Tuần -19 - Ngày 19/03/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Lịch sử Kiến trúc
Phủ Tiên Hương, Phủ Vân Cát, Lăng Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Dày, Vụ Bản, Nam Định
09/02/2020

Thông tin chung:
Công trình: Phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Liễu Hạnh
Địa điểm: Xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định
Quy mô:
Năm hình thành: Thế kỷ 16
Giá trị: Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (năm 2016) 

Phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Liễu Hạnh là nhóm công trình chính tại Khu di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật Phủ Giầy, trải rộng trên địa bàn xã Kim Thái huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Phủ Dầy có ý nghĩa là "Đền lớn ở làng Kẻ Dầy".
Quần thể Phủ Dầy bao gồm hơn 20 di tích gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam và cuộc đời Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ 2, gồm: phủ Vân Cát, phủ Tiên Hương, lăng Bà Chúa Liễu, phủ Bóng, phủ Giáp Ba, phủ Dinh, phủ Đá, phủ Nội, phủ Tổ, đền Trình, đền Công Đồng, đền Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai, đền Mẫu Thượng, đền Mẫu Thoải, đền Mẫu Đông Cuông, đền Đức Vua, đền Quan Lớn, đền thờ Lý Nam Đế, đền Đức Thánh Trần, chùa Tiên Hương, chùa Vân Hùng, chùa Linh Sơn, chùa Dần, chùa Gôi, chùa Vân Cát... 

Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một phần của Thần đạo Việt Nam, là tín ngưỡng tôn thờ Nữ thần, Mẫu thần, Mẫu Tam phủTứ phủ. Tín ngưỡng hay đức tin này có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa, không chỉ là việc đề cao vai trò của người phụ nữ, mà còn trở thành một trong những yếu tố văn hóa cốt lõi về tình thương yêu (như của người mẹ), trải ra đủ rộng, thấm vào đã sâu trong xã hội; một trong cội nguồn những điều tốt đẹp và linh khí của dân tộc Việt Nam.

Những văn bản ghi chép về Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam thường xuất phát từ huyền thoại, truyện kể dân gian và đồng thời cũng có hiện tượng ngược lại là huyền thoại hóa, dân gian hóa các văn bản thần tích, thần phả. Một số trường hợp là sáng tác thêm vào những truyền thuyết đã có, cho phù hợp với những tư tưởng, triết lý đương thời. 
Từ các truyền thuyết về Tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân sáng tác chuyện, thơ, bài hát, điệu múa, trang phục, nghi lễ để lan truyền rộng rãi và lưu truyền cho các thế hệ tiếp sau. 

Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, sau một thời gian dài bị ảnh hưởng của Phật Giáo và Đạo giáo, một phần bị thu hẹp (ví dụ như tín ngưỡng thờ Tứ Pháp), một phần phát triển đạt đến mức "Đạo" vào thế kỷ 17,18, thay thế dần Đạo giáo Trung Hoa. Đó là đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ gắn với vị Giáo chủ được người dân thần phục là Thánh mẫu Liễu Hạnh.

Đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào Nam trong quá trình mở mang bờ cõi. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã giao thoa, tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Champa, người Khmer. Từ đó tạo nên các dạng thức địa phương của Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam ở cả ba miền Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. 

Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ là sự kết hợp giữa tôn giáo bản địa và tôn giáo du nhập, vươn tới tầm Thần đạo, thể hiện qua việc đã có Quan niệm về tự nhiên, Cách sắp đặt thờ tự và Thực hành tín ngưỡng… 

Quan niệm về tự nhiên thông qua Tam phủ, Tứ phủ
Hệ thống Tam phủ (hay quan niệm về tự nhiên và vũ trụ) bao gồm: Thiên phủ (miền trời); Nhạc phủ (miền rừng núi); Thủy phủ (miền sông nước). Đây là những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp.
Cai quản Thiên phủ có Mẫu Thượng Thiên, làm chủ các quyền năng mây, mưa, sấm, chớp (tương tự như Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện).  
Cải quản Nhạc phủ có Mẫu Thượng Ngàn, trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh.
Cai quản Thủy phủ có Mẫu Thoải, trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp.
Hệ thống Tứ phủ gồm Hệ thống Tam phủ có thêm Địa phủ. Cai quản Địa phủ là Mẫu Địa, quản lý đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống. Trong nhiều trường hợp Địa phủ và Nhạc phủ là một; Tứ phủ và Tam phủ là một.  

