
Thông tin chung:
Công trình: Thành phố cổ Polonnaruwa (Ancient City of Polonnaruwa)
Địa điểm: Huyện Polonnaruva, tỉnh North Central, Sri Lanka (N7 54 57 E81 0 2)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm thực hiện:
Giá trị: Di sản thế giới (1982; hạng mục i, iii, vi)
Sri Lanka là một quốc đảo ở Nam Á, thuộc Ấn Độ Dương, tách về mặt địa lý với tiểu lục địa Ấn Độ bởi vịnh Mannar và eo biển Palk.
Sri Lanka có diện tích 65.610 km2, dân số 21,8 triệu người (2019).
Thủ đô là thành phố Sri Jayawardenepura Kotte. Colombo là thành phố và trung tâm thương mại lớn nhất.
Sri Lanka là nơi có nhiều nền văn hóa, ngôn ngữ và sắc tộc. Ngôn ngữ chính thức là Sinhala và Tamil.
Về mặt hành chính, Sri Lanka được chia thành 9 tỉnh và 25 huyện.
Lịch sử của Sri Lanka kéo dài 3.000 năm. Các khu định cư của người tiền sử có niên đại ít nhất 125.000 năm.
Sri Lanka có một di sản văn hóa phong phú, đặc biệt là nơi lưu giữ các bản Kinh Phật đầu tiên (Pāli Canon) từ năm 29 trước Công nguyên TCN).
Sri Lanka với vị trí địa lý và bến cảng nước sâu có một tầm quan trọng chiến lược từ thời Con đường Tơ Lụa (Silk Road) trên đất liền cho đến các Con đường Tơ Lụa trên biển (Maritime Silk Road).
Sri Lanka đã trải qua một số vương quốc nổi bật:
Vương quốc Tambapanni (Kingdom of Tambapanni, tồn tại 543 – 437 TCN);
Vương quốc Anuradhapura (Anuradhapura Kingdom, tồn tại 437 TCN - 1017 sau Công nguyên);
Vương quốc Chola (đến từ miền Nam Ấn Độ) lật đổ Vương quốc Anuradhapura (Chola-occupied Anuradhapura, tồn tại 1017 - 1055);
Vương quốc Polonnaruwa (Kingdom of Polonnaruwa, tồn tại 1055 - 1232);
Vương quốc Dambadeniya (Kingdom of Dambadeniya, tồn tại 1220 - 1345);
Vương quốc Gampola (Kingdom of Gampola, tồn tại 1345 - 412);
Vương quốc Kotte (Kingdom of Kotte, tồn tại 1412 - 1597);
Vương quốc Sitawaka (Kingdom of Sitawaka, tồn tại 1521 - 1594);
Vương quốc Kandy (Kingdom of Kandy, tồn tại 1591 - 1815).
Vào thời Vương quốc Anuradhapura, Sri Lanka đã trở thành một trung tâm thương mại lớn của cả vùng Viễn Đông. Việc buôn bán hàng hóa và gia vị của Sri Lanka đã thu hút thương nhân của nhiều quốc gia, tạo nên dân số đa dạng của Sri Lanka.
Người Bồ Đào Nha (Portuguese Ceylon) xuất hiện ở tại Sri Lanka, tìm cách kiểm soát các tuyến hàng hải đi qua khu vực vào những năm 1505- 1658.
Sau đó, người Hà Lan (Dutch Ceylon) tiếp quản tài sản của người Bồ Đào Nha vào những năm 1640- 1796.
Người Anh (British Ceylon) đến và kiểm soát hoàn toàn hòn đảo từ năm 1851- 1948.
Ngày 4/2/1948 Sri Lanka độc lập khỏi chế độ thực dân Anh.

Bản đồ Sri Lanka và vị trí của Thành cổ Polonnaruwa
Trong khoảng 1700 năm, từ thế kỷ 6 TCN đến đầu thế kỷ 13 sau Công nguyên, đảo Sri Lanka chia thành ba vùng lịch sử: Raja Rata; Malaya Rata và Ruhunu Rata. Raja Rata (nghĩa là: Vùng đất của vua) chịu sự quản lý trực tiếp của nhà vua; hai vùng còn lại do anh em nhà vua cai trị. 3 vùng như 3 thị quốc và lấy tên kinh đô làm tên tiểu vương quốc. Vùng Raja Rata có tên là vương quốc Anuradhapura bởi kinh đô là thành phố Anuradhapura.
Vào đầu thế kỷ 11, Vương quốc Chola (Chola Dynasty, đến từ miền Nam Ấn Độ) chiếm vùng Raja Rata và Malaya Rata (phía bắc đảo Sri Lanka), biến nơi đây trở thành thành thuộc địa (Chola-occupied Anuradhapura, tồn tại 1017 - 1055). Người Choi chuyển thủ phủ từ Anuradhapura về thành phố Polonnaruwa.
Năm 1055, sự chiếm đóng của người Chola trên vùng đất Raja Rata và Malaya Rata chấm dứt, mở đầu cho một vương quốc mới, Vương quốc Polonnaruwa (Kingdom of Polonnaruwa, tồn tại 1055 - 1232) hay còn gọi là Thời kỳ Polonnaruwa (Polonnaruwa period).

