Tuần 29 - Ngày 18/02/2025
|
|
|
|
Thông tin định kỳ
|
|
|
Lịch sử Kiến trúc
Tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên, Việt Nam |
21/02/2020 |

Thông tin chung:
Công trình: Tháp Nhạn, Tuy Hòa
Địa điểm: Thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Việt Nam
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm thực hiện: Thế kỷ 12
Giá trị: Di tích quốc gia đặc biệt (Di tích kiến trúc nghệ thuật, năm 2018).
Champa là một quốc gia cổ tồn tại liên tục từ năm 192 đến 1832 với lãnh thổ lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam; Từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay, thuộc miền Trung Việt Nam.
Văn hóa Champa tiếp nối từ văn hóa Sa Huỳnh, là văn hóa thuộc giai đoạn Sơ kỳ đồ sắt của cư dân nông nghiệp ven biển miền Trung và miền Nam, có niên đại từ giữa thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên (TCN ) đến đầu Công nguyên, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong việc xây dựng hệ thống thần quyền trị quốc.
Người Chăm ngoài việc thờ các vị thần bản địa còn thờ các vị thần sơ khai của Hindu giáo và Phật giáo.
Dân tộc chính là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía Bắc (bộ tộc Dừa) và Chăm ở phía Nam (bộ tộc Cau). Ngôn ngữ là tiếng Champa bản địa và tiếng Phạn, ngôn ngữ tế lễ của Hindu giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo.
Tại đây, văn minh Ấn Độ, du nhập vào theo tôn giáo, được sử dụng rộng rãi: Văn học và điển tích tôn giáo; lịch trong sản xuất nông nghiệp và đời sống; kiến trúc và điêu khắc... Tuy nhiên yếu tố ngoại nhập này đều hòa hợp với yếu tố nội sinh mạnh mẽ của dân tộc Chăm, từ tục thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên, chữ viết Champa, kiến trúc và điêu khắc độc đáo, âm nhạc và ca múa sinh động (Thần đạo), đến phong tục cổ truyền như ăn trầu, nhuộm răng đen, hỏa táng và chôn tro xương trong các mộ vò…
Xã hội Champa mang đặc trưng cơ bản của khu vực Đông Nam Á, là xã hội của cư dân nông nghiệp. Quan hệ chủ yếu trong xã hội là quan hệ về ruộng đất, gắn với chế độ sở hữu và các hình thức sử dụng ruộng đất. Trong xã hội, vua có uy quyền tuyệt đối, tiếp đó là tầng lớp quý tộc, lãnh đạo tôn giáo và quan lại trung ương, địa phương. Người dân sống theo từng làng xã, là nơi duy trì mối quan hệ cộng đồng trong đời sống kinh tế và tinh thần.
Champa lần lượt trải qua các vương triều theo cùng một quá trình: Lập nước gắn với các vị vua khởi nghiệp; Xây dựng quốc gia hùng mạnh gắn với chống bành trướng phương Bắc, mở rộng bờ cõi về phía Tây và hội nhập với văn minh từ bên ngoài – Ấn Độ; Nội chiến giành quyền lực giữa các phe phái; Sụp đổ và bị thay thế bởi vương triều kế tiếp:
Vương quốc Lâm Ấp (năm 192- 757): Đây được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Champa độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của Trung Quốc, gắn liền với sự hấp thu văn minh Ấn Độ. Trong thời gian tồn tại, vương quốc Lâm Ấp trải qua 4 triều đại.
Vương quốc Hoàn Vương (Panduranga, năm 757 – 875): ban đầu là một tiểu quốc phía Nam Lâm Ấp, hình thành từ sự phân rã của vương triều Lâm Ấp, sau đó nổi lên lật đổ vương triều cũ, thành lập vương triều mới.
Miền Bắc Việt Nam giai đoạn này nằm dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường (tồn tại từ năm 618 – 907).
Vương quốc Hoàn Vương trải qua 5 triều đại.
Vương quốc Chiêm Thành (năm 875 - 1471): là triều đại tiếp nối vương quốc Hoàn Vương với kinh đô đặt tại Indrapura (từ năm 875 – 982, làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay).
Tại miền Bắc Việt Nam, năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam. Từ đây, nhà nước phong kiến độc lập của Việt Nam trải qua các quốc hiệu và vương triều : Đại Cồ Việt: thời nhà Đinh – nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý (từ năm 968–1054); Đại Việt: thời nhà Lý – nhà Trần (từ năm 1054–1400); Đại Ngu: thời nhà Hồ (từ năm 1400–1407) ; Đại Việt: thời nhà Hậu Lê- Nhà Tây Sơn và 3 năm đầu thời nhà Nguyễn (từ năm 1428–1804; Việt Nam: thời nhà Nguyễn (từ năm 1804–1839); Đại Nam: thời Nhà Nguyễn (từ năm 1839–1945).
Vương quốc Chiêm Thành trải qua 9 triều đại, kế tục Vương quốc Hoàn Vương, nên được gọi là triều đại thứ 6 đến triều đại thứ 14. Các vị vua đầu tiên của vương quốc Chiêm Thành theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của kinh đô Indrapura (Đồng Dương), một thiền viện Phật giáo (Vihara), bên trong thờ Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara) đã được xây dựng.
Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Champa kết thúc vào đầu thế kỷ thứ 10 (năm 925) với sự phục hồi của Hindu giáo, thờ thần Shiva. Trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở lại về Mỹ Sơn. Đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao. Dân số của vương quốc lên đến 0,6 triệu người.
Vương quốc Chiêm Thành dần suy yếu dưới sức ép của vương quốc Đại Cồ Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với vương quốc Khmer từ phía Tây.
Vào khoảng cuối thế kỷ 10, do kinh đô Indrapura (Đồng Dương) bị quân đội Đại Cồ Việt tấn công phá hủy (năm 982), Chiêm Thành chuyển kinh đô xuống Vijaya ở phía Nam (từ năm 982- 1471, thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định ngày nay, còn có tên là Chà Bàn/Trà Bàn).
Trong 5 thế kỷ tiếp theo, giữa Chiêm Thành và Đại Việt đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh.
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Chế Bồng Nga (Che Bonguar, năm 1360 – 1389, lên ngôi từ năm 1360). Ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra kinh đô Thăng Long và đã chết trong lần tấn công cuối cùng vào năm 1389.
Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, Chiêm Thành liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công. Năm 1471, Champa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía Bắc. Phần lãnh thổ còn lại bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và tiếp tục dần bị các chúa Nguyễn thôn tính. Đến năm 1832, toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng (vị hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn, trị vì năm 1820 – 1841).