Hệ thống thần linh Tam phủ và Cách sắp đặt thờ tự
Đạo Mẫu là một trong những tín ngưỡng Thần Đạo Việt Nam đã dung hòa nhiều yếu tố của Phật giáo, Đạo giáo (tôn giáo ngoại nhập) và tín ngưỡng của các vùng miền nên Hệ thống thần linh trong Đạo Mẫu Tam phủ rất đông đảo, song được phân thành các cấp bậc thờ tự:
Hàng thứ nhất: Phía trên cùng là Phật Thích Ca, Quán Âm Bồ Tát (còn gọi là Phật Bà Quán Ấm), hai bên có Kim đồng, Ngọc nữ hầu cận.
Hàng thứ hai: Tam vị đức vua (còn gọi là Ba vị vua cha hay Tam phủ ba vua) gồm:
Vua Cha Thiên phủ, Ngọc Hoàng Thượng đế là cao nhất, có ban thờ riêng, hai bên Ngài là Quan Nam Tào và Quan Bắc Đẩu; Vua Cha Nhạc phủ, Tản viên Sơn Thánh; Vua Cha Thoải phủ, Bát Hải Long Vương.
Hàng thứ ba: Tam tòa Thánh Mẫu: Mẫu đệ nhất Thượng Thiên; Mẫu đệ nhị Thượng Ngàn; Mẫu đệ tam Thoải Cung.

Trong Đạo Mẫu, tín đồ thường tập trung thờ tự và sinh hoạt tín ngưỡng xoay quanh hàng thứ ba, Tam tòa Thánh Mẫu trở xuống.
 
Hàng Quan: Từ 5- 10 vị, gồm Ngũ vị Tôn quan: Quan đệ nhất Thượng Thiên, Quan đệ nhị Thượng Ngàn, Quan đệ Tam Thoải Cung, Quan đệ Tứ Khâm sai, Quan đệ ngũ Tuần tranh; Lục phủ Tôn quan.
Hàng Chầu bà: Từ 4- 12 vị, trong đó có: Chầu đệ nhất Thượng Thiên, Chầu đệ nhị Thượng Ngàn, Chầu đệ tam Thoải Cung, Chầu đệ tứ Khâm Sai…
Hàng ông Hoàng: Từ 5 - 10 vị, trong đó có: Hoàng Cả Thượng Thiên, Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Hoàng Bơ Thoải phủ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười…
Hàng Cô: 12 vị, trong đó có: Cô Cả Thượng Thiên, Cô Đôi Thượng Ngàn, Cô Bơ Thoải Cung, Cô Chín Sòng Sơn, Cô bé Đông Cuông …
Hàng Cậu: 12 vị, trong đó có: Cậu Hoàng Cả, Cậu Hoàng Đôi, Cậu Hoàng Bơ, Cậu Hoàng Tư Địa Phủ, Cậu Bé Bản Đền.…
Hàng Ngũ Hổ và ông Lốt: 5 ông Hổ với màu sắc tượng trưng ngũ hành và 2 vị Thanh xà, Bạch xà Đại tướng quân. 