Sơ đồ 3 tiểu vùng thị quốc tại Sri Lanka (Thế kỷ 6 TCN – đầu thế kỷ 13 sau CN)

Sơ đồ thể hiện quy mô lớn nhất của Đế chế Chola, vào khoảng năm 1030; Vùng đất tô màu xanh: Lãnh thổ chinh phục; Vùng đất tô màu hồng: Lãnh thổ chịu ảnh hưởng; gắn với các tuyến đường thương mại (Trade Routes)
Vào thời Vua Prakramabahu I (trị vì năm 1153- 1186), 3 thị quốc nhỏ trên hòn đảo đã được thống nhất.
Kinh đô Polonnaruwa được mở rộng, quân đội được tổ chức lại, các hoạt động Phật giáo được cải cách, nghệ thuật được khuyến khích, thương mại và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Nhà vua xây dựng 3 lớp tường phòng thủ bao quanh Kinh đô với các tháp canh cho cung thủ. Thành có tới 14 cổng. Các lớp tường thành chia Kinh đô Polonnaruwa thành 3 khu vực: Thành Nội, Thành Trung và Thành Ngoại. Thành Nội là nơi làm việc và nơi ở của Hoàng gia. Thành Trung là nơi ở của quan lại và thị dân thuộc tầng lớp trung lưu. Thành Ngoại là nơi ở của tầng lớp bình dân và được chia thành các vùng. Mỗi vùng được đánh dấu bởi một thiền viện cho nhà tu hành và bệnh viện.
Dưới thời Vua Prakramabahu I, hệ thống thủy lợi phục vụ canh tác lúa được phát triển vượt trội so với trước đó với việc cải tạo và tái thiết 216 hồ chứa, kênh đào. Vĩ đại nhất là cụm hồ chứa Parakrama Samudra (Sea of Parakrama), nằm tại phía tây nam Kinh đô, có diện tích tới 2300ha, gồm 5 hồ chứa (wewa), dạng hồ ven biển (Coastal Reservoir) được nối với nhau bằng các kênh hẹp.
Vương quốc hoàn toàn tự cung tự cấp lương thực.
Vua Prakramabahu I còn biến đổi cả cung đình thành một trung tâm hoạt động văn hóa, thu hút các quý tộc trẻ thành thạo nhiều môn nghệ thuật khác nhau như cưỡi voi hoặc ngựa, kiếm thuật, sử dụng tiếng nước ngoài và múa hát.
Sri Lanka trở nên mạnh mẽ, có đủ con người, nguồn lực để tiến hành các chiến dịch quân sự tại vùng Nam Ấn Độ (South of India), vùng Hạ Miến Điện (Lower Burma) và tham gia tích cực vào tuyến đường thương mại trên biển (Trade Routes).
Thành phố cổ Polonnaruwa, kinh đô cổ xưa của Vương quốc Polonnaruwa, ngày nay thuộc tỉnh North Central, Sri Lanka, được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 1982) với các tiêu chí:
Thành phố cổ Polonnaruwa là kinh đô thứ hai của Sri Lanka, sau khi kinh đô đầu tiên Anuradhapura (Vương triều Anuradhapura) bị phá hủy vào năm 993. Bên cạnh các di tích Ấn Độ giáo (Bà La Môn giáo/ Brahmanic) do Vương quốc Chola (đến từ miền Nam Ấn Độ) xây dựng, Thành phố cổ còn lưu lại các di tích hoành tráng của thành phố vườn (Garden-City) được tạo ra bởi Vua Parakramabahu I vào thế kỷ 12. Các công trình xây dựng dưới thời Vua Prakramabahu I đã tạo nên một phần quan trọng trong lịch sử tư liệu của Sri Lanka. Phần lớn tàn tích của Thành phố cổ Polonnaruwa ngày nay đều được thực hiện trong giai đoạn này và là địa điểm được quy hoạch tốt nhất tại Sri Lanka thời bấy giờ; là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
Thành phố cổ Polonnaruwa là kinh đô của Vương quốc Polonnaruwa, nơi tập hợp các công trình tiêu biểu cho đức tin, quyền lực, vị thế của một vương quốc; là một bằng chứng đặc biệt về một truyền thống văn hóa độc lập và tự chủ của người Sri Lanka đến tận ngày nay.
Bên cạnh các di tích Ấn Độ giáo do Vương triều Choilas xây dựng từ thế kỷ 11, Thành phố cổ còn lưu lại các di tích Phật giáo hoành tráng được tạo ra bởi Vua Parakramabahu I vào thế kỷ 12. Đây là minh chứng về truyền thống hòa hợp giữa các tín ngưỡng của cư dân khu vực Nam Á (Tiểu lục địa Ấn Độ), giữa Phật giáo và Ấn Độ giáo.

