Thông tin chung:
Công trình: Hang động Altamira và Nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ tại miền Bắc Tây Ban Nha (Cave of Altamira and Paleolithic Cave Art of Northern Spain)
Địa điểm: Santillana del Mar, Cộng đồng tự trị Cantabria, Spain (N43 22 57,1 W4 6 58,2)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 2.234,706 ha
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (năm 1985, gia hạn năm 2008, hạng mục i, iii)
Tây Ban Nha (Spain) là một quốc gia ở Tây Nam Châu Âu với một số vùng lãnh thổ tại eo biển Gibraltar và Đại Tây Dương.
Lãnh thổ lục địa Châu Âu của Tây Ban Nha nằm trên Bán đảo Iberia (Iberian Peninsula, góc tây nam châu Âu, gồm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Andorra, một phần nhỏ của Pháp và Gibraltar, lãnh thổ hải ngoại của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland).
Tây Ban Nha cũng bao gồm hai quần đảo: Quần đảo Canary ngoài khơi Bắc Phi và Quần đảo Balearic ở Địa Trung Hải. Các vùng đất châu Phi gồm Ceuta, Melilla và Peñón de Vélez de latylesra khiến Tây Ban Nha trở thành quốc gia châu Âu duy nhất có biên giới thực với một quốc gia châu Phi (Maroc).
Một số hòn đảo nhỏ ở Biển Alboran cũng là một phần của lãnh thổ Tây Ban Nha.
Đất liền của Tây Ban Nha giáp với phía nam và đông biển Địa Trung Hải; về phía bắc và đông bắc giáp Pháp, Andorra và Vịnh Biscay; về phía tây và tây bắc lần lượt là Bồ Đào Nha và Đại Tây Dương.
Tây Ban Nha có diện tích 505.990 km2; dân số 47,43 triệu người (năm 2020); Thủ đô và thành phố lớn nhất là Madrid.
Con người hiện đại đầu tiên đến Bán đảo Iberia vào khoảng 35.000 năm trước.
Các nền văn hóa Iberia cùng với các nền văn hóa Phoenicia, Hy Lạp (Ancient Greece), Celts và Carthage (Carthaginian Iberia) cổ đại đã phát triển trên bán đảo cho đến khi nằm dưới sự cai trị của La Mã vào khoảng năm 200 trước Công nguyên (TCN).
Vào cuối thời kỳ Đế chế Tây La Mã (Western Roman Empire, tồn tại năm 395–476/480), người Germanic và các bộ tộc liên minh đã di cư từ Trung Âu đến xâm chiếm Bán đảo Iberia và thiết lập các vương quốc tương đối độc lập ở phía tây của bán đảo. Một trong số họ là người Visigoth, đã hợp nhất tất cả các lãnh thổ độc lập còn lại trên bán đảo, bao gồm cả tỉnh Byzantine của Spania vào Vương quốc Visigothic (Visigothic Kingdom, tồn tại năm 418 – 721).
Vào đầu thế kỷ 8, Vương quốc Visigothic đã bị chinh phục bởi Vương quốc Hồi giáo Umayyad (Umayyad Caliphate, tồn tại năm 661–750, thủ đô là Damascus, Syria, Tây Á ngày nay).
Một số vùng đất Cơ đốc giáo ở phía bắc Bán đảo Iberia nằm ngoài sự cai trị của người Hồi giáo, cùng với sự xuất hiện của Đế chế Carolingian (Carolingian Empire, tồn tại năm 800–888) đã dẫn đến sự hình thành các tiểu vương quốc Cơ đốc giáo như León, Castile, Aragon, Navarre và Bồ Đào Nha.
Hơn bảy thế kỷ, sự mở rộng về phía nam Bán đảo Iberia của các vương quốc này lên đến đỉnh điểm với việc Cơ đốc giáo xóa bỏ chính thể Hồi giáo cuối cùng, Vương quốc Granada (Emirate of Granada, tồn tại năm 1230–1492) vào năm 1492, cùng năm Christopher Columbus (nhà thám hiểm người Ý, 1451- 1506) đến Tân Thế giới.
Quá trình tập hợp chính trị giữa các tiểu vương quốc Cơ đốc giáo cũng diễn ra ngày sau đó. Vào cuối thế kỷ 15, chứng kiến sự hợp nhất giữa các tiểu vương quốc Castile và Aragon thành Vương quốc Công giáo Tây Ban Nha (Catholic Monarchs of Spain). Sự thống nhất với tiểu vương quốc Navarre diễn ra vào năm 1512.
Đế chế Tây Ban Nha (Spanish Empire/ Chế độ quân chủ Thiên chúa giáo Tây Ban Nha, tồn tại năm 1492–1976) đã liên minh với Vương quốc Bồ Đào Nha (Kingdom of Portugal, tồn tại năm 1139–1910) để thành lập Vương triều Hapsburg (Habsburg Spain, tồn tại năm 1516–1700).
Các nhà cai trị Habsburg đã đạt đến đỉnh cao về ảnh hưởng và quyền lực: Kiểm soát lãnh thổ bao gồm Châu Mỹ, Đông Ấn; các nước Spanish Netherlands, Bỉ, Luxembourg và một phần lãnh thổ hiện thuộc Ý, Pháp và Đức ở Châu Âu; Vương quốc Bồ Đào Nha (từ năm 1580 - 1640) và nhiều vùng lãnh thổ nhỏ khác như Ceuta và Oran ở Bắc Phi.
Giai đoạn lịch sử Tây Ban Nha này còn được gọi là " Thời đại khám phá " (Age of Discovery).
Vào đầu thời kỳ hiện đại, Tây Ban Nha là một trong những đế chế lớn nhất trong lịch sử, cũng như là một trong những đế chế toàn cầu đầu tiên; tạo ra một di sản văn hóa và ngôn ngữ lớn với hơn 570 triệu người Hispanophones), khiến tiếng Tây Ban Nha trở thành ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ), được nói nhiều thứ hai trên thế giới sau tiếng Quan Thoại Trung Quốc (Mandarin Chinese).
Tây Ban Nha là nơi có số lượng Di sản Thế giới được UNESCO công nhận lớn thứ tư thế giới. Tính đến tháng 7 năm 2021, Tây Ban Nha có tổng số 49 địa điểm được ghi trong danh sách, chỉ đứng sau Ý (58), Trung Quốc (56), Đức (51) và cùng với Pháp (49).
Ngày nay, Tây Ban Nha được chia thành 17 cộng đồng tự trị và 2 thành phố tự trị. Các cộng đồng tự trị (vùng, bang) được chia thành 50 tỉnh (khu vực).
Bản đồ Tây Ban Nha và vị trí của vùng Cantabria
Santillana del Mar là một thị trấn lịch sử nằm ở vùng Cantabria, tại phía bắc Tây Ban Nha. Thị trấn này nổi tiếng với di tích Hang động Altamira và Nghệ thuật Hang động Đồ đá cũ tại miền bắc Tây Ban Nha.