Sự khác nhau về số lượng các vị thần trong từng hàng (quan, chầu bà, ông hoàng, cô, cậu) do khác biệt trong quan niệm ở các vùng miền.
Các thần linh Tứ phủ có nguồn gốc không chỉ là người Kinh mà còn thuộc các dân tộc ít người như Tày, Nùng, Dao, Champa, Khmer, Hoa…. Bên cạnh đó có nhiều vị vốn là những nhân vật lịch sử được thần thánh hóa như Lý Nam Đế, Trần Hưng Đạo… 

Thực hành tín ngường thờ Mẫu Tam phủ
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ không chỉ là các hoạt động nghi thức nhằm duy trì và lan truyền Đạo Mẫu Tam Phủ, mà còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc, được cộng đồng trao truyền qua nhiều thế hệ. Cùng với Quan niệm về tự nhiên và Cách sắp đặt thờ tự, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ thể hiện triết lý về ứng xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên. Trong đó, không chỉ đề cao vai trò của người phụ nữ trong cuộc sống gia đình và xã hội, mà còn phản ánh sự tích hợp và dung hòa nhiều loại hình, sắc thái văn hóa truyền thống của các dân tộc. Từ đây, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững văn hóa cộng đồng và góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ có rất nhiều nghi thức, từ lễ phục, âm nhạc, hầu đồng, rước Mẫu, thỉnh kinh, rước đuốc đến lễ hội (gắn với nghi lễ cầu mưa thuận, gió hòa, quốc thái dân an đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, quốc gia; cầu tài, cầu lộc, cầu sức khỏe đáp ứng nhu cầu của đời sống thường nhật)…là một trong những thành tố đặc sắc của văn hóa Việt Nam.


Năm 2016, Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (Practices related to the Viet beliefs in the Mother Goddesses of Three Realms). 


Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (năm 2016).


Biểu diễn Chầu văn tại phủ Tiên Hương, Di tích Phủ Dầy,
Vụ Bản, Nam Định 


Lễ Rước Mẫu và Thỉnh kinh tại phủ Vân Cát,
Di tích Phủ Dầy, Vụ Bản, Nam Định

Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Liễu Hạnh là vị Thánh đứng đầu Đạo Mẫu Tam Phủ.
Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân","Chế Thắng Hoà Diệu đại Vương" và đã quy y Phật giáo.
Trong Điện thờ Tam phủ, Thánh Mẫu Liễu Hạnh luôn đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, ngồi chính giữa (trang phục màu đỏ), bên trái là Mẫu Thoải (trang phục màu trắng) và bên phải là Mẫu Thượng Ngàn (trang phục màu xanh).

Lần giáng trần đầu tiên
Lần đầu tiên, Bà giáng sinh vào gia đình ông Phạm Huyền Viên tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Thái An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), được cha mẹ đặt tên là Phạm Tiên Nga.
Bà giáng trần năm 1434 (thời vua Lê Thái Tông, vị hoàng đế thứ 2 triều Hậu Lê nước Đại Việt, trị vì 1433 - 1442) và trở về thượng giới năm 1473, vào năm 40 tuổi.
Sau khi Bà mất, dân đã lập đền thờ, gọi là phủ Quảng Cung (phủ Nấp), nay thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, Nam Định.

Lần giáng trần thứ hai
Lần thứ hai, Bà giáng sinh vào gia đình ông Lê Thái Công (Lê Đức Chinh) tại thôn An Hải, xã Thiên Hương - Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là xã Kim Thái, huyện Vụ BảnNam Định), được cha mẹ đặt tên là Lê Giáng Tiên. Lần giáng trần này cách lần trước vào khoảng 120 năm.
Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào Lang, sinh được một người con trai tên là Nhân, một con gái tên là Hoà.
Bà giáng trần năm 1557 (thời vua Lê Anh Tông, vị hoàng đế thứ 14 của nhà Hậu Lê, nước Đại Việt, trị vì 1556 -1572, thời Lê - Trịnh) và trở về thượng giới năm 1577, vào năm 21 tuổi.
Sau khi Bà mất, lăng mộ và đền thờ Bà được lập ở Phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ BảnNam Định. 