Sơ đồ vị trí hạng mục công trình chính tại Di sản Thành phố cổ Polonnaruwa, tỉnh North Central, Sri Lanka
Di sản Thành phố cổ Polonnaruwa nằm tại phía đông của hồ Parakrama Samudraya (hình vẽ ký hiệu 3), tả ngạn sông Mahaweli. Các hạng mục công trình chính trong Di sản gồm:
Thành Nội
Thành Nội (Citadel, hình vẽ ký hiệu 6) nằm gần hồ Parakrama Samudraya, có mặt bằng hình chữ nhật. Lối vào chính từ phía bắc, được bảo vệ bởi tường dày hơn 1m.
Thành nội có 2 di tích tiêu biểu: Cung điện Hoàng gia và Cung hội nghị.
Cung điện Hoàng gia
Cung điện Hoàng gia Parakramabahu (Royal Palace/Palace of King Parakramabahu, hình vẽ ký hiệu 7) là trung tâm của Thành Nội. Truyền thuyết kể rằng, vào thời hoàng kim, Cung điện cao 7 tầng với 1000 phòng, thể hiện quyền lực và sự giàu có của nhà vua.
Cung điện hiện chỉ còn lại tàn tích của phần bệ cao 3 bậc nền và các bức tường gạch với những lỗ, nơi đặt các dầm gỗ đỡ hệ thống kết cấu gỗ của 6 tầng trên.
Tàn tích của các bức tường cao tới 9m, dày 0,8- 1,6m.
Cung điện có thể bị phá hủy do hỏa hoạn trong chiến tranh. Xung quanh Cung điện có tàn tích của một số tòa nhà phụ trợ.

Tàn tích Cung điện Hoàng gia trong Thành Nội, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Bên trong tàn tích Cung điện Hoàng gia trong Thành Nội, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Mô hình mô phỏng Cung điện Hoàng gia trong Thành Nội, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Cung Hội nghị
Cung Hội nghị (Nissankamalla/Council Chamber) nằm đối diện với Cung điện Hoàng gia. Đây là nơi vua hội họp với quan lại và sứ thần trong các buổi lên triều.
Công trình có mặt bằng hình vuông, gồm 3 nhịp với 4 hàng cột. Nhịp giữa rộng, nhịp hai bên hẹp như hành lang.
Công trình vẫn còn lưu lại được các tàn tích phần bệ nhà, 4 hàng cột đá đỡ kết cấu mái bằng gỗ và tượng sư tử đá lớn. Tượng sư tử là nơi đặt ngai vàng. Các chữ khắc trên các cây cột chỉ vị trí chỗ ngồi của các vị quan trong vương triều. Chân cột và đầu cột có mặt bằng hình vuông, thân cột có mặt bằng hình bát giác. Chân và đầu cột có trạm khắc trang trí.
Hai bên cầu thang chính có tượng sư tử nhỏ. Mặt nền phía trước bậc cầu thang có đặt tấm đá hình bán nguyệt (Moonstone/Sandakada Pahana) với bề mặt được chạm khắc.
Mặt tường phần bệ chia thành 3 tầng với các phù điêu hình voi, sư tử và người lùn.

Mặt bằng Cung Hội nghị trong Thành Nội, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tàn tích bậc thang mặt trước Cung Hội nghị trong Thành Nội, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka


Phối cảnh tàn tích Cung Hội nghị trong Thành Nội, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tượng sư tử đá, Cung Hội nghị trong Thành Nội, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Thành Trung
Thành Trung (Outer City, hình vẽ ký hiệu 9) bao quanh Thành Nội cả 3 phía, trừ phía hồ tại mặt tây.
Thành Trung được xác định bởi các tường thành bao quanh. Giữa Thành Trung có bức tường phân chia thành Khu phía bắc và Khu phía nam. Các di tích chính trong Thành Trung gồm:
Nhà tắm Hoàng gia
Nhà tắm Hoàng gia (Kumara Pokuna, hình vẽ ký hiệu 8) nằm tại Khu phía nam của Thành Trung (hình vẽ ký hiệu 9). Trung tâm của Nhà tắm là một bể nước hình chữ thập. Giữa bể là một tảng đá hình tròn. Xung quanh bể là các bệ ngồi.
Bể lấy nước từ hồ Parakrama Samudraya. Nước chảy vào bể qua hai miệng rồng nằm hai bên cầu thang.
Gần bể có một tòa nhà nhỏ, là Phòng thay đồ.

Nhà tắm Hoàng gia, bên trong Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Tàn tích Phòng thay đồ, Nhà tắm Hoàng gia, bên trong Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Đền Siva Devala số 1
Đền Siva Devala số 1 (Siva Devala No 01, hình vẽ ký hiệu 10) nằm ngay tại cổng phía bắc, lối vào Thành Nội. Đền thờ thần Ấn Độ giáo Devala.
Đền được xây vào thế kỷ 13, thể hiện sự phục hưng trở lại của Ấn Độ giáo.
Công trình được xây dựng bằng đá theo nguyên tắc không cần vữa.
Tương tự như các ngôi đền Ấn Độ giáo, Đền Siva Devala số 1 có mặt bằng hình vuông với tường bao quanh, hướng về phía đông.
Vào Đền có một Tháp cổng, hiện chỉ còn lại tàn tích. Tiếp đó là tòa Bái đường có mặt bằng hình chữ nhật với bệ nền được xây dựng bằng các viên đá đẽo với kỹ thuật xây dựng tinh tế. Bên trong Bái đường hiện vẫn còn lại một số cột đá.
Trung tâm của Đền là tòa Chính điện với tàn tích tường đá bao xung quanh. Chính điện thờ Linh vật Lingam đá.
Trong quá trình khai quật, tại đây đã phát hiện được một số hiện vật bằng đồng (được lưu giữ tại Bảo tàng Khảo cổ học của Di sản).