Đây là một di tích đại diện cho đỉnh cao của nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ, đã phát triển trên khắp châu Âu, từ năm 35.000 đến năm 11.000 TCN. Do các hang động nằm sâu dưới lòng đất, cách biệt với các ảnh hưởng khí hậu bên ngoài, nên nghệ thuật hang động bên trong được bảo tồn đặc biệt tốt.
Vùng Cantabria là khu vực lãnh thổ có một lượng lớn dân cư trong thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic (khoảng 18.500 năm trước), do khí hậu tương đối tốt và sự phong phú của các loài thú, cá, hải sản và thực vật có sẵn cho những nhóm săn bắn hái lượm.
Vùng Cantabria đóng một vai trò quan trọng trong sự khởi đầu của nghiên cứu nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ. Ban đầu có nhiều tranh luận về tuổi của các bức tranh tại di tích Hang động Altamira, xoay quanh năng lực nghệ thuật, trí tuệ và tinh thần của những người thuộc thời kỳ Đồ đá cũ. Thật khó để chấp nhận rằng: Tại sao, những người sống với mức độ vật chất và kỹ thuật thô sơ, lại có thể tạo ra những bức tranh và bản khắc đặc sắc (và được bảo quản rất tốt) như vậy? Về sau, những nghiên cứu cũng như khám phá mới tại hang động và nghệ thuật hang động thời kỳ Tiền sử cũng dần khẳng định tuổi của các bức tranh tại đây.
Sự phân bố hang động cũng như nghệ thuật hang động tại vùng Cantabria trùng lặp với phân bố địa điểm sinh sống của người Tiền sử. Các hang động này phân bố trên các dải đất liền ven biển, hạn chế nằm trong các thung lũng nội địa. Các hang động này luôn nằm ở nơi có độ cao thấp, thường là dưới 200m, hiếm có trường hợp cao đến 600m. Một số hang gắn với nghệ thuật hang động đều trở thành những địa điểm trung tâm, là nơi cư trú kéo dài trong suốt thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic) với nhiều hình vẽ theo phong cách và kỹ thuật khác nhau, thể hiện được cái nhìn về vai trò nghệ thuật, nghi lễ đi kèm, cũng như hoạt động đời thường của những người Tiền sử sống trong đó.
Sự phân bố của các hang động cũng có những khác biệt khi nhìn theo trục Bắc – Nam của khu vực.
Tại các thung lũng nằm sâu trong đất liền, các hang động có xu hướng nằm gần các dòng sông.
Tại khu vực ven biển, các hang thường nằm phân tán trong các thung lũng. Tất cả tập trung thành các nhóm: Nhóm hang động nằm ở khu vực ven biển phía tây; Nhóm hang động nằm tại lưu vực tiêu nước của các cửa sông; Nhóm hang động nằm tại các thung lũng; Một số hang động nhỏ hơn khác nằm ở khu vực ven biển phía đông.
Các đặc điểm chính của nghệ thuật đỉnh cao ở Cantabria có thể phân thành 3 đoạn dài liên tiếp:
Khởi đầu thuộc giai đoạn Gravettian (khoảng 33.000 – 24.000 năm trước đây), thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic): Vào giai đoạn này, con người vào hang động để tạo ra tác phẩm nghệ thuật đơn giản: Các chấm đỏ, dấu ngón tay, đường ghép nối và hình ảnh bàn tay âm bản. Các hình vẽ này được thực hiện bằng kỹ thuật phun sơn hoặc bằng dùng đầu ngón tay chấm sơn lên. Vào thời kỳ này có ít hình ảnh miêu tả động vật.
Giai đoạn Solutrean (khoảng 22.000 – 17.000 năm trước đây), thời kỳ Đồ đá trên: Việc sử dụng sắc tố đỏ phổ biến hơn với các dạng chấm tròn, bôi màu một phần hay toàn bộ hình vẽ. Tranh vẽ màu đen ít được phổ biến, thường là các phác thảo. Chủ đề điển hình được thể hiện là dấu hiệu trừu tượng hình tứ giác, thường được chia nhỏ bên trong, kết hợp các đường viền ngắn xung quanh và các dòng dấu chấm. Cũng xuất hiện các hình bầu dục được chia nhỏ, hình thang…Hình vẽ về động vật thể hiện số lượng lớn loài ngựa, bò rừng và các loại động vật khác như gấu, tuần lộc, voi ma mút, hươu, chim. Trong giai đoạn này cũng đã xuất hiện các con vật ghép đôi cùng loài và khác loài.
Giai đoạn Magdalenian (khoảng 17.000 – 12.000 năm trước đây), thời kỳ Đồ đá trên: Hình vẽ thể hiện được khuynh hướng chung tương tự như tại các khu vực khác tại châu Âu thời bấy giờ. Đó là cách miêu tả động vật một cách tự nhiên, thể hiện chiều thứ ba. Khác với giai đoạn trước, trong giai đoạn này, các bức tranh được vẽ với chất lượng kỹ thuật và nghệ thuật khác biệt; kích thước và mức độ hiển thị đa dạng, bởi có nhiều người cùng tham gia thực hiện với nhiều mục đích khác nhau.
Mật độ trang trí các mảng tường trong hang cũng dày hơn với nhiều phong cách, cũng như xuất hiện nhiều hơn các dấu hiệu và cấu trúc biểu tượng.
Tại đây đã tìm thấy những hình vẽ và kỹ thuật đặc trưng của Nghệ thuật hang động giai đoạn Magdalenian: Bò rừng sơn màu đen và được chạm khắc với đường viền xung quanh; đã xuất hiện chi tiết mắt, lỗ mũi và miệng; tạo hình nổi tự nhiên dựa trên bề mặt cong của các bức tường.
Trong giai đoạn này, bò rừng và ngựa thống trị hình ảnh của những bức tranh, song tuần lộc, dê núi và gấu xuất hiện thường xuyên hơn.
Bức tranh vẽ bò rừng tại Hang động Altamira, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang động Altamira và Nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ tại miền Bắc Tây Ban Nha (Cave of Altamira and Paleolithic Cave Art of Northern Spain); địa điểm: Santillana del Mar, Cộng đồng tự trị Cantabria, Tây Ban Nha được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Hang động Altamira và Nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ tại miền Bắc Tây Ban Nha là một là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người và là nghệ thuật hang động hoàn thiện sớm nhất của nhân loại.
Tiêu chí (iii): Hang động Altamira và Nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ tại miền Bắc Tây Ban Nha là minh chứng đặc biệt cho một truyền thống văn hóa và là những minh họa nổi bật về một giai đoạn quan trọng trong lịch sử nhân loại.
Sơ đồ vị trí địa điểm các di tích chính tại Di sản Hang động Altamira và Nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ; địa điểm: Santillana del Mar, Cộng đồng tự trị Cantabria, Tây Ban Nha
Di sản Hang động Altamira và Nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ tại miền Bắc Tây Ban Nha gồm 18 di tích chính:
Hang Altamira
Hang Altamira (Cave of Altamira) nằm tại phía bắc khu dân cư San Esteban, tại cao độ 158,52m so với mực nước biển (N43 22 56,99 W4 7 13); Diện tích Di sản 0,32ha; Diện tích vùng đệm 16ha.