Lần giáng sinh thứ ba
Lần thứ ba, Bà giáng sinh vào một gia đình họ Hoàng tại xã Phú Long, huyện Nho Quan, Ninh Bình, được cha mẹ đặt tên là Hoàng Thị Trinh. Lần này Bà kết duyên với ông Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Nhưng chỉ hơn một năm sau đó, năm 19 tuổi, Bà trở về thượng giới.
Sau khi Bà mất, người dân lập phủ thờ Bà và con trai (phủ Đồi Ngang hay phủ Cậu bé Đồi Ngang) tại xã Phú Long, huyện Nho Quan, Ninh Bình.
Mỗi lần giáng sinh Thánh Mẫu Liễu Hạnh đều dạy dân hành thiện, sống đời đạo đức. Từ lần thứ ba trở đi, Bà hóa thân cùng với hai hầu cận là Quỳnh Hoa và Quế Hoa đi chu du khắp nước, không chỉ nhiều lần thi triển thần thông giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác, mà còn để lại biết bao thần tích và giai thoại. Các triều đại từ thời Hậu Lê trở về sau đều có ghi sự tích của Bà. 

Mẫu Liễu Hạnh một trong bốn vị thánh Tứ bất tử
Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử:
Tản viên Sơn Thánh là vị thần núi Tản Viên Ba Vì, tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên;
Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh của tuổi trẻ;
Chử Đồng Tử hay Chử Đạo Tử tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, hôn nhân và sự giàu có;
Mẫu Thượng thiên hay Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ.

Ba vị thánh đầu tiên đều xuất hiện vào thời vua Hùng (vương triều Văn Lang, truyền được 18 đời). Vị thánh Tứ bất tử thứ ba là Chử Đồng Tử xuất hiện vào đời vua Hùng thứ 18 (tồn tại đến năm 258 TCN).
Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1434, vào thời vua Lê Thái Tông (vị hoàng đế thứ 2 của triều Lê nước Đại Việt, trị vì năm 1433 – 1442). Như vậy, phải sau 1700 năm, người Việt mới bổ sung thêm cho mình một vị thánh Tứ bất tử thứ tư. Để lý giải cho câu chuyện này đã có rất nhiều giai thoại.

Tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa đã có từ thời xa xưa gắn với sự tích: Lạc Long Quân (nòi Rồng, Lạc Việt) và Âu Cơ (giống Tiên, Âu Việt) có phúc lành sinh trăm con trai, nở ra từ “Bọc trăm trứng”. Khi các con trưởng thành, 50 người con theo Cha Lạc Long Quân xuống biển, 50 người con theo Mẹ Âu Cơ lên núi.
Mẹ Âu Cơ đưa người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Bạch Hạc (Hạc trắng), Phú Thọ. Đó là vào thế kỷ thứ 7 TCN. Mẹ Âu Cơ được gọi là Quốc mẫu Âu Cơ.

Thời bấy giờ, nước Văn Lang ngoài tín ngưỡng thờ Mẫu, có lẽ chỉ cần 3 vị thánh bất tử.
Vào cuối thời Hùng Vương, thế kỷ 3 – thế kỷ 2 TCN, Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam.
Vào thời kỳ Bắc thuộc (3 lần: năm 179TCN – 39; năm 43- 541; năm 602- 905), các triều đại Trung Quốc không ngừng thực hiện đồng hóa người Việt, nhằm biến Việt Nam thành quận huyện thông qua việc truyền bá văn minh Trung Hoa: Chữ nho, Đạo giáo (Đạo Khổng và Đạo Lão).
Thời nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Đạo Phật ngày càng có vai trò quan trọng, được coi là Quốc giáo.
Các tôn giáo ngoại nhập như Đạo Phật, Đạo giáo đã dần lấn át tôn giáo bản địa – Thần đạo Việt Nam.
Song lịch sử cũng cho thấy, Đạo Phật, Đạo giáo ít có vai trò khi đất nước bị nạn ngoại xâm.
Vào thời Hậu Lê, truyền thuyết về việc Rùa Thần cho mượn kiếm để đánh giặc Minh Trung Quốc là ví dụ tiêu biểu cho nhu cầu phục hưng Thần đạo Việt Nam để gắn kết cộng đồng, khơi dậy nguyên khí và sức mạnh quốc gia.
Tiếp đó, Thần đạo Việt Nam (cùng với ngôn ngữ - chữ Nôm) cũng phải đủ mạnh, tương xứng với sức mạnh quân sự để mở mang bờ cõi về phương Nam; không chỉ thống nhất về đất đai mà còn phải thống nhất cả về văn hóa.
Có lẽ từ nhu cầu xã hội to lớn đó mà các vị tinh hoa của dân tộc Việt đã sáng tạo ra một vị thánh Tứ bất tử mới - Thánh Liễu Hạnh. Đây không phải là một vị thánh mang tính cá nhân như 3 vị thánh trước, mà là vị Giáo chủ của một tổ chức - Đạo Mẫu, khởi nguồn từ một tín ngưỡng bản địa mạnh mẽ, để phục hưng và mở rộng văn hóa nước nhà.