Tàn tích Đền Siva Devala số 1 tại Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka


Tàn tích cổng vào Bái đường, Đền Siva Devala số 1 với cấu trúc xây dựng bằng đá không cần vữa, tại Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Bái đường nhìn vào Chính điện với Linh vật Lingam đá, Đền Siva Devala số 1, tại Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Tứ giác thiêng
Tứ giác thiêng (Scared Quadrangle, hình vẽ ký hiệu 11) là một di tích nằm tại phía bắc của Thành Trung. Quần thể có bố cục tương tự như một ngôi đền Ấn Độ giáo.
Tứ giác thiêng được đánh giá là một trong những đại diện kiến trúc vĩ đại nhất tại Di sản Thành phố cổ Polonnaruwa.
Quần thể công trình có tường bao quanh. Mặt bằng có nhiều góc cạnh nhô ra tại góc phía đông và phía nam.
Quần thể có 2 lối vào chính với Tháp cổng tại phía đông (Entry Eastern Gate) và phía tây (Western Gate).

Sơ đồ mặt bằng Tứ giác thiêng, tại Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Chính giữa Quần thể là Bảo tháp hình tròn Vatadage. Người ta cho rằng Bảo tháp được xây dựng để lưu giữ Xá lợi răng (hoặc có thể là chiếc bát khất thực) của Đức Phật. Công trình bị bỏ hoang trong nhiều thế kỷ khi Vương quốc Polonnaruwa sụp đổ và được phục hồi vào đầu năm 1903.
Bảo tháp được xây dựng bằng đá, đặt trên một bệ tròn với các bậc nền.
Bậc nền dưới có đường kính khoảng 37m, cách mặt đất 1,3m với bậc lên từ mặt phía bắc, đối diện với Tháp chính phía bắc (Hatadage).
Bậc nền trên có đường kính khoảng 24m, cao cách Bậc nền dưới 1,6m với bậc lên từ 4 phía.
Các bậc nền được trang trí bằng các chạm khắc đá tinh xảo.
Phía trước các bậc thang lên xuống đều có một tấm đá hình bán nguyệt (Moonstone/Sandakada Pahana) với bề mặt trang trí nhiều biểu tượng.
Bảo tháp có mặt bằng hình tròn đường kính 8,3m với hàng cột bao quanh. Kề liền hàng cột là bức tường gạch dày 0,76m với 4 cửa ra vào. Phần bệ tường được bao phủ bằng các tấm đá có chạm khắc.
Bên trong tháp có 3 hàng cột bố cục theo vòng tròn đồng tâm, 1 hàng ngoài 32 cột; hàng giữa 20 cột và hàng trong cùng 15 cột, đỡ kết cấu mái bằng gỗ. Phần bệ và đỉnh cột hình vuông có trang trí; thân cột hình bát giác.
Bên trong Bảo tháp đặt 4 tượng Phật ngồi tại 4 hướng. Tượng tạc bằng đá, có chiều cao 1,5m, đặt trên bệ cao 0,86m.
Hiện vẫn còn đang tranh luận về cách tổ chức xây dựng Bảo tháp.
Vào thời bấy giờ, thời gian của công dân để xây dựng và sửa chữa công trình quốc gia là một hình thức nộp thuế. Loại lao động này cũng được sử dụng trong việc xây dựng Quần thể Tứ giác thiêng (cũng như các công trình khác trong Khu vực Di sản). Song, với chất lượng và kỹ thuật xây dựng của các công trình tại đây, cho thấy Vương quốc phải có đủ nguồn tài chính để huy động được thợ xây dựng lành nghề đến từ bên ngoài (từ Ấn Độ và các quốc gia khác).

Một mô hình mô phỏng Bảo tháp Thuparama Vatadage trong Bảo tàng Anuradhapura (Anuradhapura Museum), Sri Lanka

Mô hình mô phỏng 3D Bảo tháp Thuparama Vatadage, tại Tứ giác thiêng, Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Phía trước lối vào Bảo tháp Thuparama Vatadage, tại Tứ giác thiêng, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tấm đá hình bán nguyệt với bề mặt trang trí đặt trước bậc lên xuống, Bảo tháp Thuparama Vatadage, tại Tứ giác thiêng, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Bên trong Bảo tháp Thuparama Vatadage với 4 tượng Phật ngồi, tại Tứ giác thiêng, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Quần thể Tứ giác thiêng có hai điện thờ chính: Điện thờ chính phía bắc (Hatadage) và Điện thờ chính phía nam (Thuparama Gedige). Cả hai Điện thờ có mặt bằng tương đối giống nhau, gồm 2 khối: Bái đường và Chính điện.
Điện thờ chính phía bắc (Hatadage) được xây dựng bởi Vua Nissanka Malla (trị vì giai đoạn 1178- 1196), để lưu giữ Xá lợi răng của Đức Phật. Điện thờ bố cục theo hướng bắc – nam, hướng về phía nam, phía Bảo tháp Vatadage. Trục chính của Điện thờ trùng với trục chính của Bảo tháp Vatadage. Bao quanh Điện thờ là bức tường đá hình chữ nhật, dài 37m rộng 27m với cửa vào Bái đường từ phía nam. Bái đường có mặt bằng hình chữ nhật, dài 8,2m, rộng 6,4m. Phòng này có 6 cột đá và 1 cầu thang dẫn lên tầng trên. Chính điện nằm sau Bái đường, có mặt bằng hình vuông, mỗi chiều rộng 11m. Căn phòng có 16 cột đá, hiện chỉ còn 3 cột. Giữa Chính điện có 3 bức tượng Phật bằng đá. Bức tượng chính giữa cao 2,7m, 2 bức tượng hai bên cao 2,3m. Điện thờ cao 2 tầng, bằng đá, gạch và gỗ. Hiện chỉ còn tàn tích tầng 1. Tường xây bằng gạch, bên ngoài ốp đá.