Địa điểm được phát hiện vào năm 1868. Công việc khai quật đầu tiên tại đây chỉ bắt đầu vào năm 1879.
Hang với những đoạn ngoằn ngoèo, dài khoảng 1.000m. Lối đi chính trong hang có chiều cao từ 2 – 6m.
Hang động được hình thành do sự phân hủy (Karst) của các loại đá hòa tan như đá vôi, đá dolomit, thạch cao của dãy núi đá vôi Vispieres.
Các cuộc khai quật khảo cổ học ở đáy hang động đã tìm thấy các di tích từ thời Thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic), khoảng 18.500 năm trước và Thời kỳ Đồ đá cũ (Mesolithic), khoảng 6.590 đến 14.000 năm trước.
Khu vực này có một lợi thế đặc biệt thu hút con người đến đây sinh sống. Bởi đây là địa điểm có các loài động vật hoang dã sống trong các thung lũng của những ngọn núi xung quanh, cũng như các sinh vật biển sẵn có ở các tại khu vực ven biển kề liền.
Khoảng 13.000 năm trước, một trận lở đá đã bịt kín lối vào của hang động, bảo tồn những thứ bên trong cho đến khi hang được phát hiện.
Hang Altamira nổi tiếng về nghệ thuật hang động với các bức tranh vẽ nhiều màu về động vật địa phương.
Những bức tranh sớm nhất được thực hiện trong Thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic), có thể coi là một trong những tranh hang động châu Âu đầu tiên.
Dựa trên nghiên cứu khảo cổ học, các chuyên gia cho rằng các bức tranh và chạm khắc trên vách hang động được thực hiện bởi những người sinh sống trong hang động trong các thời kỳ khác nhau.
Các nghệ nhân đã sử dụng than (màu đen) và đất son (ochre, có màu từ vàng đến cam đậm hoặc nâu) hoặc hematit (oxit sắt tự nhiên với các màu từ đen đến xám bạc, nâu đến nâu đỏ, hoặc đỏ) để tạo ra các bức tranh. Các màu sắc đậm nhạt tương phản sáng tối (chiaroscuro) được các nghệ nhân pha loãng các sắc tố này để thực hiện. Họ cũng khai thác các bề mặt tự nhiên của vách hang để tạo hiệu ứng ba chiều cho các bức tranh.
Trần hang với các bức tranh màu đa sắc là điểm ấn tượng nhất của hang Altamira. Các bức tranh mô tả một đàn bò rừng thảo nguyên với các tư thế khác nhau, hai con ngựa, một con nai sừng tấm lớn và có thể là một con lợn rừng. Ngoài ra tại đây còn có hình vẽ về bò rừng, hươu cao cổ, hình giống mặt người….
Ban đầu, người ta còn không tin đây là bức tranh do người xưa vẽ, mà do nghệ sĩ đương đại thực hiện.
Vào năm 2008, bằng các phương pháp khoa học tiên tiến, người ta mới khẳng định các bức tranh này được vẽ trong khoảng thời gian 10.000 - 20.000 năm TCN.
Hiện tại, các bản sao của các bức tranh trong hang động được lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia và Trung tâm Nghiên cứu Altamira (National Museum and Research Center of Altamira); Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Tây Ban Nha (National Archaeological Museum) tại Madrid và trong Bảo tàng Đức (Deutsches Museum) ở Munich.
Hang Altamira có người sinh sống trong nhiều thiên niên kỷ. Bên cạnh nghệ thuật hang động thời kỳ Đồ đá cũ, đây còn là nơi chứa đựng các tàn tích về hoạt động của người tiền sử.
Sự chiếm đóng của con người chỉ giới hạn tại lối vào khu vực hang động, mặc dù các bức tranh đã được tạo ra trong suốt chiều dài của hang động. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tàn tích của xương động vật, tro thuộc các lò sưởi liên tục và các đồ vật bằng đá lửa như dao, rìu và các mảnh đá lửa.
Tại đây các nhà khảo cổ còn tìm thấy các loại hài cốt nằm trong các lớp trầm tích khác nhau. Điều này thể hiện, hang đá có người sinh sống trong một thời gian dài.
Từ năm 2002, hang không mở cửa cho du khách vào thăm.
Phạm vi Di sản hang Altamira, Cantabria, Tây Ban Nha
Lối vào hang Altamira, Cantabria, Tây Ban Nha
Bức tranh về một con bò rừng từ trần hang động Altamira, một trong những bức tranh nổi tiếng nhất
Sơ đồ hình vẽ trong hang Altamira, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Peña de Candamo
Hang La Peña de Candamo (Cave of La Peña de Candamo) nằm tại gò núi La Peña de Candamo, tại cao độ 253,44m so với mực nước biển, phía bắc khu dân cư San Román (N43 27 21,00 W6 4 21,00); Diện tích vùng đệm 99,97 ha.
Hang được phát hiện vào nửa sau của thế kỷ 19, được chính thức nghiên cứu vào năm 1914. Hang là nơi chứa các di tích thời kỳ Thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic), vào khoảng 50.000 đến 12.000 năm trước đây.
Hang nằm ở chân một ngọn đồi đá vôi và bao gồm một hang nhỏ mở ra một hang lớn với có tổng chiều dài khoảng 70m. Nghệ thuật trong hang có niên đại là 18.000 năm trước đây, thuộc giai đoạn Solutrean. Có một số quan điểm cho rằng niên đại có thể muộn hơn.
Trong hang, ngoài các bức tranh được cho là mang ý nghĩa nghi lễ, hầu như không có hài cốt hoặc đồ dùng nào, cho thấy hang động đã có người ở bên trong. Hang động có thể được chia thành:
Hang thấp, hay hang có các bức tranh màu đỏ, là một hang nhỏ nằm ở bên phải lối vào;
Hang trưng bày đặt tại phía trước hang chính;
Hang chạm khắc (Hall of Engravings) với các bức tường có các bức tranh dài 6m và cao 8m, là một tổ hợp phức tạp của các hình vẽ có liên quan đến nhau;
Hang ngách nằm tại phần cao nhất của hang. Trong hang ngách có các hình vẽ thể hiện ngựa và bò đực.
Các bức tranh trong hang La Peña de Candamo hiện đã được khôi phục lại và trưng bày trong Trung tâm Diễn giải Hang động Candamo (La Peña Cave Interpretation Centre) thuộc Dinh thự Valdes-Bazán (Palacio Valdes Bazan).
Phạm vi Di sản hang La Peña de Candamo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang La Peña de Candamo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ Con nai bị thương, hang Peña de Candamo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Tito Bustillo
Hang Tito Bustillo (Tito Bustillo Cave) nằm trong một khu vực, có điểm phía tây là địa danh Les Pedroses, điểm phía đông là La Cuevona (N43 27 39,00 W5 4 4,00); Diện tích vùng đệm 243,38 ha.
