bộ qua đường bậc thang.
Đền hang 1 được cho là có bố cục theo một tu viện Phật giáo cổ đại, bao gồm một đền chính hình vuông bao quanh là các đền nhỏ, được xây dựng từ khoảng năm 500 - 600.
Đền hang thờ Thần Shiva, theo giáo phái Shaivism.
Một số đền, chùa hang tạc vào trong đá vào thời kỳ này còn phô diễn cả phần mái của đền (được tạo thành do tạc vào đá). Song Đền hang 1 (Cave 1) chỉ phô diễn mặt trước.
Sơ đồ mặt bằng Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Đền hang 1 bố cục theo hướng đông tây, có 3 lối vào từ hướng bắc, đông và tây. Hướng nam là vách núi.
Lối vào Đền hang 1 từ phía đông : Là lối vào chính, song nhỏ hơn so với với Lối vào từ phía bắc. Từ đây dẫn vào không gian phía trước hàng hiên. Hàng hiên có 2 cột và 2 trụ đỡ trần hang. Kề liền là hàng hiên của một đền hang phụ
Lối vào từ phía đông Đền hang 1 (bên phải ảnh); kề liền là hàng hiên của hang phụ (bên trái ảnh); Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Lối vào Đền hang 1 từ phía tây : Có quy mô tương tự như Lối vào từ phía đông với hàng hiên với 2 cột và 2 trụ đỡ trần hang.
Lối vào từ phía tây Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Lối vào Đền hang 1 từ phía bắc : Lớn hơn so với Lối vào chính từ hướng đông, tạo thành một sảnh hiên với 2 hàng cột, mỗi hàng có 2 cột. Hai bên của Sảnh hiên có các hốc tường với tượng thờ: Nataraja (Dancing Shiva, thần Shiva khiêu vũ, ký hiệu 8) và Yogishvara (Lord of Yogis, Chúa tể Yogis, ký hiệu 9).
Lối vào từ phía bắc Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bức phù điêu Nataraja (Thần Shiva khiêu vũ), Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bức phù điêu Yogishvara (Chúa tể Yogis, Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Trung tâm của Đền hang 1 là Bái đường (Garbhagriha) tạc vào trong lòng núi, có mặt bằng hình chữ nhật, kích thước khoảng 39m x 17m. Đỡ trần hang có 3 hàng cột, mỗi hàng có 8 cột và trụ tường. Bái đường đặt trên một bệ nền cao so với mặt sân bên ngoài hang.
Cột trong đền hang được tạc có hình dạng tượng tự như cột trong các đền, chùa hang thời bấy giờ: Theo chiều cao, cột được phân thành 4 đoạn: Bệ cột có tiết diện hình vuông, trang trí một phần phía trên, cao đến một nửa chiều cao cột; Thân cột rất ngắn, có tiết diện hình hình tròn; Đầu cột là khối cầu với các gờ trang trí; Tấm đỉnh cột đỡ trần hang là một khối có tiết diện chữ nhật.
Mỗi bức tường trong Đền hang 1 đều có những bức chạm khắc lớn về các truyền thuyết liên quan đến thần Shiva. Đây là các bức chạm khắc đẹp, gợi cảm và đầy sức mạnh của cảm xúc, thể hiện rõ trên khuôn mặt của các vị thần và nữ thần.
Bên trong Bái đường Đền hang 1 với hệ thống cột đỡ trần hang, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Phía đông của Bái đường có 2 bức phù điêu: Ravana lifting Kailash (ký hiệu 1) và Shiva-Parvati on Kailash (Gambling Scene, ký hiệu 2). Các bức phù điêu đều đã bị hư hại nặng.
Phía tây của Bái đường có 2 bức phù điêu: Wedding of Shiva (Kalyanasundara, Đám cưới của thần Shiva và Parvati, ký hiệu 6) ; Shiva slaying Andhaka (thần Shiva giết quỷ Andhaka, ký hiệu 7).