Các vị tinh hoa của dân tộc Việt cũng gửi gắm vào Thánh Mẫu Liễu Hạnh các triết lý văn hóa đương thời mà chính họ đang hướng tới:
Trước hết, Bà là vị Thánh linh thiêng do kết nối được các quyền lực: Quyền lực Phật giáo, Bà quy y cửa Phật, trở thành Mã Vàng Bồ Tát; Quyền lực Đạo giáo, Bà được cho là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế; Quyền lực Vương triều, Bà được các triều đại phong kiến từ thời Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều sắc, tôn phong là  "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân","Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương".

Bà là người trải qua các cung bậc của đời người để hiểu nỗi vui khổ của chúng sinh, sự thịnh suy của chính thể và hết lòng hành thiện giúp đời qua 3 lần giáng trần ở các kiếp khác nhau và các lần giáng trần khác.

Bà xuất thân là công chúa con vua, song con của Bà tại hai lần giáng trần đều không được nhiều người biết tới. Điều này cho thấy, không phải nguồn gốc xuất xứ mà chính là công tích hay điều tốt đẹp làm cho đời mới quyết định vị thế của mỗi con người. 

Bà giáng sinh hay hóa tại vùng đất nào đều như là sự chỉ báo về sự xuất hiện hoặc suy tàn của một dòng họ quyền lực, cũng như sự xuất hiện vị minh chủ mới của quốc gia.

Bà không chỉ giúp đỡ những người dân nghèo khó, trừng trị bọn quan tham tàn ác, mà còn gặp gỡ giới tinh hoa, để hiểu học vấn và khả năng làm những điều tốt đẹp của họ, qua việc Bà gặp 2 lần và xướng họa thơ với vị tiến sĩ Phùng Khắc Khoan (năm 1528 -1613, tục gọi là Trạng Bùng)...Giới hiền tài - nguyên khí quốc gia sau này đã lập phủ Tây Hồ thờ Mẫu Liễu Hạnh tại kinh đô Thăng Long, Hà Nội. Đây cũng là minh chứng về sự tự do sáng tạo đặc sắc của người Việt. Trong hệ thống Thần đạo Việt Nam, có đủ chỗ để những kẻ sĩ muốn làm quan phát tài cho bản thân đến cầu xin Khai ấn như tại đền Trần Nam Định và cũng có đủ chỗ để những kẻ sĩ muốn làm điều tốt đẹp cho dân đến cầu xin Thức tỉnh như tại phủ Tây Hồ, Hà Nội.  

Khu Di tích Phủ Dày
Phủ Dầy là một quần thể di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật trên địa bàn xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong đó có 3 công trình chính: Phủ Vân Cát, Phủ Tiên Hương, Lăng Bà Chúa Liễu.
Phủ Dầy xưa kia nằm trên địa bàn làng Kẻ Dầy. Năm 1557, dưới triều vua Lê Anh Tông, làng Kẻ Dầy được đổi thành xã Anh Thái. Năm 1861, dưới triều vua Tự Đức, xã An Thái đổi tên thành xã Tiên Hương.
Năm 1557 triều vua Lê Anh Tông, làng Kẻ Dầy lấy tên chữ là xã An Thái, sau này chia thành 2 xã nhỏ là Tiên Hương và Vân Cát, cách nhau 2 km. Mỗi nơi có phủ thờ Liễu Hạnh riêng là phủ Tiên Hương và phủ Vân Cát.
Ngày nay, xã An Thái đổi tên lại là xã Kim Thái.
Hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch – ngày giỗ của Bà, lần giáng trần thứ hai.  