Tại đây có 4 lối vào hang động: Một lối vào tại địa danh Les Pedroses và 3 lối vào tại địa danh La Cuevona
Hang động là nơi sinh sống của con người vào khoảng 10.000 năm trước đây. Do sự sụp đổ của đá, lối vào ban đầu của hang động đã bị bịt kín từ hàng nghìn năm trước, điều này giúp cho việc bảo quản các đồ vật, công cụ và các bức vẽ trên tường.
Hang được phát hiện vào năm 1968.
Hang động Tito Bustillo có tới 12 bức tranh thời tiền sử, khiến nó trở thành một trong những ví dụ hoàn chỉnh nhất về nghệ thuật thời tiền sử ở phía bắc của Tây Ban Nha.
Bức tranh cổ nhất trong số những bức tranh này có hình người vào khoảng 33.000 năm tuổi. Một số nhà khoa học tin rằng nó có thể được tạo ra bởi người Neanderthal.
Một số bức tranh vẽ đại diện cho các loài động vật: ngựa, hươu, nai và thậm chí cả động vật biển (có thể là cá voi). Các bức tranh này được con người sử dụng cho mục đích nghi lễ, có thể là mong muốn nhằm cải thiện khả năng săn bắn.
Ngoài ra, tại đây còn có một bức tranh thể hiện cơ quan sinh dục của phụ nữ, biểu tượng cho nghi lễ tăng cường khả năng sinh sản. Bức tranh cổ nhất trong hang thể hiện một hình người, một phần nam và một phần nữ.
Ngoài những bức tranh, một số đồ vật giai đoạn Magdalenian, vào khoảng 17.000- 12.000 năm trước đây, thuộc thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic), hiện vẫn được bảo quản hoàn hảo.
Phạm vi Di sản hang Tito Bustillo, Cantabria, Tây Ban Nha
Lối vào hang Tito Bustillo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Tito Bustillo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Covaciella
Hang Covaciella (Cueva de La Covaciella) nằm tại khu vực Las Estazadas, ngã ba sông Rio Oscuro và Casanu (N43 19 5,00 W4 52 30,00; Diện tích vùng đệm 11,336 ha.
Lối vào hang tại sườn núi phía đông, tại cao độ 300m so với mực nước biển.
Hang Covaciella là một dãy hang động dài 40m, kết thúc bằng một hang với những bức tranh hang động thuộc giai đoạn Magdalenian, khoảng 14.000 năm trước đây.
Hang được phát hiện vào năm 1994, sau một vụ nổ mìn làm đường, làm mở ra một cái lỗ vào hang.
Sự phát hiện muộn của hang, làm chất chất lượng và khả năng bảo tồn của các bức tranh rất cao, đặc biệt là các bức tranh về bò rừng. Các bức tranh tại đây được đánh giá là bảo tồn tốt nhất tại khu vực bờ biển Cantabrian.
Hang động hiện không mở cửa cho công chúng, nhằm bảo quản một tài sản văn hóa quan trọng, trong điều kiện mong manh về môi trường.
Phạm vi Di sản hang Covaciella, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Covaciella, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Llonín
Hang Llonín (Cueva de Llonín) nằm tại gò núi Cueto Trejual, cao độ 243,38m so với mực nước biển, thuộc phía nam thị trấn Llonín (N43 19 50,00 W4 38 43,00); Diện tích vùng đệm 17,37 ha.
Hang động này đã được phát hiện vào năm 1957. Lối vào hang tại sườn phía đông của gò núi, cạnh sông Rio Molino.
Trong hang có các hình vẽ màu đỏ và đen khác nhau về các loài động vật như bò rừng, tuần lộc, dê, ngựa…Với số lượng hàng trăm hình vẽ, có tuổi từ giai đoạn Magdalenian, khiến hang Llonín trở thành hang động tại Khu vực Di sản có số lượng hình đại diện lớn nhất.
Hang động đóng cửa hoàn toàn với công chúng.
Phạm vi Di sản hang Llonín, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Llonín, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang El Pindal
Hang El Pindal (El Pindal Cave) nằm tại phía bắc khu vực thung lũng Las Vaqueria và Montes La Guriaz với cao độ trung bình 30 – 50m so với mực nước biển, gần bờ biển (N43 23 51,00 W4 31 58,00); Diện tích vùng đệm 69,37 ha.
Hang được tìm thấy vào năm 1908.
Hang có một lối vào tại sườn núi phía đông bắc, tại cao độ 25m so với mực nước biển.
Các nghiên cứu khảo cổ học trong những năm gần đây cho rằng hang nghệ thuật này có niên đại từ thời đại Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic), khoảng 22.000 năm trước và sau đó là giai đoạn Magdalenian, khoảng 17.000 năm trước.
Trải dài trên các bức tường đá là hơn 20 bức tranh. Mặc dù đã xuống cấp do khí hậu thay đổi, một số bức trang vẫn có thể nhình thấy bằng mắt thường.
Các bức tranh này bao gồm những nét vẽ mờ nhạt của bò rừng và ngựa và những bức vẽ rõ ràng hơn về cá hồi và hươu đỏ, cùng nhiều họa tiết hình học khó hiểu. Tại đây còn thấy hình ảnh của một loại động vật đã tuyệt chủng là một con voi ma mút, thể hiện trí tưởng tượng nghệ thuật thời kỳ Đồ đá cũ trên.
Trong hang còn có các bức tranh miêu tả nghi lễ tôn giáo. Hang El Pindal có thể coi như một ngôi đền thờ các vị thần, vật tổ hoặc linh hồn của những người đã sống tại đây.
Phạm vi Di sản hang El Pindal , Cantabria, Tây Ban Nha
Bên trong hang El Pindal , Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang El Pindal: Con voi bị thương, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Chufín
Hang Chufín (Cave of Chufín) tọa lạc tại thị trấn Riclones, tại ngã ba sông Rio Lamasón và sông Rio Nansa (N43 17 26,00 W4 27 29,00); Diện tích vùng đệm 16,65 ha.
Hang có hai lối vào chính: Chufín và Chufín IV, hướng về phía sông Rio Lamasón
Hang động nhỏ. Các hình vẽ trong hang lâu đời nhất vào thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic), khoảng 20.000 năm trước đây. Trong đó có một số chạm khắc tinh tế và các bức tranh màu đỏ vẽ hươu, dê và gia súc.
Tại đây cũng tìm thấy rất nhiều biểu tượng: Hình cây cùng với các bức tranh bên trong động vật; Hình vẽ sử dụng các điểm; Hình ảnh bộ phận sinh dục nữ.
Hang cũng được sử dụng bởi những cư dân thời tiền sử, những người đã khắc hình trên đá.