Vương quốc Champa vào khoảng năm 1100.
Màu xanh: Phạm vi vương quốc Đại Việt (kinh đô Đại La - Hà Nội) ; Màu vàng : Vương quốc Champa (kinh đô Indrapura – Đồng Dương) ; Màu đỏ : Vương quốc Khmer (kinh đô Angkor)
Đền tháp Champa
Nhóm tháp theo niên đại
Đền tháp Champa theo niên đại được phân thành 23 nhóm tháp. Đền tháp Mỹ Sơn là nhóm đầu tiên với niên đại sớm nhất từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13.
TT
|
Tên di tích
|
Địa điểm
|
Niên đại
|
1
|
Nhóm tháp Mỹ Sơn
|
xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ IV - XIII
|
2
|
Nhóm tháp Po Sah Inư
|
phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận
|
thế kỷ VIII
|
3
|
Nhóm tháp Mỹ Khánh
|
xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế
|
thế kỷ VIII
|
4
|
Nhóm tháp Hòa Lai
|
làng Tam Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ IX
|
5
|
Nhóm tháp Po Dam
|
làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận
|
thế kỷ IX
|
6
|
Nhóm tháp Đồng Dương
|
Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình. tỉnh Quảng nam
|
thế kỷ IX
|
7
|
Nhóm tháp Bằng An
|
làng Bằng An, xã Điện An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ IX - X
|
8
|
Nhóm tháp Khương Mỹ
|
làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ X
|
9
|
Nhóm tháp Po Nagar
|
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà
|
thế kỷ X - XIII
|
10
|
Nhóm tháp Chiên Đàn
|
làng Chiên Đàn, xã Tam An, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ XI - XII
|
11
|
Nhóm tháp Bánh Ít
|
thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XI - XII
|
12
|
Nhóm tháp Bình Lâm
|
xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
13
|
Nhóm tháp Đôi
|
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
14
|
Nhóm tháp Nhạn
|
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
|
thế kỷ XII
|
15
|
Nhóm tháp Phú Lốc
|
xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
16
|
Nhóm tháp Cánh Tiên
|
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
17
|
Nhóm tháp Thủ Thiện
|
xã Bình nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
18
|
Nhóm tháp Dương Long
|
xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
19
|
Nhóm tháp Liễu Cốc
|
xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế
|
thế kỷ XIII
|
20
|
Nhóm tháp Mẫm
|
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XIII
|
21
|
Nhóm tháp Yang Praong
|
Bản Đôn, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk
|
thế kỷ XIII
|
22
|
Nhóm tháp Po Klong Garai
|
phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ XIII - XIV
|
23
|
Nhóm tháp Po Rome
|
làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ XVII
|
Đặc trưng chung của các ngôi đền tháp Champa
Đền Champa thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi, không gần nơi dân cư sinh sống, xây dựng thành cụm, theo trục Đông – Tây, được thiết kế bằng sự kết hợp các hình thức trừu tượng và hình học cụ thế. Trong ngôi đền Champa có nhiều công trình dạng tháp.
Tháp Champa là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch hoặc có bổ sung một số cấu trúc đá, phía trên dật cấp hoặc thu nhỏ dần vào tạo thành hình tháp.
