Thông tin chung:
Công trình: Trung tâm lịch sử Cordoba (Historic Centre of Cordoba)
Địa điểm: Cordoba, Cộng đồng tự trị Andalusia, Spain (N37 52 45,1 W4 46 47)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 80,28ha
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (năm 1984, gia hạn năm 1994, hạng mục i, ii, iii, iv)
Tây Ban Nha (Spain) là một quốc gia ở Tây Nam Châu Âu với một số vùng lãnh thổ tại eo biển Gibraltar và Đại Tây Dương.
Lãnh thổ lục địa Châu Âu của Tây Ban Nha nằm trên Bán đảo Iberia (Iberian Peninsula, góc tây nam châu Âu, gồm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Andorra, một phần nhỏ của Pháp và Gibraltar, lãnh thổ hải ngoại của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland).
Tây Ban Nha cũng bao gồm hai quần đảo: Quần đảo Canary ngoài khơi Bắc Phi và Quần đảo Balearic ở Địa Trung Hải. Các vùng đất châu Phi gồm Ceuta, Melilla và Peñón de Vélez de latylesra khiến Tây Ban Nha trở thành quốc gia châu Âu duy nhất có biên giới thực với một quốc gia châu Phi (Maroc).
Một số hòn đảo nhỏ ở Biển Alboran cũng là một phần của lãnh thổ Tây Ban Nha.
Đất liền của Tây Ban Nha giáp với phía nam và đông biển Địa Trung Hải; về phía bắc và đông bắc giáp Pháp, Andorra và Vịnh Biscay; về phía tây và tây bắc lần lượt là Bồ Đào Nha và Đại Tây Dương.
Tây Ban Nha có diện tích 505.990 km2; dân số 47,43 triệu người (năm 2020); Thủ đô và thành phố lớn nhất là Madrid.
Con người hiện đại đầu tiên đến Bán đảo Iberia vào khoảng 35.000 năm trước.
Các nền văn hóa Iberia cùng với các nền văn hóa Phoenicia, Hy Lạp (Ancient Greece), Celts và Carthage (Carthaginian Iberia) cổ đại đã phát triển trên bán đảo cho đến khi nằm dưới sự cai trị của La Mã vào khoảng năm 200 trước Công nguyên (TCN).
Vào cuối thời kỳ Đế chế Tây La Mã (Western Roman Empire, tồn tại năm 395–476/480), người Germanic và các bộ tộc liên minh đã di cư từ Trung Âu đến xâm chiếm Bán đảo Iberia và thiết lập các vương quốc tương đối độc lập ở phía tây của bán đảo. Một trong số họ là người Visigoth, đã hợp nhất tất cả các lãnh thổ độc lập còn lại trên bán đảo, bao gồm cả tỉnh Byzantine của Spania vào Vương quốc Visigothic (Visigothic Kingdom, tồn tại năm 418 – 721).
Vào đầu thế kỷ 8, Vương quốc Visigothic đã bị chinh phục bởi Vương quốc Hồi giáo Umayyad (Umayyad Caliphate, tồn tại năm 661–750, thủ đô là Damascus, Syria, Tây Á ngày nay).
Một số vùng đất Cơ đốc giáo ở phía bắc Bán đảo Iberia nằm ngoài sự cai trị của người Hồi giáo, cùng với sự xuất hiện của Đế chế Carolingian (Carolingian Empire, tồn tại năm 800–888) đã dẫn đến sự hình thành các tiểu vương quốc Cơ đốc giáo như León, Castile, Aragon, Navarre và Bồ Đào Nha.
Hơn bảy thế kỷ, sự mở rộng về phía nam Bán đảo Iberia của các vương quốc này lên đến đỉnh điểm với việc Cơ đốc giáo xóa bỏ chính thể Hồi giáo cuối cùng, Vương quốc Granada (Emirate of Granada, tồn tại năm 1230–1492) vào năm 1492, cùng năm Christopher Columbus (nhà thám hiểm người Ý, 1451- 1506) đến Tân Thế giới.
Quá trình tập hợp chính trị giữa các tiểu vương quốc Cơ đốc giáo cũng diễn ra ngày sau đó. Vào cuối thế kỷ 15, chứng kiến sự hợp nhất giữa các tiểu vương quốc Castile và Aragon thành Vương quốc Công giáo Tây Ban Nha (Catholic Monarchs of Spain). Sự thống nhất với tiểu vương quốc Navarre diễn ra vào năm 1512.