Phạm vi Di sản hang Chufín, Cantabria, Tây Ban Nha
Bên trong hang Chufín, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Chufín, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Hornos de la Peña
Hang Hornos de la Peña (Cueva de Hornos de la Peña) nằm tại gò núi La Barbecha với cao độ đỉnh 357,39m so với mực nước biển (N43 15 40,00 W4 1 47,00); Diện tích vùng đệm 25,05 ha.
Hang được phát hiện vào năm 1903.
Hang có một cửa ra vào tại sườn núi phía tây nam, cao độ 225m so với mực nước biển.
Đây là nơi cư trú của người Neanderthal và Cro-Magnons.
Điều đặc biệt là tại đây chỉ có các bức chạm khắc, mà không có tranh vẽ.
Các bức chạm khắc đá thuộc loại lâu đời nhất được biết đến trên bờ biển Cantabrian, có niên đại thời kỳ Aurignacian, vào khoảng 43.000- 26.000 năm trước đây. Nổi bật trong số đó là một bức chạm khắc con ngựa, hiện không còn tồn tại, được biết tới qua các bức ảnh chụp từ đầu thế kỷ 20, cùng với những hình đại diện của bò rừng, ngựa, hươu.
Bên trong hang, tại khu vực có độ sâu 60m, có các hình bò tót, bọ ngựa, dê và thậm chí một con tuần lộc. Tất cả được tạo bằng ngón tay trên đất sét hoặc bằng đục trên đá. Một số lượng lớn các bức chạm khắc này thuộc thời kỳ Magdalenian, khoảng 17.000 năm trước.
Một số di tích liên quan đến con người được tìm thấy tại cuối hang. Trong đó nổi bật nhất là bức họa tiết một người với một cánh tay giơ lên và một cái đuôi dài.
Phạm vi Di sản hang Hornos de la Peña, Cantabria, Tây Ban Nha
Lối vào hang Hornos de la Peña, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Hornos de la Peña, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Monte Castillo - El Castillo
Hang Monte Castillo - El Castillo (Caves of Monte Castillo) nằm tại ngọn núi Monte Castillo với cao độ đỉnh là 353,75m so với mực nước biển (N43 17 28,00 W3 57 51,00); Diện tích vùng đệm 68,93 ha.
Hang Cueva del Castillo được phát hiện vào năm 1903.
Quần thể hang có 4 cửa ra vào: El Castillo nằm tại sườn núi phía đông bắc; Las Monedas và La Pasiega nằm tại sườn núi phía đông; Las Chimeneas nằm tại sườn núi phía nam.
Ngoài ra, khu phức hợp bao gồm một cửa hang thứ năm, La Flecha nằm cạnh La Pasiega.
Quần thể các hang động tạo thành một chuỗi hoàn chỉnh đáng kinh ngạc, cả về văn hóa vật chất của thời kỳ Đồ đá cũ trên (Upper Paleolithic) và theo quan điểm nghệ thuật.
Hang nằm tại độ sâu khoảng 20m, chứa các bằng chứng về nơi cư trú của con người.
Hang chứa bức tranh hang động lâu đời nhất được biết đến: Một chiếc đĩa lớn màu đỏ hình chóp có niên đại hơn 40.000 năm tuổi.
Tại đây có tới hơn 150 mô tả đã được đưa vào danh mục, bao gồm các hình khắc nai, ngựa, bò rừng, dê, voi ma mút…Tại đây cũng có tới 50 hình người, được cắt ngắn và các dấu hiệu hình học trừu tượng với các dấu chấm tạo thành hình đám mây và các dạng hình chữ nhật. Các hình vẽ được sơn màu đỏ, đen, vàng, được vẽ bằng ngón tay, bút lông và chạm khắc.
Phạm vi Di sản hang Monte Castillo - El Castillo, Cantabria, Tây Ban Nha
Mặt bằng các hang tại Di tích hang Monte Castillo - El Castillo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Monte Castillo - El Castillo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Monte Castillo - Las Monedas
Hang Monte Castillo - Las Monedas (Cueva de Las Monedas) là một trong bốn hang trong quần thể hang Monte Castillo (N43 17 28,00 W3 57 51,00); Diện tích vùng đệm 68,93 ha.
Hang được phát hiện vào năm 1952 và được nghiên cứu vào năm 1972.
Hang trải qua các thời kỳ Đồ đồng (Bronze Age/ Edad del Bronce, năm 3300 – 1200 TCN), thời kỳ Đồ sắt
(Edad del Hierro, bắt đầu vào năm 1200 TCN); cũng như một số đồ đá từ thời kỳ Đồ đá cũ (Paleolítico).
Hang động được đặt tên theo một số đồng xu thế kỷ 16 được tìm thấy bên trong. Các bức tranh trong hang động này có niên đại từ giai đoạn Magdalenian, khoảng 13.000 năm trước, mô tả ngựa, dê, gấu, bò rừng và tuần lộc.
Lối vào hang Monte Castillo - Las Monedas, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Monte Castillo - Las Monedas, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Monte Castillo - La Pasiega
Hang Monte Castillo - La Pasiega (Cueva de La Pasiega) là một trong bốn hang trong quần thể hang Monte Castillo (N43 17 28,00 W3 57 51,00); Diện tích vùng đệm 68,93 ha.
Hang được khai quật vào năm 1911 – 1913. Các nghiên cứu tại hang mở ra một giai đoạn nghiên cứu nghệ thuật đá vùng Cantabrian.
Hang động La Pasiega là một trong những di tích quan trọng nhất của nghệ thuật thời kỳ Đồ đá cũ ở Cantabria.
Về cơ bản, La Pasiega là một phòng trưng bày khổng lồ, rộng hơn 120m, chạy song song với độ dốc của núi, mở ra bề mặt ở 6 cửa hang với vị trí khác nhau, trong đó 2 cửa hang có thể vào được.
Hang chính cao khoảng 70m và mở ra các hang nhỏ sâu hơn, uốn lượn như các mê cung và mở ra một số các hang rộng.
Các di tích trong hang chủ yếu thuộc về thời kỳ Upper Solutrean (từ năm 22000 - 17000 trước đây) và Lower
Magdalenian (từ năm 17000 – 12000 trước đây).
Xuyên suốt hang động là nhiều tường hang với các bức tranh và biểu tượng.
Tại đây người ta đã phát hiện 700 hình dạng vẽ bằng sơn, trong đó có 97 con nai (69 con cái và 28 con đực ), 80 con ngựa, 32 con dê núi, 31 con bò rừng, 2 con tuần lộc, 1 con sơn dương, 1 con chim và 1 con cá; cũng có thể có 1 con voi ma mút và khoảng 40 biểu tượng không được xác định rõ ràng. Ngoài ra còn có các biểu tượng dạng ngôn ngữ với các mẫu ký tự lặp lại.
Mặt bằng các hang tại Di tích hang Monte Castillo - La Pasiega, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang La Pasiega gồm 4 hang: A, B, C và D.