Lối vào Điện thờ chính chính phía bắc (Hatadage), tại Tứ giác thiêng, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Bên trong Điện thờ chính phía bắc (Hatadage), tại Tứ giác thiêng, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Điện thờ chính phía nam (Thuparama Gedige) được xây dựng bởi Vua Prakramabahu I (trị vì năm 1153- 1186). Điện thờ có bố cục theo hướng đông – tây, hướng về phía đông; không có tường bao quanh như Điện thờ Hatadage.

Điện thờ chính phía nam (Thuparama Gedige), tại Tứ giác thiêng, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Quần thể Tứ giác thiêng có Bia đá Gal Pota (Stone Book). Đây là một khối đá khổng lồ nằm bên cạnh Điện thờ chính Hatadage. Bia dài 9m, rộng 0,5m, còn gọi là Cuốn sách đá; được thực hiện nhằm ca ngợi công tích Vua Nissanka Malla (trị vì năm 1187 đến năm 1196). Bia có tổng cộng 72 hàng với 4500 ký tự.
Cạnh của Bia có trang trí chạm khắc: 2 con thiên nga; Nữ thần Lakshmi (thuộc Ấn Độ giáo, Phật giáo và Jaina giáo) với 2 con voi.

Bia đá Gal Pota, Tứ giác thiêng, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Phía tây của Quần thể Tứ giác thiêng là tòa nhà Latha Mandapaya. Công trình được xây dựng bởi Vua Nissanka Malla (trị vì năm 1187 đến năm 1196), phục vụ cho mục đích nghe giảng kinh Phật.
Tòa nhà được đặt trên một bệ nền cao, bao quanh bởi một bức tường đá thấp. Bên trong có 2 hàng cột đá, mỗi hàng 4 cột để đỡ mái. Cột được chạm khắc công phu, không thẳng mà uốn cong ở 3 chỗ như thân cây. Đây có lẽ là một trong những điểm độc đáo của kiến trúc bản địa Sri Lanka. Tại trung tâm của tòa nhà có một bảo tháp nhỏ bằng đá.


Tòa nhà Latha Mandapaya, Tứ giác thiêng, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Ngoài các hạng mục công trình trên, Quần thể Tứ giác thiêng còn có nhiều di tích khác như: Điện thờ Atadage với mặt bằng giống Điện thờ chính; Nhà họp hội đồng (Chapter House); Bảo tháp 7 tầng Satmahal Prasada; Tượng Bồ tát Bodhisattva Shrine; Tòa nhà Recumbent Image (Recumbent Image House); Đền Bodhi Tree Shrine...


Điện thờ Atadage, tại Tứ giác thiêng, Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Bảo tháp 7 tầng Satmahal Prasada, tại Tứ giác thiêng, Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tượng Bồ tát Bodhisattva Shrine tại Tứ giác thiêng, Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Bảo tháp Pabalu Vehera
Bảo tháp Pabalu Vehera (hình vẽ ký hiệu 12) nằm tại phía bắc Thành Trung, là một loại bảo tháp điển hình, có từ thời Vua Parakramabahu I (1153-1186). Đây là bảo tháp lớn thứ ba ở Polonnaruwa.
Tòa Bái đường (Antarala), nằm phía trước Bảo tháp, có các hàng cột đỡ mái và 3 bức tượng Phật.
Bảo tháp Pabalu Vehera có mặt bằng hình tròn, xây bằng gạch. Hình khối Bảo tháp gồm: Phần bệ thẳng; Phân thân hơi nghiêng vào phía trong; Phần mái gồm hai lớp: Lớp dưới, bắt đầu từ thân tháp nghiêng vào phía trong tạo dạng mái vòm; Lớp trên có mặt bằng thu gọn vào phía trong tạo thành mái dật bậc. Xưa kia mái được phủ bằng lớp thạch cao, quét vôi trắng.

Bảo tháp Pabalu Vehera, Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tượng Phật tại Bảo tháp Pabalu Vehera, Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Đền Siva Devala số 2
Đền Siva Devala số 2 (Siva Devala No 02, hình vẽ ký hiệu 13) nằm tại góc đông bắc Thành Trung. Đây là ngôi đền Ấn Độ giáo, được xây dựng vào thời Vương quốc Chola, thế kỷ 11.
Đền có quy mô nhỏ, gọn, nằm trong một sân. Tương tự như các ngôi đền Ấn Độ giáo khác, công trình có bố cục theo đông – tây, hướng về phía đông, gồm 2 khối nhà:
Bái đường (Antarala, không gian phía trước Chính điện), tạo thành một khối nhô ra trước đền.
Chính điện theo chiều cao phân thành hai phần:
Phần phía dưới là nơi đặt bàn thờ linh vật (Garba Griha/Shrine). Bên trong đặt linh vật Yoni và Lingam, biểu tượng nữ tính và nam tính, đại diện cho nữ thần Parvati và nam thần Shiva. Ngoài ra, tại đây còn có tượng miêu tả các vị thần nhảy múa theo truyền thuyết Hindu giáo.
Phần tháp phía trên bàn thờ (Rekha/Deula) thu gọn lại so với phần đặt bàn thờ linh vật, có mặt bằng gần tròn. Đỉnh tháp kết thúc bằng một khối mái tròn, hình dáng như vương miện.
Phía trước Đền là một sân rộng, nơi đặt lễ vật và tín đồ làm lễ (Mandapa dạng mở). Bên trong sân có nhiều di tích đá.
Công trình được xây dựng bằng đá, theo dạng không cần vữa.