Phủ Tiên Hương 
Phủ Tiên Hương như hiện nay được xây dựng vào thế kỷ 17, thời Lê Cảnh Trị (1663 – 1671) và đã qua nhiều lần trùng tu.
Phủ Tiên Hương hướng Tây, về dãy núi Tiên Hương (một trong 6 ngọn núi đất, đá của huyện Vụ Bản: núi Ngăm, núi Tiên Hương, núi Báng, núi Lê, núi Gôi và núi Hổ).  
Năm 1996, phủ Tiên Hương đã được sửa chữa lớn để thờ phụ thân của Mẫu Liễu Hạnh và Đức Thánh Trần.
Phía Bắc phủ Tiên Hương là đền Đức Thánh Trần, phía Nam là chùa Tiên Hương, đền thờ Đức vua (Lý Nam Đế), tạo thành một quần thể phủ - đền - chùa.  


Mặt bằng phủ Tiên Hương,
Khu Di tích Phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định




Phối cảnh tổng thể p
hủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định

Phủ Tiên Hương là một quần thể gồm: Nghi môn, Phương đình, hồ Bán nguyệt, Điện phủ và các công trình phụ trợ.

Nghi môn là một hàng trụ biểu, giới hạn tượng trưng giữa sân ngoài và sân trong của phủ. Phía trước Nghi môn là một hồ tròn. Giữa hồ là một bệ hình vuông, bên trên đặt một đỉnh đồng lớn.
Sau Nghi môn là sân trong. Trong sân có lầu Chuông, Trống và Chiêng, đồng thời cũng là nhà bia. Chính giữa là lầu Chuông, cũng là Phương du đón khách hành hương, 3 gian, 2 tầng mái, 8 mái.
Sau lầu Chuông là hồ Bán nguyệt. Hồ có lan can đá thấp bao quanh và một bức bình phong đá nằm chính giữa. Đối xứng hai bên, bên phải là lầu Cậu, bên trái là lầu Cô.


Hồ Bán Nguyệt; cạnh hồ là lầu Chuông và lầu Chiêng, phía xa là hệ thống các trụ biểu của Nghi môn


Lầu Chuông, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Lầu Chiêng và nơi đặt bia,
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban thờ tại lầu Cậu, bên trái tòa Đệ tứ cung,
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban thờ tại lầu Cô, bên phải tòa Đệ tứ cung, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định

Điện phủ gồm 4 tòa nhà đặt song song với nhau theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”: Đệ tứ cung, Đệ tam cung, Đệ nhị cung, Đệ nhất cung (tòa trong cùng).
Đệ tứ cung (Tiền đường) nằm sát hồ Bán nguyệt, là tòa nhà lớn nhất của Điện phủ, gồm 5 gian, 2 chái, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Bên trong thờ Tứ phủ công đồng hay còn gọi là ban Công Đồng.
Đệ tam cung thấp và hẹp hơn Đệ tứ cung, gồm 5 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Bên trong thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Ngũ vị vương quan.
Đệ nhị cung hẹp như kiểu nhà cầu, rộng 2,5m, dài 11m, nối mái Đệ tam cung với mái Đệ nhất cung. Bên trong thờ Tứ vị Chầu Bà và ba bộ long ngai.
Đệ nhất cung (Hậu cung) 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 tầng mái, cao hơn hẳn so với Đệ tam cung và Đệ nhị cung. Bên trong thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Hậu cung có khám kính đặt tượng đồng Mẫu Liễu Hạnh và cùng với hai hầu cận là Mẫu Quang cung Quế Anh phu nhân và Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân.