Mặt bằng tháp đa số là hình vuông. Không gian bên trong hẹp thường có cửa mở về hướng Đông - Tây, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đối xứng với cửa chính. Trần được cấu tạo vòm cuốn.
Gạch xây tháp có màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương. Gạch được nung, vừa đạt được độ cứng nhất định vừa tạo điều kiện cho việc chạm khắc, tương tự như đá sa thạch (là một loại đá được hình thành nhờ sự tích tụ của những đá cát, đá trầm tích, tương đối mềm và dễ gia công). Nghệ nhân chạm khắc trực tiếp lên các bức tường gạch thành phẩm.
Gạch xây không có mạch vữa, được liên kết với nhau bằng một loại keo đặc biệt. Có giả thuyết cho rằng đó là loại keo được tinh chế từ một loại thực vật tại địa phương. Giả thuyết khác là vữa xây làm từ đất sét tạo ra chính viên gạch. Giả thuyết này được củng cố sau khi thí nghiệm hóa học đã không tìm ra dấu vết của bất kỳ chất hữu cơ nào từ giữa các viên gach, mà tìm thấy các khoáng chất tương tự như các chất có trong lõi viên gạch.
Nghệ thuật chạm khắc của các ngôi đền tháp Champa là tiêu biểu cho Di sản nghệ thuật Champa. Các tác phẩm điêu khắc bằng gạch, đá sa thạch rất công phu với các trang trí hình hoa lá, chim, thú, vũ nữ, thần thánh (Hindu giáo, Phật giáo, tôn giáo bản địa) thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các vũ nữ (apsara, là một dạng tiên nữ múa hát trong các nghi lễ Hindu giáo và thần thoại Phật giáo).
Phong cách nghệ thuật của các đền tháp Champa
Người ta cho rằng, di tích đền tháp Champa tại Việt Nam có tới 7 phong cách nghệ thuật :
Phong cách Mỹ Sơn E1 (Style of Mỹ Sơn E1) hay phong cách Cổ đại : có niên đại thế kỷ 7 – 8, được khái quát hóa từ đền tháp Mỹ Sơn E1 tại Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này được thể hiện đầy đủ nhất tai ngôi tháp Mỹ Sơn E1.
Phong cách Hoà Lai (Style of Hoa Lai) : có niên đại cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, được khái quát hoá từ đền tháp Hoà Lai.
Phong cách Đồng Dương (Đồng Dương style): có niên đại cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10, được khái quát hoá từ đền tháp Đồng Dương.
Phong cách Mỹ Sơn A1 (Mỹ Sơn A1 style): có niên đại thế kỷ 10, được khái quát hoá từ tháp Mỹ Sơn A1, thuộc Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1.
Phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn A1- Bình Định: có niên đại đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12.
Phong cách Bình Định (style of Bình Định): có niên đại cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14.
Phong cách muộn : có niên đại từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 17.
Tháp Nhạn
Tháp Nhạn (tháp KơHmeng) nằm trên núi Nhạn (cao độ 64m so với mực nước biển), bên bờ Bắc sông Đà Rằng, thành phố Tuy Hòa, thủ phủ của tỉnh Phú Yên.
Trong 23 nhóm tháp của Đền tháp Champa, nhóm tháp Nhạn đứng thứ 14.
Tháp Nhạn được xây dựng vào khoảng thế kỉ 12, vào thời Vương quốc Chiêm Thành (năm 875 - 1471), là triều đại tiếp nối vương quốc Hoàn Vương. Trong giai đoạn này, ảnh hưởng Phật giáo tại Champa giảm dần, kết thúc vào đầu thế kỷ thứ 10 (năm 925) với sự phục hồi của Hindu giáo, thờ thần Shiva. Trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở lại về Mỹ Sơn. Đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao.