Hang A
Đây là hang đầu tiên, tiếp cận phải đi qua một hang giếng, tới độ sâu đến 95m.
Bắt đầu từ độ sâu 75m, xuất hiện các bức tranh đầu tiên với 50 con hươu (đa số là con cái), ngựa khoảng 25 con và bò rừng. Bức tranh dường như được đặt tại nơi dễ nhìn thấy nhất.
Tại đây cũng tìm thấy các biểu tượng người, bộ phận sinh dục nữ, các đường thẳng, dấu chấm, hình vuông.
Hình vẽ dê núi rất khan hiếm, nhưng số lượng hươu gần như gấp đôi số lượng ngựa và thường xuyên gấp 5 lần so với gia súc.
Màu chủ đạo là màu đỏ. Thỉnh thoảng cũng có màu vàng và màu đỏ tía.
Người ta còn phân loại hang A thành 4 khu vực với các nhóm phù điêu khác nhau:
Khu vực 1: Là những bức phù điêu có hình tượng chủ yếu là hươu, phụ nữ, ngựa và một con bò rừng.
Khu vực 2: Là khu vực có không gian hẹp hơn, thể hiện số lượng ngựa và hươu bằng nhau. Số lượng gia súc ít hơn nhưng không kém phần quan trọng, hai trong số đó là bò rừng. Hình vẽ gia súc tập trung ở phía bên phải, cùng với ba con ngựa, tạo thành hạt nhân của sự sắp xếp…Ngoài ra, tại đây có một biểu tượng nhân cách nữ tính và khoảng ba mươi biểu tượng hình chữ nhật. Tất cả các bức tranh này chủ yếu được vẽ bằng màu đỏ.
Khu vực 3: Là nhóm hình vẽ trên một nhóm măng đá, trong những giai đoạn khác nhau. Có khoảng mười con, gồm vài con ngựa, hai con gia súc và một biểu tượng hình vuông. Kỹ thuật vẽ là tạo thành các mảng màu kết hợp với các đường viền màu đen, được nhấn mạnh bằng các đường chạm khắc để tạo các chi tiết hoặc được được bổ sung bằng các mảng tạo sáng tối và được sơn màu đỏ.
Khu vực thứ 4: Là nhóm hình vẽ có chứa một số lượng tương tự của hươu và ngựa, cùng với một cặp bò rừng. Trong số các biểu tượng, có một hình bàn tay và một đầu bò rừng màu đỏ. Tại đây không có mảng màu, vết chạm khắc, hình vẽ hai màu như tại Khu vực 3, chủ yếu là các phác thảo có màu đỏ.
Sơ đồ mặt bằng hang A, Di tích hang Monte Castillo - La Pasiega, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang A: Hình ảnh từ trái sang phải: Bò rừng – ngựa với một con nai khổng lồ; Cuộc đối đầu bò rừng - ngựa (được bổ sung bởi một dấu hiệu tectiform); Dê sơn màu đỏ; Di tích hang Monte Castillo - La Pasiega, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang B
Hang nằm ở độ sâu 60- 70m. Mật độ tranh vẽ trong hang này ít hơn so với Hang A.
Trong số các hình mô tả, số lượng hươu và ngựa gần bằng nhau; số lượng gia súc ít hơn. Tại đây có một số hình tượng được cho là độc đáo, gồm hình một con cá, dê núi, hình que, chìa khóa và các ký hiệu không phải là chữ viết…
Kỹ thuật thể hiện tương tự như hang A: Tô màu khối màu đỏ song với sắc độ đậm nhạt khác nhau và tô màu đen; sử dụng các vết chạm khắc, đặc biệt là hình vẽ ngựa.
Sơ đồ mặt bằng hang B, Di tích hang Monte Castillo - La Pasiega, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang B: Hình ảnh từ trái sang phải: Con hươu sơn màu đỏ; Chạm khắc ngựa; Ngựa sơn màu đen; Dê núi sơn màu đen
Hang C (hang XI)
Lối vào hang bằng một con đường đi qua bên trái hang D. Hang C có hai khu vực bảo tồn độc lập: Khu vực 1 và Khu vực 2.
Khu vực 1: Là không gian xung quanh lối vào ban đầu, hiện đã bị chặn. Các hình vẽ chủ yếu là hình vẽ lưng của một số ngựa đực, dê, và loại gia súc khác nhau, cùng một số biểu tượng khó xác định. Kỹ thuật chủ đạo là vẽ phác màu đỏ nhưng cũng có nhiều hình vẽ bằng màu đen và các bức tranh kết hợp hai màu: Hình khối màu đỏ và các đường viền màu đen. Có một số hình có thêm màu vàng.
Khu vực 2: Là không gian xung quanh lối vào Hang D. Hình vẽ với các loài đại diện chủ yếu là ngựa, tiếp theo là gia súc, và ít hơn là hươu, dê núi. Các ký hiệu có số lượng không xác định, gồm hình chìa khóa, lông vũ và cả những vạch và chấm.
Sơ đồ mặt bằng hang C, Di tích hang Monte Castillo - La Pasiega, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang C: Hình ảnh từ trái sang phải: Dê đực sơn màu đen; Tranh khắc và lớp phủ; Bò rừng sơn màu tối
Hang D
Đây là một phần trung gian của hang động với hình ảnh rời rạc trong đó có rất ít sự đồng nhất, ngoại trừ một số nhóm nhỏ tiếp tục lặp lại chủ đề nhị nguyên gia súc và ngựa.
Các biểu tượng hình ảnh
Dấu chấm: Đây là những biểu tượng đơn giản nhất trong hang động, được cho là thực hiện trong các thời kỳ khác nhau. Có hai dạng dấu chấm: Dấu chấm liên quan liên quan đến động vật; Dấu chấm không liên quan đến động vật, được cho là các ký tự ngôn ngữ.
Biểu hiện dấu chấm, hình ảnh từ trái sang phải: Nhóm lớn các dấu chấm; Nhóm chấm nhỏ; Đầu ngựa liên kết với hai nhóm dấu chấm lớn; Đầu ngựa liên kết với một nhóm dấu chấm
Dấu hiệu tuyến tính: Những dấu hiệu này đa dạng và phức tạp hơn cả về hình thái và sự liên kết. Dấu hiệu này có thể có dạng như mũi tên, cành cây, lông vũ, những đường đơn giản được gọi là hình que (libeoncillos).
Biểu hiện tuyến tính, hình ảnh từ trái sang phải: Hình que; Hình que và dấu chấm; Hình mũ tên; Hình lông vũ
Dấu hiệu Claviform: Các dấu hiệu này còn được gọi là hình chìa khóa hay dấu hiệu của sự phối kết, ví dụ như đàn ông và đàn bà. Niên đại và hình dạng của dấu hiệu này rất phong phú.
Biểu hiện hình Claviform, hình ảnh từ trái sang phải: Hình chìa khóa; Các hình chìa khóa được ghép nối; Dấu hiệu tam giác; Dấu hiệu đa giác
Dấu hiệu đa giác là một nhóm đa dạng các dấu hiệu hình chữ nhật, hình ngũ giác và hình lục giác.