Đền Siva Devala số 2, Thành Trung, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Thiền viện Pothgul Vehera và Tượng Parakramabahu I
Thiền viện Pothgul Vehera và Tượng Parakramabahu I là nhóm di tích nằm tại phía nam Thành Nội.
Thiền viện Pothgul Vehera
Thiền viện Pothgul Vehera hay Tu viện Thư viện (Library Monastery, hình vẽ ký hiệu 1) nằm tại phía tây nam Khu vực Di sản, là nơi lưu giữ sách cổ nhất được tìm thấy tại Sri Lanka. Công trình được xây dựng dưới sự tài trợ của Vua Prakramabahu I.
Thiền viện Pothgul Vehera có bố cục giống như một ngôi đền Ấn Độ giáo; có mặt bằng hình gần vuông, hướng về phía đông.
Thiền viện có một tháp cổng tại phía đông, hiện chỉ còn lại tàn tích. Bao quanh là các tháp phụ trợ, đặt tại phía bắc và phía nam. Các tháp có mặt bằng hình chữ nhật với quy mô khác nhau, là nơi ở của các tu sĩ.
Khu vực chính của Thiền viện đặt trên một bệ nền cao, hình vuông. 4 góc có 4 bảo tháp tròn. Trung tâm là Bái đường hình chữ nhật nối với Chính điện hình tròn. Chính điện là nơi lưu giữ sách. Đây cũng là nơi Vua nghe các vị sư trụ trì tụng kinh và truyền lại các câu chuyện về Đức Phật (Jataka).
Thiền viện Pothgul Vehera chủ yếu xây dựng bằng gạch, hiện chỉ còn lại tàn tích.

Mặt bằng Thiền viện Pothgul Vehera, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Mặt trước Thiền viện Pothgul Vehera, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Phối cảnh một tháp phụ trợ, Thiền viện Pothgul Veher, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Tượng Parakramabahu I
Tượng Parakramabahu I (Statue of Parakramabahu I, hình vẽ ký hiệu 2) nằm tại phía bắc của Tu viện Pothgul Vehera. Tượng cao 3,4m, được tạc trực tiếp trên mặt khối đá. Có người cho rằng đây là tượng vua Parakramabahu I. Song đây cũng có thể là tượng của một tu sĩ, tay cầm cuộn văn bản tôn giáo.

Tượng Parakramabahu I, Thiền viện Pothgul Vehera, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Cụm công trình phía bắc Tứ giác thiêng
Cụm công trình nằm phía bắc Tứ giác thiêng, gồm các di tích chính:
Thiền viện Manik Vehera
Thiền viện Manik Vehera (hình vẽ ký hiệu 14) nằm tại phía bắc, cạnh cổng chính vào Thành Trung.
Công trình được xây dựng vào thế kỷ 8 – 9 sau Công nguyên.
Thiền viện là một quần thể công trình, có tường bao quanh, bố cục theo hướng bắc – nam, chia thành các khu vực với các tường ngăn cách.
Các tàn tích chính trong Quần thể thiền viện gồm: Bảo tháp thờ Phật (Stupa, hình ký hiệu a); Cây Bồ đề linh thiêng (Bodhi – Tree Shrine, ký hiệu b), biểu tượng về một địa điểm nơi Đức Phật đạt được giác ngộ; Đài tưởng niệm (Image House, ký hiệu c); Nhà ăn (Refectory, ký hiệu d); Nhà khám bệnh (Monks Dispensary, ký hiệu e) và các phòng ở của tu sĩ. Đây cũng là các công trình chính của một thiền viện điển hình thời bấy giờ.
Bảo tháp là di tích nổi bật nhất. Công trình được xây dựng trên một bệ nền cao, có tường bao quanh với một khung cửa bằng đá chạm khắc. Bảo tháp có mặt bằng hình tròn, mái vòm.