Sơ đồ vị trí tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên

Tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên, nhìn từ sông Đà Rằng

Phối cảnh tổng thể tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên

Tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên, ảnh tư liệu thời Pháp thuộc
Song cũng trong giai đoạn này, giữa Chiêm Thành và Đại Việt đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh không phân thắng bại. Đây cũng là một trong các nguyên nhân mang tính huyền thoại về việc xây dựng tháp Nhạn. Tháp được xây dựng từ cuộc đấu trí về thời gian xây tháp giữa quân Đại Việt và quân Chiêm Thành. Quân Đại Việt xây tháp bằng tre, nứa, trát phủ đất bên ngoài. Quân Chiêm Thành xây tháp bằng gạch nên thời gian kéo dài hơn. Quân Chiêm Thành thua cuộc, buộc phải rút quân về phía Nam đèo Cả. Đây cũng được cho là một trong những nguyên nhân giải thích tại sao tháp Nhạn dường như chỉ xong về mặt hình khối, song lại chưa có đủ thời gian để tạo và hoàn thiện về các mảng trang trí bề mặt.
Có truyền thuyết khác cho rằng, xưa kia tại đây có nàng tiên nữ Thiên Y A Na giáng trần dạy cho người dân cấy cày, dệt vải, kéo sợi…Sau khi tiên nữ về cõi tiên, người dân Champa đã xây tháp để phụng thờ. Trong trường hợp này, tháp Nhạn là một ngôi đền thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa). Cùng với sự phục hồi Hindu giáo, tháp Nhạn là ngôi đền vừa thờ thần Shiva (Hindu giáo) vừa thờ thần Mẫu. Vì vậy, kiến trúc của tháp là sự kết hợp giữa hình thức tổng thể mang tính chính thống của một ngôi đền Hindu giáo (tín ngưỡng ngoại nhập) được xây dựng định hình trong giai đoạn trước (đền tháp tại Thánh địa Mỹ Sơn, tháp Hòa Lai….) và hình thức trang trí đơn giản phù hợp với triết lý tín ngưỡng bản địa.
Vào ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch hàng năm, tại đây tổ chức lễ hội của đồng bào Chăm.
Về tên gọi, người dân giải thích là do có nhiều chim nhạn về làm tổ. Tháp được đặt tên tháp Nhạn, ngọn núi được gọi là núi Nhạn Tháp hay núi Bảo Tháp.
Vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, do thời gian và chiến tranh tàn phá, tháp Nhạn trở nên hoang tàn, không còn là nơi thờ tự. Những năm gần đây tháp Nhạn dần được phục dựng lại và có các nghiên cứu về khảo cổ học.
Tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên có cấu trúc tương tự như các ngôi đền Champa điển hình và cũng là cấu trúc chung của các ngôi đền Hindu giáo:
Tháp có bố cục theo hướng Đông Tây. Mỗi tháp là tổ hợp của các công trình: Chính điện; Bái đường; Nhà phụ; tháp Cổng; và tường bao quanh.
Tòa Chính điện (kalan/sanctuarya): đặt chính giữa sân đền với nhiều tháp phụ nhỏ xung quanh. Bên trong tháp đặt thần tượng thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Champa và bộ linh vật Lingam và Yoni bằng đá sa thạch.. Đây là nơi tôn nghiêm của đền, chỉ có pháp sư mới được vào. Những người cầu nguyện thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ. Trong trường hợp, đền vừa thờ thần Hindu giáo, vừa thờ thần Mẫu như tháp Nhạn, thì trong cụm tháp có thêm tháp phụ thờ thần Mẫu.
Tòa Bái đường (mandapa/jagamohan): nằm kề liền với Chính điện, tại lối ra vào, có chức năng là nơi sắp xếp lễ vật và múa hát nghi thức hành lễ.
Tòa Nhà phụ hay Nhà dài (kosagrha): nằm gần cổng, được sử dụng để chứa các vật có giá trị thuộc về vị thần hoặc để nấu ăn cúng tế cho vị thần.
Tháp Cổng (gopura): nằm ngoài cùng gắn với tường bảo vệ đền.
Hiện tại, cụm tháp Nhạn chỉ còn lại tòa Chính điện. Tường bao và các công trình khác chỉ còn tàn tích. Tại đây cũng không tìm lại được các tấm bia đá, thường là các thư tịch liên quan đến việc xây dựng tháp.