Dấu hiệu Tectiform: Đây là những dấu hiệu phong phú nhất của hang động này. Chúng có dạng hình chữ nhật, bên trong có thể có hoặc không có vạch phân chia.
Dấu hiệu Tectiform tại khu vực A
Dấu hiệu độc đáo: Đây là các dấu hiệu được gọi là Dấu hiệu La Trampa và dấu hiệu chữ khắc.
Dấu hiệu La Trampa là dấu hiệu chồng lên nhau của các hình biểu tượng khác nhau. Dấu hiệu chữ khắc thể hiện tại đây được cho là các biểu tượng phức tạp và độc đáo trong các bức tranh hang động
Dấu hiệu độc đáo, hình ảnh từ trái sang phải: Dấu hiệu La Trampa; Dấu hiệu chữ khắc
Dấu hiệu hay hình ảnh con người: Bao gồm một phần hoặc toàn bộ giải phẫu của con người. Thường là bộ phận sinh dục của phụ nữ, hình bàn tay, cánh tay được sơn màu đỏ hoặc đen. Ngoài ra, còn có các biểu tượng động vật được nhân cách hóa.
Hình ảnh con người, từ trái sang phải: Âm hộ phụ nữ; Hình bàn tay; Hình tượng bàn tay và biểu tượng; Con vật được nhân cách hóa (Anthropomorph)
Hang Monte Castillo - Las Chimeneas
Hang Monte Castillo - Las Chimeneas (Cueva de La Chimeneas) là một trong bốn hang trong quần thể hang Monte Castillo (N43 17 28,00 W3 57 51,00); Diện tích vùng đệm 68,93 ha.
Đây là một hang động với hai tầng được kết nối với nhau bởi sự hình thành của các tháp đá karst.
Hang được phát hiện vào năm 1953.
Các di tích khảo cổ học tập trung chủ yếu tại tầng dưới. Tầng trên là một mê cung chưa được các nhà khảo cổ học khám phá.
Các tàn tích trong hang có từ thời Magdalenian (vào khoảng 17.000- 12.000 năm trước đây). Tại đây có những nét vẽ miêu tả con nai lớn, đầu ngựa màu đen.
Lối vào hang Monte Castillo - Las Chimeneas, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Monte Castillo - Las Chimeneas, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang El Pendo
Hang El Pendo (Cueva de El Pendo) nằm trong một thung lũng với cao độ trung bình 74,3m so với mực nước biển, phía tây của khu dân cư Barrio del Cuchi (N43 23 17,00 W3 54 44,00); Diện tích vùng đệm 63,79 ha.
Hang được phát hiện vào năm 1907 với hình vẽ một con chim và một con ngựa vẫn còn nguyên vẹn tại điểm cuối của hang, thuộc giai đoạn Magdalenian (khoảng 17.000- 12.000 năm trước đây). Từ đó, hang được khám phá liên tiếp.
Hang động El Pendo là một trong những địa điểm được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử khảo cổ học và là một trong những tài liệu tham khảo bắt buộc trong nghiên cứu Đồ đá cũ của bán đảo Tây Ban Nha.
Từ năm 1994 đến 2000, các nhà khảo cổ học đã tiếp tục khám phá phần lâu đời nhất của hang (vào thời kỳ Đồ đá cũ). Vào năm 1997, người ta tình cờ phát hiện một nhóm bức tranh hang động nằm trong một mảng chạm khắc lớn có tuổi khoảng 20.000 năm. Bức phù điêu này (Frieze of Paintings) dài 25m, gồm các hình vẽ miêu tả những con ngựa, dê, bò và các biểu tượng khác.
Ngoài ra, tại đây còn có các di tích ghi nhận các hoạt động liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người Homo sapiens, bao gồm cả các hoạt động nghi lễ.
Phạm vi Di sản hang El Pendo, Cantabria, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng hang El Pendo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang El Pendo, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang La Garma
Hang La Garma (La Garma cave) nằm trong một khu vực các gò núi Elpico, Vivero với đỉnh gò cao nhất vào khoảng 185,77m so với mực nước biển, phía bắc của khu dân cư Barrio Nozaleda, Omono ((N43 25 50,00 W3 39 57,00); Diện tích vùng đệm 100,07 ha.
Tại đây bao gồm một hệ thống với 10 địa điểm khảo cổ nằm xung quanh khu vực núi La Garma (cao 185 m so với mực nước biển).
Đây là một hệ thống hang động được con người sử dụng vào khoảng 175.000 năm trước.
Một số hang động mới được phát hiện vào năm 1995.
Cửa vào hang nằm tại sườn núi phía nam, tại cao độ 90m so với mực nước biển.
Khu phức hợp hang là một trong những địa điểm được bảo tồn tốt nhất từ thời Đồ đá cũ.
Quần thể hang động chứa hơn 4.000 hóa thạch và hơn 500 đơn vị đồ họa, với 109 dấu hiệu, 92 hình động vật và 40 vết bàn tay (hand stencils).
Trong hang phát hiện các bức tranh về sư tử với những móng vuốt có niên đại khoảng 14.800 TCN.
Một số di tích thuộc giai đoạn Magdalenian (vào khoảng 17.000- 12.000 năm trước đây) như các vết bàn tay có màu đỏ, chấm đổ và các bức tranh động vật đơn giản.
Từ thời kỳ Đồ đá cũ đến thời kỳ Đồ đồng (Bronze Age, năm 3300 – 1200 TCN), hang còn được sử dụng như một khu chôn cất tập thể.
Phạm vi Di sản hang La Garma, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang La Garma, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Covalanas
Hang Covalanas (Cueva de Covalanas) nằm bên sườn đồi của hai con sông Rio Carranzo và Rio Gandara, tại phía đông của làng Ramales de la Victoria (N43 14 44,00 W3 27 8,00); Diện tích vùng đệm 1.374,4 ha.
Hang được phát hiện vào năm 1903.
Hiện tại, trong phạm vi Di sản, dọc theo đoạn sông Rio Carranzo có 6 cửa hang và dọc theo đoạn sông Rio Gandara có 5 cửa hang. Song Quần thể chỉ có hai hang lớn, trong đó có một hang có các di tích với kích thước dài khoảng 12m.
Bên trong hang có 22 hình vẽ, trong đó gồm 18 hình con hươu, một con ngựa, một con tuần lộc (hiếm có ở vùng Cantabria) và một số bộ phận động vật không xác định như đầu hoặc thân, một số dấu hiệu không rõ nghĩa.
Tất cả các hình vẽ đều được tạo thành bởi những chấm nhỏ màu đỏ, trong khoảng thời gian 20.000 – 14.400 năm trước.