Bức phù điêu thần Shiva và thần Parvati trên núi Kailash, Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bức phù điêu Đám cưới của thần Shiva và thần Parvati, Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bức phù điêu thần Shiva giết quỷ Andhaka, Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Điện thờ Linga (Garbhagriha/ Thánh địa) nằm về phía tây của Bái đường, có mặt bằng hình vuông với 4 cửa ra vào, từ bốn phía. Bên trong đặt biểu tượng Hindu giáo Linga (Mulavigraha, ký hiệu 16). Mỗi cửa vào Điện thờ có hai vị thần (Dvarapala, chiến binh hoặc người khổng lồ), cầm vũ khí bảo vệ hai bên, với chiều cao khoảng 4,6m tới tận trần nhà. Biểu tượng Linga đặt giữa trung tâm của Điện thờ, trên một bệ đá.
Điện thờ Linga có 4 lối vào với hai vị thần canh gác hai bên, Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Xung quanh Đền hang chính có các hang thờ nhỏ :
Hang thờ tại phía đông Đền hang chính : Trước Hang thờ là một sân rộng 14,3m sâu 17,7m với một bệ hình tròn, là bệ đặt biểu tượng bò thần Nandi (tượng không còn). Trước Hang thờ có một hàng hiên được đỡ bởi 4 cột và 2 trụ. Tất cả các cột, trụ đều đã bị phá, chỉ còn lại bệ cột và đầu cột (gắn với trần hang). Các cột, trụ hiện tại là những cột, trụ được tái tạo lại. Trung tâm của Hang thờ là Điện thờ Linga. Tại phía tây của Hang có các hốc tường với các tượng thờ : Kartikeya (ký hiệu 10) ; Matrikas (ký hiệu 11) ; Ganesha (ký hiệu 12) và Dvarapala (ký hiệu 13). Đối xứng qua bên kia cũng có hốc tường, song các bức tượng thờ hiện đã không còn.
Điện thờ Linga tại Hang thờ phía đông của Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Hang thờ tại phía tây Đền hang chính : Công trình như chưa được hoàn thành. Bên trong có 2 cột lớn đỡ trần hang. Tại phía tây, ngay tại lối vào có hốc tường với hai bức tượng : Yogishvara (Lord of Yogis, ký hiệu 14) và Nataraja (Dancing Shiva, (ký hiệu 15), thể hiện nội dung tương tự như Lối vào Đền hang từ phía bắc.
Hang thờ tại tại phía nam Đền hang chính : Phía trước là hàng hiên, tiếp đến là điện thờ với 3 hốc thờ, mỗi hốc thờ có một bức phù điêu : Ardhanarishvara (Androgyne, ký hiệu 3); Trimurti (Eternal Shiva, Sadashiva, ký hiệu 4) ; Gangadhara (ký hiệu 5). Hai bên điện thờ có hai hang thờ nhỏ với một cửa hẹp ra vào.
Bức phù điêu Trimurti (Eternal Shiva, Đấng Shiva vĩnh hằng) còn gọi là Sadashiva (Đấng tối cao) nằm tại hốc tường chính giữa điện thờ được coi là một kiệt tác và tác phẩm điêu khắc quan trọng nhất trong nghệ thuật hang động. Bức phù điêu là một tác phẩm chạm khắc khổng lồ, cao tới 7m mô tả hình tượng thần Shiva 3 mặt, theo kiểu Mukhalinga (pancamukha linga, là môt dạng linga trừu tượng, kết hợp giữa biểu tượng linhga và mặt thần Shiva). 3 mặt tượng thể hiện bộ mặt của thần Tatpurusha (Mahadeva, chính giữa), Aghora (Bhairava bên trái ), Vamadeva (Uma bên phải).