Đế chế Tây Ban Nha (Spanish Empire/ Chế độ quân chủ Thiên chúa giáo Tây Ban Nha, tồn tại năm 1492–1976) đã liên minh với Vương quốc Bồ Đào Nha (Kingdom of Portugal, tồn tại năm 1139–1910) để thành lập Vương triều Hapsburg (Habsburg Spain, tồn tại năm 1516–1700).
Các nhà cai trị Habsburg đã đạt đến đỉnh cao về ảnh hưởng và quyền lực: Kiểm soát lãnh thổ bao gồm Châu Mỹ, Đông Ấn; các nước Spanish Netherlands, Bỉ, Luxembourg và một phần lãnh thổ hiện thuộc Ý, Pháp và Đức ở Châu Âu; Vương quốc Bồ Đào Nha (từ năm 1580 - 1640) và nhiều vùng lãnh thổ nhỏ khác như Ceuta và Oran ở Bắc Phi.
Giai đoạn lịch sử Tây Ban Nha này còn được gọi là " Thời đại khám phá " (Age of Discovery).
Vào đầu thời kỳ hiện đại, Tây Ban Nha là một trong những đế chế lớn nhất trong lịch sử, cũng như là một trong những đế chế toàn cầu đầu tiên; tạo ra một di sản văn hóa và ngôn ngữ lớn với hơn 570 triệu người Hispanophones), khiến tiếng Tây Ban Nha trở thành ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ), được nói nhiều thứ hai trên thế giới sau tiếng Quan Thoại Trung Quốc (Mandarin Chinese).
Tây Ban Nha là nơi có số lượng Di sản Thế giới được UNESCO công nhận lớn thứ ba thế giới. Tính đến tháng 7 năm 2019, Tây Ban Nha có tổng số 48 địa điểm được ghi trong danh sách, chỉ đứng sau Trung Quốc (55) và Ý (55).
Ngày nay, Tây Ban Nha được chia thành 17 cộng đồng tự trị và 2 thành phố tự trị. Các cộng đồng tự trị (vùng, bang) được chia thành 50 tỉnh (khu vực).
Córdoba là một thành phố thủ phủ của tỉnh Córdoba thuộc Cộng đồng tự trị (vùng) Andalusia, miền nam Tây Ban Nha, nằm tại độ cao 106m so với mực nước biển, diện tích 1253km, dân số 326 ngàn người (năm 2018).
Bản đồ Tây Ban Nha và vị trí của thành phố Córdoba
Córdoba là một khu định cư, nằm ở hai bên sông Guadalquivir, được thành lập bởi người La Mã (Ancient Rome, tồn tại năm 753 TCN - 476 sau Công nguyên) vào thế kỷ thứ 2 TCN.
Thành phố Cordoba là một địa điểm trên tuyến hành lang kinh tế quan trọng giữa khu vực cao nguyên phía bắc và cảng biển phía nam, nơi sản phẩm hàng hóa từ khai thác mỏ và nông nghiệp được xuất khẩu.
Bằng chứng về thời kỳ La Mã có thể được nhìn thấy qua Cầu La Mã (Puente Romano) với 16 nhịp bắc qua sông Guadalquivir, các cột của đền thờ La Mã, phần còn lại của các bức tường La Mã và chi tiết trang trí trong dinh thự, nhà tắm của người Hồi giáo.
Vào thế kỷ thứ 8, Córdoba trở thành kinh đô của Tiểu vương quốc Córdoba (Emirato de Córdoba, tồn tại năm 756- 929), là phần lãnh thổ mở rộng của Vương triều Hồi giáo Umayyad (Umayyad Caliphate, tồn tại năm 661- 750, thủ đô là Damascus, Syria). Sự thành lập Tiểu vương quốc Córdoba đánh dấu sự khởi đầu 700 năm thống trị của người Hồi giáo trên Bán đảo Iberia.
Trong cuộc chiến tranh giành quyền lực, Córdoba bị người Hồi giáo phá hủy hầu hết vào năm 711- 712.
Năm 929, thời vua Abderraman III (trị vì năm 929 – 961), Córdoba trở thành kinh đô của vương quốc độc lập Córdoba (Caliphate of Córdoba, tồn tại năm 929–1031). Vào năm 1000, Vương quốc Córdoba có diện tích khoảng 600.000 km2, dân số khoảng 10 triệu người.