Sơ đồ mặt bằng Thiền viện Manik Vehera, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Bảo tháp thờ Phật, Thiền viện Manik Vehera, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Thiền viện Rankot Vehera
Thiền viện Rankot Vehera (hình vẽ ký hiệu 15) nằm tại phía bắc của Thiền viện Manik Vehera.
Thiền viện là một quần thể với các công trình điển hình: Bảo tháp thờ Phật; Cây Bồ đề linh thiêng; Đài tưởng niệm; Nhà ăn; Nhà khám bệnh; Phòng ở của tu sĩ.
Bảo tháp tại Thiền viện Rankot Vehera là Bảo tháp lớn nhất và quan trọng nhất trong Di sản Thành phố cổ Polonnaruwa với quy mô lớn hàng đầu tại Sri Lanka (được cho là mô phỏng theo Bảo tháp chứa xá lợi Phật của Thiền viện Ruwanvelisaya tại Cố đô Anuradhapura vào năm 140 TCN).
Bảo tháp được xây dựng dưới sự tài trợ của Vua Nissanka Malla (trị vì năm 1187 đến năm 1196).
Công trình được làm hoàn toàn bằng gạch; mặt bằng hình tròn đường kính 170m, cao 33m. Người ta cho rằng chiều cao ban đầu của Bảo tháp có thể tới 61m.
Bảo tháp tại Thiền viện Rankot Vehera nằm trên một bệ nền hay sân thượng rộng, được bao quanh bởi các bức tường gạch. Sân thượng có 4 lối vào từ 4 hướng chính.
Bốn phía của Bảo tháp có bốn khối công trình Bái đường (Antarala/Vahalkada), nhô ra ngoài Bảo tháp. Đây cũng là nơi dâng hoa và lễ, tương tự như Bái đường mở của các ngôi đền.
Xung quanh Bảo tháp là tàn tích cột, tường, móng của các công trình phụ trợ khác trong Quần thể thiền viện.

Bảo tháp tại Thiền viện Rankot Vehera, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tàn tích các khối Bái đường dưới chân Bảo tháp tại Thiền viện Rankot Vehera, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Thiền Y viện
Thiền Y viện (Monastic Hospital, hình vẽ ký hiệu 16) nằm tại phía bắc Bảo tháp Rankot Vehera và phía nam của Thiền viện Alahana Piriwena.
Công trình được xây dựng vào thế kỷ 12.
Thiền Y viện có mặt bằng hình chữ nhật, bao quanh 2 sân trong (Open Court), tạo thành 2 khối phòng: Điều trị và Sinh hoạt. Mỗi khối phòng có cửa ra vào riêng từ hướng đông.
Khối Điều trị (Treatment Section) nằm tại phía nam. Tại đây vẫn còn lưu giữ được một máng thuốc (Medicine Trough/Behet Oruva) bằng đá, được dùng để điều trị bệnh nhân bằng cách ngâm trong dầu thảo dược. Một số dụng cụ phẫu thuật và y tế cũng đã được phát hiện trong quá trình khai quật tại địa điểm này.
Khối Sinh hoạt (Living Section) nằm tại phía bắc. Tại giữa sân trong của Khối Sinh hoạt có tàn tích với 9 cột (Edifice on Pillars), bố trí thành 3 hàng.
Giữa hai Khối Điều trị và Sinh hoạt, người ta tìm thấy tàn tích của một khu vệ sinh và bể chứa tự hoại (Septic Tank).
Thiền Y viện có các hàng cột đá đỡ mái, xây tường gạch chèn giữa cột. Hiện tại chỉ còn lại các cột.

Sơ đồ mặt bằng Thiền Y viện, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Máng thuôc bên trong một phòng tại Khối Điều trị, Thiền Y viện, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tàn tích nhà vệ sinh và bể tự hoại tại Thiền Y viện, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Hang Thiền viện Gopala Pabbata
Hang Thiền viện Gopala Pabbata (hình vẽ ký hiệu 17) là một thiền viện nhỏ nằm trong hang đá, đối diện tại phía đông của Thiền Y viện, phía bắc của Thiền viện Rankot Vehera và ranh giới phía nam của Thiền viện Alahana Parivena. Thiền viện trong hang này có từ thế kỷ 2 TCN, là nơi cư ngụ của tu sĩ.

Mặt ngoài hang Thiền viện Gopala Pabbata, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Quần thể Thiền viện Alahana Parivena
Quần thể Thiền viện Alahana Parivena (hình vẽ ký hiệu 19) nằm tại phía bắc Khu vực Di sản.
Quần thể có diện tích hơn 80ha, được thành lập bởi Vua Parakramabahu I (trị vì năm 1153-1186). Quần thể Thiền viện gồm nhiều khu vực riêng biệt, được phân định bằng những bức tường với những ô cửa nhỏ ra vào. Một số khu vực sử dụng chung như nhà tắm, kho và một số công trình dịch vụ khác cho các nhà sư.

Phối cảnh Quần thể Thiền viện Alahana Parivena, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Các di tích chính trong Quần thể Thiền viện Alahana Parivena gồm:
Baddhasima Prasada
Baddhasima Prasada (hình vẽ ký hiệu 18) là nhà hội họp của các nhà sư cư trú trong Thiền viện, nằm tại phía nam, trên vị trí cao nhất của khuôn viên.
Công trình nằm trong khu vực có nền như các bậc thang với những mỏm đá lớn và nhỏ, suối uốn khúc, ao và cây xanh. Vào thời Vua Prakramabahu I (trị vì năm 1153- 1186), các nhà sư gặp nhau ở đây hai tuần mỗi tháng, vào những ngày đầu tháng và giữa tháng (âm lịch) để gặp các vị sư trưởng, nghe giảng kinh và các nghi lễ.
Các cột đá ngắn bên ngoài tòa nhà đánh dấu ranh giới của tòa nhà.
Tại phía đông của tòa Baddhasima Pasada là một sân thượng thấp với một hang động có tên Kuda Gal Vihara. Bên trong hang có 3 tượng Phật nhỏ, dạng ngồi, bằng đá.