Bức phù điêu Trimurti (thần Shiva 3 mặt), Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bức phù điêu Ardhanarisvara cao 5,11m, thể hiện hình tượng tổng hợp một nửa nam thần Shiva, một nửa nữ thần Parvati, mô tả khái niệm của Hindu giáo cổ đại về sự phụ thuộc lẫn nhau của các khía cạnh nữ tính và nam tính trong vũ trụ, trong quá trình sáng tạo, nuôi dưỡng và hủy diệt. Bức phù điêu thể hiện một nửa phụ nữ là thần Parvati ở bên phái với ngực, eo, mái tóc nữ tính và các vật dụng như gương ở phía trên. Nửa người đàn ông là thần Shiva với các đặc điểm hình thể nam tính và các vật phẩm mang tính biểu tượng của Shiva. Xung quanh bức tượng chính là phù điêu mô tả các vị nam thần, nữ thần và những con vật thần thoại với vòng hoa, âm nhạc và lễ vật ăn mừng.
Bức phù điêu Ardhanarisvara (nửa nam, thần Shiva và nửa nữ, thần Parvati), Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bức phù điêu Gangadhara rộng 4m, cao 5,2m, thể hiện hình tượng thần Shiva và nữ thần Parvati đang đứng. Thần Shiva mang Sông Hằng từ trên trời xuống để phục vụ con người. Sông Hằng được thể hiện thông qua biểu tượng một nữ thần với ba thân nhỏ ở trên cao. Cánh tay của thần Shiva mang biểu tượng hình con rắn cuộn. Nữ thần Parvati được tạc ở bên trái thần Shiva với trang phục có đầy đủ đồ trang sức. Xung quanh bức tượng là phù điêu miêu tả các vị thần, con vật thần thoại liên quan đến sự tích.
Bức phù điêu Gangadhara (thần Shiva mang sông Hằng xuống trái đất), Đền hang 1, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Đền hang 2 đến 5
Đền hang 2 đến 5 (Cave 2 – 5) nằm tại phía nam của Đền hang 1, được sắp xếp thành một hàng, nằm rìa ngọn núi, quay mặt về phía đông (chếch đông nam). Đền hang 2 (Elephanta Cave 2) vẫn chưa hoàn thành. Hang đặt trên một bệ cao, tiếp cận bởi một hàng bậc dài. Hàng hiên (Portico) phía trước có 4 cột đơn và 2 trụ tường. Phía trong là một điện thờ chính và ba hang nhỏ bao quanh.
Sơ đồ mặt bằng Đền hang 2, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Mặt trước Đền hang 2, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Đền hang 3 (Elephanta Cave 3) nằm cạnh Đền hang 2. Đây là đền hang ấn tượng sau Đền hang 1. Phía trước Đền hang 3 là một mái hiên rộng (Veranda) với 6 cột và 2 trụ đỡ trần hang. Phía bắc của Đền hang là một hang dài 26m, sâu 11m, cửa vào có 4 cột và 2 trụ. Bên trong hang có nhiều chạm khắc công phu, song hiện chỉ còn lại tàn tích. Phía tây của Đền hang là 3 hang nhỏ. Hang giữa đặt Điện thờ (Shrine), 2 hang (Cell) còn lại là cho các tu sĩ. Điện thờ là một hang được tạc vào trong đá sâu 6 m, rộng 5,7 m, Ban thờ thấp. Linh vật Linga bên trong không còn. Cửa Điện thờ có một số dấu vết của nghệ thuật điêu khắc.
Sơ đồ mặt bằng Đền hang 3, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Mặt trước Đền hang 3, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bên trong Đền hang 3, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Điện thờ Đền hang 3, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Tàn tích các bức phù điêu trang trí tại Đền hang 3, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Đền hang 4 (Elephanta Cave 4) hiện bị hư hỏng khá nặng. Các cột hàng hiên đỡ trần hang đã không còn. Bên trong Đền hang có 5 hang. Hang chính giữa là Điện thờ (Shrine) với linh vật Linga bên trong. Hai bên Điện thờ có 3 hang mỗi bên, dành cho tu sĩ và phòng nguyện.