Bản đồ Vương quốc Córdoba (Caliphate of Córdoba) vào khoảng năm 1000
Tiếp đó, Córdoba nằm dưới quyền cai trị của Vương triều Tây Ban Nha Hồi giáo (Al-Andalus, tồn tại năm 756 – 1031, là khu vực do người Hồi giáo cai trị trên Bán đảo Iberia).
Trong những thời kỳ Hồi giáo này, Córdoba chuyển đổi thành một trung tâm giáo dục và học tập hàng đầu thế giới, nơi sản sinh ra những nhân vật lịch sử như: Averroes (học giả, cha đẻ của Chủ nghĩa Duy lý, năm 1126- 1198), Ibn Hazm (học giả, cha đẻ của Tôn giáo So sánh, nhà tư tưởng hàng đầu thế giới Hồi giáo, năm 994- 1064), Al-Zahrawi (bác sĩ, cha đẻ của Phẫu thuật hiện đại với một bộ bách khoa 30 tập về thực hành y tế, năm 936- 1013). Thành phố đạt đến thời kỳ vinh quang nhất, khi khoảng 300 nhà thờ Hồi giáo cùng vô số cung điện, dinh thự và công trình công cộng được xây dựng để sánh ngang với sự lộng lẫy của thành phố Constantinople (kinh đô Đế quốc Byzantine/Đông La Mã, nay là Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ), Damascus (kinh đô của Syria) và Baghdad (kinh đô của Iraq).
Năm 785 Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba (Mosque Cathedral of Córdoba), công trình trung tâm của kinh đô Córdoba được xây dựng.
Vào thế kỷ 13, dưới thời Ferdinand III (vua của Castile, trị vì năm 1217- 1252 và vua của Leon, trị vì năm 1230 – 1252), Nhà thờ Hồi giáo Córdoba trở thành Nhà thờ Công giáo và xuất hiện các công trình phòng thủ mới, đặc biệt là Pháo đài Alcazar Monarch Christian (Alcazar de los Reyes Cristianos) và Tháp Calahorra (Torre Foraleza de la Calahorra). Mặc dù đã mất đi ý nghĩa chính trị dưới sự cai trị của Cơ đốc giáo, nhưng thành phố vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong thương mại nhờ khai thác mỏ đồng Sierra Morena gần đó.
Trung tâm Lịch sử của Cordoba hiện bao gồm các đường phố xung quanh Nhà thờ lớn Hồi giáo Cordoba. Khu vực này mở rộng đến bờ bên kia sông GuadaIquivir (bao gồm Cầu La Mã và Tháp Calahorra) ở phía nam; tuyến phố thương mại cổ Calle San Fernando (Phố Hội Chợ) ở phía đông; đến ranh giới của Trung tâm thương mại ở phía bắc, Pháo đài AIcázar de los Reyes Cristianos và khu vực San Basilio ở phía tây.
Theo quy mô, cấu trúc quy hoạch và ý nghĩa lịch sử, Trung tâm lịch sử của Cordoba như một biểu hiện sống động của các nền văn hóa khác nhau đã cùng tồn tại hàng ngàn năm: La Mã, Visigoth, Hồi giáo, Do Thái giáo và Cơ đốc giáo; quan hệ của nó với dòng sông Guadalquivir; và là một quần thể có giá trị văn hóa phi thường.
Trung tâm Lịch sử của Cordoba phản ánh lịch sử phức tạp của đô thị và kiến trúc đạt được trong thời kỳ La Mã và sự huy hoàng của thành phố Hồi giáo trong thế kỷ 8 – 10; trở thành một trong những đại diện cho các địa điểm văn hóa và đô thị chính ở thế giới phương Tây.
Tại đây vẫn còn lưu giữ được sự hoành tráng và độc đáo nổi bật của các khu dân cư với những ngôi nhà truyền thống được xây dựng bao quanh sân trong (kiểu nhà Casa-patio) và là ví dụ điển hình nhất về nhà ở tại Cordoban; Nơi đây, các công trình nguồn gốc La Mã với nét đặc trưng của vùng Andalucia, được bổ sung và nâng cấp bởi sự hiện diện của nước, thực vật trong cuộc sống hàng ngày.