Phối cảnh mặt phía Tây tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên

Phối cảnh mặt phía Đông - lối vào, tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên
Mặt bằng Tháp chính hay Chính điện tháp Nhạn hình vuông, mỗi cạnh dài 10m.
Mặt bằng nội thất bên trong tháp hình vuông, có diện tích khoảng 25m2, bên trong thu hẹp dần theo chiều cao, dạng kết cấu vòm. Hiện tại, trong lòng tháp Nhạn, linh vật Lingam và Yoni không còn, mà thay thế bằng ban thờ thánh Mẫu Thiên Y A Na (được cho là có từ thời Hậu Lê, thế kỷ 15).

Ban thờ thánh Mẫu Thiên Y A Na bên trong tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú yên
Tháp cao khoảng 23,5m, chia thành: Đế tháp, Thân tháp và Mái tháp.
Đế tháp cao với 7 bậc cao để có thể vào bên trong tháp, được trang trí bởi các hàng gạch dật bậc.

Đế tháp kết hợp với bệ Thân tháp tạo thành một khối tạo bề thế cho tháp Nhạn
Thân tháp là một khối lập phương. Bề mặt tháp không phẳng mà được nhấn mạnh theo chiều dọc bởi các trụ áp tường và các khe hẹp chạy dọc suốt thân tháp. 4 góc tháp là 4 trụ góc lớn. Phần bệ của của trụ tường rất cao, tạo cảm giác cho phần Đế tháp thêm bề thế. Tại các góc thân tháp có tháp phụ hay tháp góc. Cửa vào Chính điện tại mặt Đông, hình vòm cuốn, kiểu giật cấp, trụ và xà ngang trên cửa bằng đá sa thạch. Ba mặt thân tháp còn lại có cửa giả nhô ra hẳn ra phía ngoài, nay chỉ còn tàn tích.

Tàn tích mái che lôi vào phía Đông tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên

Trụ tường và các khe phân vị theo chiều dọc thân tháp Nhạn

Cấu trúc xây gạch tại trụ góc tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên
Mái tháp có chiều cao bằng thân tháp, song chia thành 3 tầng mái, nhỏ dần về phía trên. Trang trí tầng mái thứ nhất và thứ hai mô phỏng giống nhau. Mỗi góc mái đều có một tháp nhỏ. Tầng mái thứ ba là một khối tháp đơn giản. Trên đỉnh mái là một khối đá sa thạch hình búp sen.