Bên cạnh Điện phủ còn có các tòa, bên trong đặt ban thờ Ban Trần Triều (thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo) và Ban Đức Vương Phụ, Vương Mẫu. Đằng sau Hậu cung là Động Sơn Trang, nơi thờ bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn và mười hai cô Sơn Trang.
Các hệ thống kèo, xà ngang, xà dọc của các tòa nhà trong phủ Tiên Hương đều được chạm khắc công phu với nhiều họa tiết sinh động hình tứ linh, tứ quý. Một số khám thờ khảm trai, bề thế và tinh xảo.
Phủ Tiên Hương còn lưu giữ được một số sắc phong đầu thế kỷ 18, tôn vinh Thánh Mẫu là  “Mẫu nghi thiên hạ”. 


Tòa Đệ tứ cung hay Tiền đường,
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban Công đồng tại Đệ tứ cung,
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Ngũ vị vương quan tại Đệ tam cung, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Bộ Long ngai tại Đệ nhị cung,
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban thờ Tứ vị Chầu Bà tại Đệ nhị cung,
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Phía sau tòa Đệ nhất cung (Hậu cung),
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban Tam Tòa Thánh Mẫu thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và hai vị phu nhân hầu cận,
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban Bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn tại Động Sơn Trang,
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban Trần Triều, thờ Trần Hưng Đạo, tại
phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định

Phủ Vân Cát 
Phủ Vân Cát nằm ở phía Bắc thôn Vân Cát thuộc xã Kim Thái, cách phủ Tiên Hương chừng 1 km về phía Tây Nam.
Phủ được xây dựng trên một khu đất rộng khoảng 1h, mặt quay về hướng Tây, về núi Ngăm.
Bên phải phủ Vân Cát là đền thờ Đức Vua cha (Lý Nam Đế), bên trái phủ là chùa Vân Hùng, tạo thành quần thể phủ - đền - chùa tương tự như phủ Tiên Hương.


Mặt bằng phủ Vân Cát,
Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định




Phối cảnh tổng thể phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định

Phủ Vân Cát là một quần thể bao gồm: Nghi môn và Lầu chuông, Hồ và Thủy lâu, Điện phủ và các công trình phụ trợ.
Nghi môn là một dãy với 5 gác lầu, là gác chuông, được xây dựng vào thế kỷ 19, thời vua Tự Đức (hoàng đế thứ 4 triều Nguyễn, trị vì năm 1847- 1883).
Phía ngoài Nghi môn là một hồ nước. Trên hồ có một tòa Thủy lâu (Phương đình) để thoáng 4 mặt, nối với bờ bằng 2 cây cầu đá. Thủy lâu được xây dựng vào năm 1900, là tòa 3 gian, 4 mái, 4 góc là 4 cột đá. Lan can xung quanh bằng đá với các mảng phù điêu chạm khắc hoa văn.
Phía trong Nghi môn là khoảng sân rộng trước khi vào Điện phủ.


Nghi môn phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Tòa Thủy Lâu trên hồ phía trước Nghi môn, phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định

Điện phủ có cấu trúc kiểu “nội trùng thiềm, ngoại chữ quốc”, gồm 4 tòa nhà đặt song song với nhau: Đệ tứ cung, Đệ tam cung, Đệ nhị cung, Đệ nhất cung (tòa trong cùng) gắn liền với hệ thống các tòa Tả mạc, Hữu mạc như hành lang bao quanh.
Đệ tứ cung, còn gọi là tòa Tiền đường, 5 gian, mái 2 tầng, 8 mái; bộ cách cửa chạm vân mây, rồng, hoa lá… đường nét rất tinh xảo. Các xà, kẻ, bẩy được gia công chạm khắc, soi chỉ công phu với nhiều hình tứ linh, tứ quý.
Đệ tứ cung thờ Quan Giám sát. Hai bên sập thờ có giá để những đồ bát bửu. Trong Đệ tứ cung có những bức y môn và đại tự chạm khắc cầu kỳ và sơn son thếp vàng rực rỡ.
Trong sân, bên trái tòa Đệ tứ cung là lầu Cô, bên phải là lầu Cậu, là tòa tháp với mái 2 tầng, 8 mái.
Đệ tam cung, còn gọi là tòa Bái đường, 5 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Đệ tam cung thờ Công đồng tứ Phủ, Bà Chúa Bản Đền.
Đệ tứ cung và Đệ tam cung được tôn tạo và mở rộng vào năm 1879. Cả hai cung này bị giặc Pháp ném bom phá hủy. Năm 1959, dân làng dựng lại Đệ tứ cung. Còn Đệ tam cung được dựng lại sau này vào năm 1992.
Đệ nhị cung 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Đệ nhị cung thờ Tứ vị Chầu bà và Ngũ vị Quan lớn, đặc biệt có hai khám hai bên thờ Ông Hoàng Mười (bên phải) và Ông Hoàng Ba (bên trái).
Đệ nhất cung hay Hậu cung 3 gian, mái 2 tầng, 4 mái, cao vượt hơn hẳn so với Đệ tam cung và Đệ nhị cung. Đệ nhất cung thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tượng bằng đồng gồm có Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn bên trái, Mẫu Thoải bên phải.
Trong Phủ còn lưu giữ được nhiều câu đối, đại tự, hoành phi và hệ thống văn bia có giá trị.
 