Trung tâm Lịch sử của Cordoba tạo ra khung cảnh đô thị và cảnh quan hoàn hảo cho Nhà thờ lớn Hồi giáo Cordoba. Nhà thờ là minh chứng không thể thay thế về sự tồn tại của vương quốc độc lập Córdoba (Caliphate of Córdoba) và là một trong những tượng đài tiêu biểu nhất của kiến trúc tôn giáo Hồi giáo.
Nhà thờ đại diện cho một thành tựu nghệ thuật độc đáo do kích thước, cũng như sự táo bạo tuyệt đối về cấu trúc vòm đỡ trần nhà.
Đây là nhà thờ lớn thứ hai về diện tích bề mặt, sau Nhà thờ lớn Hồi giáo tại Thánh địa Mecca (Holy Mosque in Mecca, Ả Rập Xê Út); trước đây chỉ có Nhà thờ Hồi giáo Xanh (Blue Mosque/ Sultan Ahmed Mosque, xây dựng năm 1609- 1616) tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ là có thể so sánh cùng vị thế.
Nhà thờ lớn Hồi giáo Cordoba là một kiểu nhà thờ Hồi giáo đặc sắc, thể hiện được sự hiện diện của Hồi giáo ở phương Tây và có ảnh hưởng lớn đối với nghệ thuật Hồi giáo phương Tây kể từ thế kỷ thứ 8, tương tự như ảnh hưởng tới phong cách Tân Moorish (Neo-Moorish Style) vào thế kỷ 19.
Về kỹ thuật kiến trúc, Trung tâm Lịch sử của Cordoba là môi trường ứng dụng các kỹ thuật xây dựng tiến tiến thời bấy giờ, của cả nền văn minh Ả Rập và Cơ đốc giáo. Công nghệ xây dựng đá và gạch thể hiện tích hợp kỹ thuật của người La Mã và người Visigoth.
Bên cạnh việc tiếp thu các yếu tố kỹ thuật và nghệ thuật từ bên ngoài, tại đây còn nảy sinh và định hình nhiều thành tựu mới đặc sắc, ví dụ:
Sử dụng vòm kép để nâng đỡ mái nhà, tạo nên các chi tiết chưa từng có trong kiến trúc Hồi giáo.
Sử dụng chi tiết trang trí đầu cột dạng tổ ong (“Honeycomb”), đặc trưng của Nghệ thuật Hồi giáo Caliph (Caliph Art), khác hẳn với chi tiết trang trí đầu cột kiểu Corinth (Corinthian Order), đặc trưng của Nghệ thuật Hy Lạp – La Mã. Chính điều khác biệt này đã có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc Tây Ban Nha.
Tương tự như vậy, việc sử dụng đan xen kết cấu Vòm có gân (Rib Vault) với hệ thống các Vòm hình trứng (Ovulate Arches) đã mang lại sự ổn định và vững chắc cho cấu trúc xây dựng. Sự xuất hiện loại vòm này tại đây là một cột mốc kiến trúc quan trọng, trước cả một trăm năm khi Vòm có gân xuất hiện ở Pháp.
Trung tâm lịch sử Cordoba, vùng Andalusia, Tây Ban Nha được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Nhà thờ lớn Hồi giáo vĩ đại của Cordoba, với kích thước và nội thất bên trong táo bạo, là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo không thể bắt chước và là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
Tiêu chí (ii): Với đặc sắc nổi bật, Nhà thờ lớn Hồi giáo Cordoba đã có một ảnh hưởng đáng kể đến nghệ thuật Hồi giáo phương Tây từ thế kỷ thứ 8, cũng như sự phát triển của phong cách Tân Moorish (Neo-Moorish Style) thế kỷ 19.
Tiêu chí (iii): Trung tâm Lịch sử Córdoba là bằng chứng độc đáo liên quan đến tồn tại của vương quốc độc lập Córdoba (Caliphate of Córdoba, tồn tại năm 929-1031); Theo truyền thuyết, Córdoba có tới 300 nhà thờ Hồi giáo và vô số cung điện, là đối thủ của các thành phố Hồi giáo vĩ đại như Constantinople, Baghdad.
Tiêu chí (iv): Đây là một ví dụ nổi bật về kiến trúc tôn giáo Hồi giáo.