Sơ đồ mặt bằng Đền hang 4, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Mặt trước Đền hang 4, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bên trong Đền hang 4, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Điện thờ Đền hang 4, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Đền hang 5 (Elephanta Cave 5) là một đền hang chưa tạc xong.
Lối vào Đền hang 5, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Bên trong Đền hang 5, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Nhóm di tích tại Núi phía Đông
Núi phía Đông còn gọi là Núi Tháp (Stupa Hill), nối với Ngọn núi phía tây (Núi Pháo/Canon Hill) bằng một con đường hẻm. Tại đây có 2 chùa hang Phật giáo cắt vào đá, ký hiệu Cave 6, 7 và 1 bảo tháp bằng gạch. Ngoài ra còn có một số bể chứa nước được trang trí công phu và một số di tích khác chưa được khám phá. Những người theo đạo Phật là những cư dân đầu tiên trên đảo. Họ đã tổ chức tạo dựng những chùa hang này.
Chùa hang 6 và 7
Chùa 6 và 7 (Cave 6 – 7) nằm cách phía đông bắc của Đền hang 1 và 2 khoảng 200m.
Chùa hang 6 (còn gọi là Chùa Sitabai) có Bái đường (Portico) với 4 cột và 2 trụ đỡ trần hang. Phía sau Bái đường có 3 hang. Hang giữa là Điện thờ (Shrine), 2 hang (Cell) còn lại là cho các nhà sư. Bái đường không có bất kỳ trang trí nào, ngoại trừ cửa vào của Điện thờ có hoa văn và phù điêu hình sư tử. Bên trong Điện thờ không có một trang trí nào. Khi Đảo Elephanta thuộc sự chiếm đóng của người Bồ Đào Nha (khoảng giữa năm 1534 và 1682), ngôi chùa bị chuyển đổi thành nhà thờ Thiên chúa giáo.
Sơ đồ mặt bằng Chùa hang 6, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Hình vẽ mặt trước Điện thờ, Chùa hang 6, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Chùa hang 7 nằm tại phía bắc của Chùa hang 6. Tại đây người ta đã tiến hành khai quật Bái đường với 3 hang bỏ hoang.
Bảo tháp cổ
Phía đông của Chùa hang 7 là một cái ao với những tảng đá đang tạc dở dang và một số bể chứa nước. Cạnh đó là tàn tích của một bảo tháp (Stupa) Phật giáo xây bằng gạch, có niên đại vào khoảng thế kỷ 2 TCN.
Tàn tích Bảo tháp gạch, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Tàn tích bể chứa nước, Quần thể Hang động Elephanta, Ấn Độ
Di sản Hang động Elephanta tại Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ là nơi chứa các tác phẩm điêu khắc cắt vào đá, thể hiện sự đồng bộ hóa các ý tưởng và hình tượng trong Hindu giáo và Phật giáo, là một trọng những bộ sưu tập quan trọng nhất đối với sự sùng bái thần Shiva, một bằng chứng đặc biệt về sức lao động của con người và một truyền thống văn hóa vĩ đại.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/244/
https://en.wikipedia.org/wiki/India
https://en.wikipedia.org/wiki/Colaba
https://en.wikipedia.org/wiki/Gujarat
https://en.wikipedia.org/wiki/Gupta_Empire
https://en.wikipedia.org/wiki/Elephanta_Caves
https://smarthistory.org/elephanta/
https://thereaderwiki.com/en/Elephanta_Caves
https://smarthistory.org/elephanta/
https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Elephanta_Cave_3
https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Elephanta_Cave_4
https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Elephanta_Cave_5
https://elephanta.co.in/elephanta-cave-6-and-cave-7
https://www.youtube.com/watch?v=uaHuJRrAB7Q
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|