Phạm vi Di sản hang Covalanas, Cantabria, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng hang Covalanas, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Covalanas, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Santimamiñe
Hang Santimamiñe (Cueva de Santimamiñe) nằm trên đồi Erenozar với cao độ đỉnh 446,5m so với mực nước biển, (N43 20 47,00 W2 38 12,00); Diện tích vùng đệm 98,8 ha.
Hang được người dân địa phương khám phá vào năm 1916; việc nghiên cứu bắt đầu vào năm 1918.
Đây là một trong những địa điểm khảo cổ quan trọng, bao gồm một chuỗi gần như hoàn chỉnh từ thời kỳ Đồ đá giữa đến thời kỳ Đồ sắt.
Hang Santimamiñe có một cửa hang, nằm tại phía nam của sườn núi, tại cao độ 150m so với mực nước biển. Đây là một hang động kéo dài với các lối đi bên cạnh và lối xuống các đoạn hang thấp hơn.
Trong hang, nghệ thuật hang động tập trung chủ yếu tại 4 khu vực hang.
Hang được biết đến với những bức tranh tường giai đoạn Magdalenian (vào khoảng 17.000- 12.000 năm trước đây) mô tả bò rừng, ngựa, dê núi và hươu. Tại đây xuất hiện bức tranh về một con gấu màu đen.
Phạm vi Di sản hang Santimamiñe, Cantabria, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng hang Santimamiñe, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Santimamiñe, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Ekain
Hang Ekain (Cueva de Ekain) nằm tại phía đông của đồi Ekain với cao độ đỉnh là 275,2m so với mực nước biển, gần Sastarrain, thuộc thị trấn Deba (N43 14 9,00 W2 16 31,00); Diện tích vùng đệm 14,59 ha.
Hang được phát hiện vào năm 1969. Hang có một lối vào, nằm tại phía đông sườn núi. Bên trong được chia thành các hang nhỏ: Erdibide, Auntzei, Erdialde, Zaldei, Artzei và Azkenzaldei.
Trong hang có các bức tranh với niên đại từ thời kỳ Magdalenian, vào khoảng 17.000- 12.000 năm trước.
Tại hang Ekain có một bức tranh nổi bật được gọi là “Bức chạm ngựa” (panel de los caballos), được cho là một trong những bức tranh miêu tả nhóm ngựa đẹp nhất trong nghệ thuật hang động vùng Cantabria. Bức chạm bao gồm 18 hình, trong đó có 11 hình ngựa. Các hình không chồng lên nhau, đường viền của hình màu đen.
Ngựa là con vật được thể hiện nhiều nhất trong các bức vẽ. Màu vẽ chủ yếu là màu đen được tạo ra bởi than hoặc mangan và màu đỏ là khoáng chất tự nhiên của ôxít sắt.
Tại đây tìm thấy 70 bức tranh, gồm 64 bức vẽ sơn màu và 6 bức khắc. Ngoài hình ngựa, tại đây còn có các hình động vật khác như hươu, nai, dê, bò rừng, gấu, cá hồi, chim…
Nhiều chuyên gia cho rằng, các hình vẽ trong hang không phải là săn bắn mà có thể vẽ lại hình ảnh những con vật mà họ đã ăn thịt.
Tại đây đã tìm thấy các bằng chứng về sự hiện diện của con người, là 4 ngôi nhà. Trong đó có các tàn tích của thực phẩm, đá và xương được chế tác. Đây là nơi lưu trú của con người, chủ yếu vào mùa đông.
Phạm vi Di sản hang Ekain, Cantabria, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng hang Ekain, Cantabria, Tây Ban Nha
Sơ đồ hình vẽ trong hang Ekain, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Ekain, Cantabria, Tây Ban Nha
Hang Altxerri
Hang Altxerri (Cueva de Altxerri) nằm tại sườn phía đông của núi Beogarate với cao độ 151,6m so với mực nước biển, gần thị trấn Orio (N43 16 7,00 W2 8 2,00); Diện tích vùng đệm 15 ha.
Hang có một cửa ra vào tại sườn núi phía đông.
Hang được phát hiện vào năm 1956, khi người ta khai thác đá để xây dựng đường.
Hang động lưu giữ những bức tranh và bản khắc trên đá có niên đại chủ yếu từ cuối giai đoạn Magdalenian (khoảng 17.000- 12.000 năm trước đây). Một số bức tranh đặc biệt có niên đại 39.000 năm trước đây, thuộc một trong những bức tranh vẽ trên đá lâu đời nhất châu Âu.
Hang Altxerri sở hữu một trong những bộ điêu khắc trên đá lớn nhất trong khu vực. Nó chứa khoảng 7 nhóm hình ảnh và bản khắc với 120 bản khắc, trong đó có 92 bản khắc động vật.
Bò rừng là động vật nhất thể hiện, với tổng cộng 53 bản. Các loài động vật khác có mặt trong hang là tuần lộc, hươu, dê, ngựa, linh dương, sói, cáo, thỏ rừng và chim.
Phạm vi Di sản hang Altxerri, Cantabria, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng hang Altxerri, Cantabria, Tây Ban Nha
Hình vẽ trong hang Altxerri, Cantabria, Tây Ban Nha
Di sản Hang động Altamira và Nghệ thuật hang động thời kỳ đồ đá cũ tại miền Bắc Tây Ban Nha cùng với Hang động Lascaux (Cueva de Lascaux, tại Dordogne, Pháp) được coi là một trong những khu bảo tồn thời Tiền sử chính của châu Âu.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
https://whc.unesco.org/en/list/310/
https://en.wikipedia.org/wiki/Spain
https://en.wikipedia.org/wiki/Cave_painting
https://en.wikipedia.org/wiki/Caves_in_Cantabria
https://en.wikipedia.org/wiki/Cave_of_Altamira_and_Paleolithic_Cave_Art_of_Northern_Spain
https://en.wikipedia.org/wiki/Cave_of_Altamira
https://www.bradshawfoundation.com/spain/altamira/index.php
http://www.rupestre.net/tracce/?p=13077
http://jadonceld.blogspot.com/2012/12/
https://www.familyholiday.net/cave-of-altamira-sistine-chapel-of-rock-art-northern-spain/
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_la_Pe%C3%B1a_de_Candamo
https://en.wikipedia.org/wiki/Tito_Bustillo_Cave
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_La_Covaciella
https://www.atlasobscura.com/places/el-pindal-cave
https://en.wikipedia.org/wiki/Cave_of_Chuf%C3%ADn
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_Hornos_de_la_Pe%C3%B1a
https://en.wikipedia.org/wiki/Caves_of_Monte_Castillo
https://en.wikipedia.org/wiki/Cave_of_El_Castillo
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_Las_Monedas
https://en.wikipedia.org/wiki/Cave_of_La_Pasiega
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_Las_Chimeneas
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_El_Pendo
https://en.wikipedia.org/wiki/La_Garma_cave_complex
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_Covalanas
https://en.wikipedia.org/wiki/Santimami%C3%B1e
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_Ekain
https://es.wikipedia.org/wiki/Cueva_de_Altxerri
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|