Phạm vi Di sản Trung tâm lịch sử Cordoba, vùng Andalusia, Tây Ban Nha
Vị trí một số công trình chính trong Trung tâm lịch sử Cordoba, vùng Andalusia, Tây Ban Nha
Di sản Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Tây Ban Nha gồm các di tích chính:
Cầu La Mã
Cầu La Mã (Puente Romano) nằm trên sông Guadalquivir, nối liền khu vực Campo de la Verdad với Barrio de la Catedral. Đây là cây cầu duy nhất của thành phố trong 20 thế kỷ, cho đến khi cầu San Rafael được xây dựng vào giữa thế kỷ 20.
Cầu được xây dựng vào đầu thế kỷ 1 TCN, trong thời kỳ cai trị của người La Mã ở Córdoba. Ban đầu, có thể làm bằng gỗ.
Cấu trúc Cầu hiện nay có niên đại từ cuộc tái thiết của người Moorish (cư dân Hồi giáo tại vùng Maghreb, Bán đảo Iberia, Sicily và Malta thời Trung cổ) vào thế kỷ thứ 8.
Cầu có chiều dài 247m, rộng khoảng 9m với 16 vòm cầu, được xây dựng bằng đá.
Đầu phía phía nam của Cầu là Tháp Calahorra (Calahorra Tower). Tháp có nguồn gốc Hồi giáo, được dựng lên bởi Đế chế Hồi giáo Almohad Caliphate (tồn tại năm 1121–1269, kiểm soát phần lớn bán đảo Iberia và Maghreb, Bắc Phi). Đầu phía bắc của Cầu là Cổng Puerta del Puente. Cổng được xây dựng vào thế kỷ 16, theo phong cách Phục hưng (Renaissance), để kỷ niệm chuyến thăm thành phố của Vua Tây Ban Nha Philip II (trị vì năm 1556 – 1598).
Cầu được trùng tu và cải tạo nhiều lần, đặc biệt vào thế kỷ 10. Hiện tại chỉ còn các vòm thứ 14 và 15, tính từ phía bắc, là còn nguyên bản.
Vào thế kỷ 17, một tác phẩm điêu khắc mô tả Thánh Raphael được đặt ở giữa cầu.
Hiện tại, Cầu La Mã chỉ dành cho người đi bộ.
Phối cảnh Cầu La Mã, Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Tây Ban Nha
Cổng Puerta del Puente, đầu phía bắc Cầu La Mã, Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Tây Ban Nha
Tháp Calahorra
Tháp Calahorra (Torre Calahorra) nằm tại bờ nam sông Guadalquivir, là một pháo đài Hồi giáo, như lối vào và là tháp bảo vệ Cầu La Mã. Công trình được dựng lên trong thời kỳ cai trị của Đế chế Hồi giáo Almohad Caliphate (tồn tại năm 1121–1269).
Tòa tháp có mặt bằng hình khối gồm 2 tháp; giữa có một cổng tò vò, lối vào thành phố.
Bên trong Tòa tháp có các phòng, đặt theo 3 tầng và có một sân tại tầng thượng. Trung tâm tháp là phòng lớn có mặt bằng hình chữ nhật, các phòng nhỏ hơn có mặt bằng hình vuông bố trí xung quanh.
Bên ngoài và bên trong Tháp hầu như không có trang trí kiến trúc.
Vào năm 1514, giai đoạn xuất hiện thuốc súng, Tòa tháp xuất hiện thêm các lũy vòng ngoài (Barbican).
Tòa tháp đã trải qua nhiều lần thay đổi mục đích sử dụng, ví dụ như nhà tù, trung tâm giáo dục nữ, doanh trại của lực lượng bảo vệ dân sự.
Ngày nay, Tòa tháp trở thành một Bảo tàng (Museo Vivo de al-Ándalus), nơi trưng bày tổng quan văn hóa thời hoàng kim của Córdoba vào thế kỷ 9 – 13, gắn với sự chung sống của các nền văn hóa Cơ đốc, Do Thái và Hồi giáo vùng Andalusia, Tây Ban Nha.
Tháp Calahorra đầu phía nam Cầu La Mã, Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Tây Ban Nha
Bên trong Tháp Calahorra, Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Tây Ban Nha; Ngày nay trở thành Bảo tàng
Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba
Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba (Mosque Cathedral of Córdoba/ Mezquita Catedral) nằm tại bờ bắc sông Guadalquivir, được xây dựng trong thời gian rất ngắn, 2 năm, từ năm 784 - 786.