Công trình Baddhasima Prasada, Quần thể Thiền viện Alahana Parivena, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Chùa Lankatilaka
Chùa Lankatilaka Pilimage (hình vẽ ký hiệu 20) nằm kề liền tại phía bắc của tòa nhà Baddhasima Prasada. Chùa có khuôn viên hình chữ nhật với tường bao quanh, hướng về phía đông. Đây được cho là cấu trúc phản ánh vị thế bậc cao của vương triều Vua Prakramabahu I.
Khối Bái đường của Chùa kéo dài.
Khối Chính điện của Chùa có mặt bằng hình chữ nhật. Cuối của Chính điện là một ban thờ với bức tượng Phật đứng bằng đá nguyên khối, cao tới 12,5m.
Tàn tích còn lại là các mảng tường với bức bích họa.
Kề liền bên ngoài tòa nhà còn lưu giữ được tàn tích của các công trình quy mô nhỏ với điêu khắc tinh xảo bằng gạch.


Tàn tích Chùa Lankatilaka Pilimage, Quần thể Thiền viện Alahana Parivena, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Bảo tháp Kiri Vehera
Bảo tháp Kiri Vehera (Rupavati Thupa, hình vẽ ký hiệu 21) nằm kề liền phía bắc chùa Lankatilaka Pilimage.
Bảo tháp được xây dựng vào thế kỷ 12 bởi Hoàng hậu Subhadda, vợ Vua Parakramabahu I (trị vì năm 1153- 1186). Đây là bảo tháp lớn thứ hai ở Polonnaruwa. Lớp vôi vữa của mái vòm được bảo quản tốt hơn so với hầu hết các bảo tháp khác được tìm thấy ở Polonnaruwa.


Bảo tháp Kiri Vehera, Quần thể Thiền viện Alahana Parivena, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka
Các di tích khác
Khu vực Di sản còn có các di tích chính nằm rải rác sau:
Chùa đá Gal Vihara
Chùa đá Gal Vihara (Gal Viharaya/ Uttararama hình vẽ ký hiệu 22) nằm tại phía bắc Thiền viện Alahana Parivena, là một trong những trung tâm giáo dục Phật giáo lớn nhất tại Sri Lanka.
Chùa là một trong những kiệt tác điêu khắc Phật giáo ở Sri Lanka dưới thời Vua Prakramabahu I, vào thế kỷ 12.
Đặc điểm chính của Chùa là có 4 bức tượng Phật được tạc vào một tảng đá granit lớn: 1 tượng ngồi có kích thước lớn; 1 tượng ngồi trong hang với kích thước nhỏ hơn; 1 tượng đứng và 1 tượng nằm nghiêng.
Đây được coi là một trong những ví dụ điển hình nhất của nghệ thuật điêu khắc và chạm khắc của người Sinhalese cổ đại (nhóm dân tộc chiếm đa số tại Sri Lanka) và biến Chùa Gal Vihara trở thành di tích được ghé thăm nhiều nhất tại Polonnaruwa.
Tượng Phật ngồi bên ngoài cao 4,636m, miêu tả Đức Phật đang thiền định (Dhyana Mudra). Chỗ ngồi của Đức Phật được chạm khắc hình đài sen với các trang trí hoa và sư tử. Phía sau tượng Phật là một bức phù điêu trang trí với 4 tháp nhỏ, bên trong tháp nhỏ lại có tượng Đức Phật có hình dáng như tượng lớn phía ngoài. Đây được cho là cách thể hiện một kiểu không gian nhiều chiều.
Tượng Phật ngồi trong hang (Vidyadhara Guha). Tượng nhỏ, chỉ cao 1,4m, có hình dạng như tượng Phật ngồi bên ngoài. Hang động được tạo ra bằng cách tạc sâu 1,4m vào trong vách đá. Hai bên hang có 4 cột đá, đặt cách nhau 7,9m, cao 3,89m. Phần đế đài sen cũng được trang trí hình sư tử. Sau tượng là một ngai vàng và một chiếc lọng được chạm khắc tinh xảo vào trong vách đá. Phía sau đầu tượng chạm khắc một vầng hào quanq và hình ảnh của 2 vị Bồ Tát. Mặt của các bức tường bên trong hang cũng được trang trí bằng các bức bích họa.
Tượng Phật đứng cao 6,93m, trên một bệ thấp hình hoa sen. Tượng hai tay khoanh trước ngực.
Tượng Phật nằm dài 14,12m, là bức tượng lớn nhất trong số 4 bức tượng tại Chùa Gal Vihara và cũng là một trong những tác phẩm điêu khắc lớn nhất ở Đông Nam Á. Tượng miêu tả cảnh nhập Niết bàn của Đức Phật. Đức Phật nằm nghiêng về phía bên phải; cánh tay phải đỡ đầu đặt trên gối; cánh tay trái nằm dọc theo cơ thể và đùi. Lòng bàn tay phải và lòng bàn chân có khắc một bông hoa sen. Tại đây còn có tàn tích của các cột đá đỡ mái.

Mô hình 3D Chùa đá Gal Vihara với 4 tượng Phật, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tượng Phật ngồi (tượng lớn) tại Chùa đá Gal Vihara, Thành phố cổ Polonnaruwa, Sri Lanka

Tượng Phật ngồi trong hang (tượng nhỏ) tại Chùa đá Gal Vihara, |