Phối cảnh tòa Đệ Tứ cung (Tiền đường), bên phải là lầu Cô, bên trái là lầu Cậu, phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Ban Ngũ vị Quan lớn tại tòa Đệ nhị cung, phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định

Lăng Bà Chúa Liễu 
Lăng Bà Chúa Liễu nằm ở thôn Tiên Hương trên cồn có hình cá chép, được xây gạch lát đá.
Vào năm 1938, vua Bảo Đại (hoàng đế thứ 13 triều Nguyễn, trị vì năm 1925 - 1945) cầu tự Thánh Mẫu được quý tử, đã cho trùng hưng lại lăng mộ với chất liệu bằng đá xanh và 60 búp sen đá như hiện tại.
Lăng có diện tích 625m2, gồm có cửa vào theo 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Hướng chính quay về phía Tây, về phía núi Tiên Hương.
Giữa lăng là ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh chừng 1m.
4 góc lăng mộ là 4 trụ cột đá. Tại bốn cửa ở bậc cuối cùng đều có một bức bình phong bằng đá án ngữ. Phía sau cửa chính, nằm về hai phía góc đối diện với cửa ra vào là hai nhà bia.
Bên cạnh khu lăng mộ còn có một tòa thờ tự. Ban thờ Mẫu nằm chính giữa, bên trái ban thờ Bà Cai Bản mệnh, tiếp là ban thờ đức Thánh Trần; bên phải là ban thờ Quan lớn đệ nhất và ban thờ Nhị Vị Cô Nương.


Mặt bằng Lăng Bà Chúa Liễu, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định


Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định

Phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Mẫu Liễu Hạnh tại Khu di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật phủ Giầy thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định là minh chứng sống động về Đạo Mẫu Liễu Hạnh, một trong tín ngưỡng quan trọng hàng đầu của Thần đạo Việt Nam  

Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%E1%BB%85u_H%E1%BA%A1nh_c%C3%B4ng_ch%C3%BAa
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADn_ng%C6%B0%E1%BB%A1ng_th%E1%BB%9D_
M%E1%BA%ABu_Vi%E1%BB%87t_Nam

https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_ph%E1%BB%A7
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A9_ph%E1%BB%A7
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1o_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam
http://special.vietnamplus.vn/thomautamphu
https://ich.unesco.org/en/RL/practices-related-to-the-viet-beliefs-in-the-mother-goddesses
-of-three-realms-01064

https://www.youtube.com/watch?v=L8uG3kEJc48
https://www.youtube.com/watch?v=UlD4E4-mMeU
https://www.youtube.com/watch?v=wRu2jnv0fj0

- Xem Phủ Tây Hồ, Hà Nội tại đây
- Xem Phủ Quảng Cung, Ý Yên, Nam Định tại đây

Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây

Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây

Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây

Cập nhật ( 26/03/2020 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
"Dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là phần lớn nhờ công học tập của các cháu"
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com