Vua Abd al-Rahman I (trị vì năm 756- 788, là người sáng lập Vương triều Ả Rập cai trị phần lớn Bán đảo Iberia trong gần 3 thế kỷ) đã cho xây dựng Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba vào năm 785, khi Córdoba là trung tâm của vùng Al-Andalus do người Hồi giáo kiểm soát. Đây cũng là giai đoạn Córdoba trở thành kinh đô của Tiểu quốc Córdoba (Emirato de Córdoba, tồn tại năm 756- 929).
Công trình được mở rộng nhiều lần sau đó cho đến thế kỷ 10.
Nhà thờ Hồi giáo được chuyển đổi thành nhà thờ Công giáo vào năm 1236 khi Córdoba bị lực lượng Thiên chúa giáo của Vương triều Castile (Crown of Castile, tại Bán đảo Iberia, tồn tại năm 1230–1715) chinh phục.
Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba được coi là một di sản quan trọng trong lịch sử kiến trúc Hồi giáo và được nhiều học giả cho là có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc "Moorish" sau này tại khu vực phía tây Địa Trung Hải, thuộc thế giới Hồi giáo.
Ngày nay, chỉ có những người theo Thiên chúa giáo mới được thờ phụng trong Nhà thờ. Những người theo Hồi giáo vẫn tiếp tục kiến nghị để được phép cầu nguyện tại đây.
Phối cảnh tổng thể Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba, Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba, Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt cắt ngang Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba, Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Tây Ban Nha
Nhà thờ Hồi giáo Córdoba giai đoạn trước năm 1236
Mặt bằng Nhà thờ Hồi giáo Córdoba ban đầu gồm khu vực cầu nguyện tại phía nam và một sân trong tại phía bắc.
Khu vực cầu nguyện có mặt bằng gần như hình vuông, kích thước 74m x 79m, được xây dựng theo từng giai đoạn, tạo thành 4 khối.
Khối đầu tiên xây dựng vào năm 785 - 786, dưới thời vua Abd ar - Rahman I (Abderramán I, trị vì năm 756 – 788) thuộc Tiểu vương triều Córdoba (Emirate of Córdoba, tồn tại năm 756 – 929), gồm 11 nhịp nhà và các bước gian với hàng cột nhỏ đỡ vòm mái (phong cách Hypostyle). Phía trên mỗi vòm mái lại có một vòm trang trí. Dọc theo tường biên nhà có các bổ trụ tường. Thời gian xây dựng tương đối ngắn, có thể được hỗ trợ bởi việc tái sử dụng vật liệu của người La Mã và người Visigoth hiện có trong khu vực, đặc biệt là hệ thống cột và đầu cột. Thợ xây dựng có thể bao gồm người Iberia địa phương cũng như người gốc Syria (Vương triều Umayyad Caliphate). Có nhiều suy đoán về khởi nguồn của kiểu vòm kép 2 tầng tại đây: Cảm hứng từ rừng cây cọ tại Syria; Sử dụng cột có sẵn không đủ cao để nâng trần lên độ cao mong muốn nên phải bổ sung thêm vòm phụ. Cảm hứng từ mái vòm nhiều tầng của cầu dẫn nước La Mã Milagros (Acueducto de los Milagros tại Merida, Tây Ban Nha)…
Khối thứ hai xây dựng vào năm 833-848, dưới thời vua Abd ar - Rahman II (trị vì năm 822 – 852), thuộc Tiểu vương triều Córdoba (Emirate of Córdoba), gồm 11 nhịp nhà, song có số bước gian ít hơn.
Khối thứ ba xây dựng vào năm 961- 971, dưới thời vua Al- Hakam II (trị vì năm 961- 976), thuộc Vương triều Córdoba (Caliphate of Córdoba, tồn tại năm 929–1031); có kích thước mặt bằng như khối xây dựng đầu tiên, song dọc theo tường phía nam có thêm một bức tường cầu nguyện Qibla, Mihrab (hốc tường hình bán nguyệt trong nhà thờ Hồi giáo, là hướng mà người Hồi giáo phải đối mặt khi cầu nguyện) và Maqsura (không gian cầu nguyện giành riêng cho nhà cai trị Hồi giáo và tuỳ tùng, đặt gần Mihrab hoặc bức tường cầu nguyện Qibla). Bức tường cầu nguyện Qibla không hướng về Mecca tại hướng đông mà chếch 51 độ về phía nam. Đây là điều được cho là phổ biến tại nhà thờ Hồi giáo vùng Andalusia.