Trang trí phần mái tháp Nhạn với tháp nhỏ tại góc mái
Tháp Nhạn là một tháp Champa chủ yếu đẹp về hình khối, song ít có trang trí như các đền tháp Champa khác. (trang trí điển hình như: chạm khắc hoa lá, linh vật thần thoại …).

Tháp Nhạn là một tháp Champa có ít trang trí trên bề mặt tháp
Tháp Nhạn, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, được đánh giá là một trong những di tích tháp Champa cổ và đẹp nhất còn tồn tại, là công trình tiêu biểu cho kiến trúc, nghệ thuật tháp Champa, tại Việt Nam.
Tháp Nhạn là ngọn tháp gắn với nhiều điều bí ẩn chưa có lời giải đáp cuối cùng.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
http://whc.unesco.org/en/list/949
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%91%E1%BA%
B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m_%E1%BA%A4p
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0n_V%C6%B0%C6%A1ng
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C4%83m_Pa
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_%C4%91%E1%BB%81n_
th%C3%A1p_Ch%C4%83m_Pa
https://en.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%B9_S%C6%A1n
https://en.wikipedia.org/wiki/Hinduism
https://en.wikipedia.org/wiki/Art_of_Champa#Periods_and_styles_of_Cham_art
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1nh_%C4%91%E1%BB%8Ba_
M%E1%BB%B9_S%C6%A1n
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1p_Ch%C4%83m
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_c%C3%A1ch_ngh%E1%BB%87_thu%
E1%BA%ADt_c%C3%A1c_th%C3%A1p_Ch%C4%83m
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1p_Nh%E1%BA%A1n
- Di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn (My Son Sanctuary), Duy Xuyên, Quảng Nam, Việt Nam xem tại đây
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|
Cập nhật ( 04/03/2020 )
|
Tin mới đưa:- Di tích Um er-Rasas (Kastrom Mefa'a), Madaba, Amman, Jordan
- Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
- Quần thể Takht-e Soleyman, Western Azerbaijan, Iran
- Các thị trấn Baroque muộn tại Val di Noto, Sicily, Ý
- Samarkand – Ngã tư văn hóa, Uzbekistan
- Hang động Vân Cương, Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc
- Công trình Villa d'Este, Tivoli, Rome, Ý
- Cột Chúa Ba Ngôi ở Olomouc, Czech
- Thung lũng Loire giữa Sully-sur-Loire và Chalonnes, Pháp
- Quần thể Tu viện Ferapontov, Vologda, Nga
- Nhà thờ St James ở Šibenik, Croatia
- Mỏ đá lửa Thời kỳ Đồ đá mới ở Spiennes, Mons, Bỉ
- Lăng mộ Hoàng gia của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, Trung Quốc
- Hang động Long Môn, Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc
- Vương cung thánh đường San Francesco và địa điểm khác của Dòng Phanxicô tại Assisi, Ý
Tin đã đưa:- Tháp Hòa Lai, Thuận Bắc, Ninh Thuận, Việt Nam
- Đình Đại Phùng, Đan Phượng, Hà Nội, Việt Nam
- Đền Bà Triệu, Lăng tháp Vua Bà và Đình Phú Điền tại Triệu Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa, Việt Nam
- Đình Hoành Sơn, Nam Đàn, Nghệ An, Việt Nam
- Đền Xưa - Chùa Giám - Đền Bia, Cẩm Giàng, Hải Dương, Việt Nam
- Đền Trần Thương, Lý Nhân, Hà Nam
- Phủ Tiên Hương, Phủ Vân Cát, Lăng Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Dày, Vụ Bản, Nam Định
- Đền Sóc, Sóc Sơn, Hà Nội, Việt Nam
- Đền Cửa Ông và đền Cặp Tiên, Quảng Ninh, Việt Nam
- Đền Hùng, Phú Thọ, Việt Nam
- Tháp Bình Sơn, chùa Vĩnh Khánh, Sông Lô, Vĩnh Phúc, Việt Nam
- Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, Hải Dương, Việt Nam
- Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội, Việt Nam
- Đền Trần, Nam Định, Việt Nam
- Chùa Keo Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định, Việt Nam
|