Khối thứ tư xây dựng vào năm 987-988, dưới thời quan chấp chính Al- Mansur (Almanzor, năm 938 – 1002), thuộc Vương triều Córdoba (Caliphate of Córdoba), gồm 8 nhịp nhà và có chiều dài khối nhà bằng cả 3 khối xây dựng đầu tiên và phần phía đông của Sân trong. Thiết kế mái vòm Phòng cầu nguyện vẫn tương tự như các khối nhà xây dựng trước, song chi tiết của các đầu cột đã được đơn giản hóa.
Việc mở rộng diện tích trong giai đoạn này đã biến Nhà thờ Hồi giáo lớn Córdoba trở thành một trong những nhà thờ Hồi giáo lớn nhất thời bấy giờ với diện tích lên đến 23400m2.
Sân trong tại phía bắc của Nhà thờ Hồi giáo lớn là sân rộng có tường bao xung quanh, bên trong là vườn cây. Đây được coi là một trong những khu vườn Hồi giáo được trồng liên tục lâu đời nhất trên thế giới.
Sân trong được đánh giá là sự kết hợp tuyệt vời giữa kiến trúc và làm vườn; giữa nội thất và ngoại thất, tạo một không gian liên tục, phản ánh sự tinh tế của văn hóa Al-Andalus và Caliphal Córdoba, nơi vào khoảng những năm 1000, là một trong những thành phố đông dân nhất thế giới với hơn 1 triệu dân và là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng.
Cây trồng trong vườn là cây cọ, cây bách và cây ô liu (cung cấp dầu cho đèn của Nhà thờ). Nước tưới cho vườn là các tuyến kênh nổi bằng đá (hiện đã bị thay thế bằng các tuyến kênh mới). Bên trong sân có đài phun nước, là nơi để người Hồi giáo làm lễ trước khi vào cầu nguyện.
Cuộc khai quật vào năm 2001, đã phát hiện một bể chứa nước lớn (Aljibe de Almanzor/ Almansur Becken, hình vẽ ký hiệu 5) nằm tại phía đông của Sân trong, tương ứng với thời kỳ mở rộng dưới thời quan chấp chính Almanzor (vì vậy bể chứa được gọi theo tên ông). Bể sâu khoảng 10m, có sức chứa 1237m3 nước, được tạo bởi 9 mô đun không gian dạng vòm có kích thước mặt bằng 5m x 5m.
Trên tường bao Sân trong, chếch về phía tây bắc là một Tháp cầu nguyện (hình vẽ ký hiệu 1). Tháp được xây dựng vào năm 951-952, dưới thời vua Abd ar - Rahaman III (trị vì năm 929- 961), thuộc Vương triều Caliphate Córdoba.
Tháp cầu nguyện cao 47m, có phần đế hình vuông với kích thước 8,5m mỗi cạnh. Tháp có hai cầu thang cho lối lên và xuống riêng biệt. Bề mặt của tháp có các bộ cửa sổ hình vòm để trang trí và lấy ánh sáng.
Nhà thờ Hồi giáo Córdoba ban đầu có 4 cổng vào: 1 cổng tại trung tâm của bức tường phía bắc của Sân trong; 2 cổng vào tại tường phía đông và tây Sân trong. 1 cổng vào ở giữa bức tường phía tây Khu cầu nguyện (có thể là lối vào của các tiểu vương và quan chức nhà nước). Cổng chính này có tên Bab al-Wuzara/ Cổng Viziers, ngày nay được gọi là Puerta de San Esteban.
Các bức tường bao Nhà thờ được gia cố bởi các trụ tường lớn.
Năm 1146, quân đội Cơ đốc giáo của vua Alfonso Vll của Léon và Castile (Alfonso VII of León and Castile, trị vì năm 1126 – 1157) đã chiếm đóng Córdoba và Nhà thờ lớn Hồi giáo Córdoba đã bị cướp gần như toàn bộ đồ đạc có giá trị. Vào năm 1162, công trình được phục hồi.
Các cột và mái vòm hai tầng trong phần ban đầu của Nhà thờ Hồi giáo lớn; Trung tâm lịch sử Cordoba, Andalusia, Spain
|