Thông tin chung:
Công trình: Phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Liễu Hạnh
Địa điểm: Xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định
Quy mô:
Năm hình thành: Thế kỷ 16
Giá trị: Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (năm 2016)
Phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Liễu Hạnh là nhóm công trình chính tại Khu di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật Phủ Giầy, trải rộng trên địa bàn xã Kim Thái huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Phủ Dầy có ý nghĩa là "Đền lớn ở làng Kẻ Dầy".
Quần thể Phủ Dầy bao gồm hơn 20 di tích gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam và cuộc đời Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ 2, gồm: phủ Vân Cát, phủ Tiên Hương, lăng Bà Chúa Liễu, phủ Bóng, phủ Giáp Ba, phủ Dinh, phủ Đá, phủ Nội, phủ Tổ, đền Trình, đền Công Đồng, đền Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai, đền Mẫu Thượng, đền Mẫu Thoải, đền Mẫu Đông Cuông, đền Đức Vua, đền Quan Lớn, đền thờ Lý Nam Đế, đền Đức Thánh Trần, chùa Tiên Hương, chùa Vân Hùng, chùa Linh Sơn, chùa Dần, chùa Gôi, chùa Vân Cát...
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một phần của Thần đạo Việt Nam, là tín ngưỡng tôn thờ Nữ thần, Mẫu thần, Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tín ngưỡng hay đức tin này có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa, không chỉ là việc đề cao vai trò của người phụ nữ, mà còn trở thành một trong những yếu tố văn hóa cốt lõi về tình thương yêu (như của người mẹ), trải ra đủ rộng, thấm vào đã sâu trong xã hội; một trong cội nguồn những điều tốt đẹp và linh khí của dân tộc Việt Nam.
Những văn bản ghi chép về Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam thường xuất phát từ huyền thoại, truyện kể dân gian và đồng thời cũng có hiện tượng ngược lại là huyền thoại hóa, dân gian hóa các văn bản thần tích, thần phả. Một số trường hợp là sáng tác thêm vào những truyền thuyết đã có, cho phù hợp với những tư tưởng, triết lý đương thời.
Từ các truyền thuyết về Tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân sáng tác chuyện, thơ, bài hát, điệu múa, trang phục, nghi lễ để lan truyền rộng rãi và lưu truyền cho các thế hệ tiếp sau.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, sau một thời gian dài bị ảnh hưởng của Phật Giáo và Đạo giáo, một phần bị thu hẹp (ví dụ như tín ngưỡng thờ Tứ Pháp), một phần phát triển đạt đến mức "Đạo" vào thế kỷ 17,18, thay thế dần Đạo giáo Trung Hoa. Đó là đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ gắn với vị Giáo chủ được người dân thần phục là Thánh mẫu Liễu Hạnh.
Đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào Nam trong quá trình mở mang bờ cõi. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã giao thoa, tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Champa, người Khmer. Từ đó tạo nên các dạng thức địa phương của Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam ở cả ba miền Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.
Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ là sự kết hợp giữa tôn giáo bản địa và tôn giáo du nhập, vươn tới tầm Thần đạo, thể hiện qua việc đã có Quan niệm về tự nhiên, Cách sắp đặt thờ tự và Thực hành tín ngưỡng…
Quan niệm về tự nhiên thông qua Tam phủ, Tứ phủ
Hệ thống Tam phủ (hay quan niệm về tự nhiên và vũ trụ) bao gồm: Thiên phủ (miền trời); Nhạc phủ (miền rừng núi); Thủy phủ (miền sông nước). Đây là những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp.
Cai quản Thiên phủ có Mẫu Thượng Thiên, làm chủ các quyền năng mây, mưa, sấm, chớp (tương tự như Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện).
Cải quản Nhạc phủ có Mẫu Thượng Ngàn, trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh.
Cai quản Thủy phủ có Mẫu Thoải, trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp.
Hệ thống Tứ phủ gồm Hệ thống Tam phủ có thêm Địa phủ. Cai quản Địa phủ là Mẫu Địa, quản lý đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống. Trong nhiều trường hợp Địa phủ và Nhạc phủ là một; Tứ phủ và Tam phủ là một.
Hệ thống thần linh Tam phủ và Cách sắp đặt thờ tự
Đạo Mẫu là một trong những tín ngưỡng Thần Đạo Việt Nam đã dung hòa nhiều yếu tố của Phật giáo, Đạo giáo (tôn giáo ngoại nhập) và tín ngưỡng của các vùng miền nên Hệ thống thần linh trong Đạo Mẫu Tam phủ rất đông đảo, song được phân thành các cấp bậc thờ tự:
Hàng thứ nhất: Phía trên cùng là Phật Thích Ca, Quán Âm Bồ Tát (còn gọi là Phật Bà Quán Ấm), hai bên có Kim đồng, Ngọc nữ hầu cận.
Hàng thứ hai: Tam vị đức vua (còn gọi là Ba vị vua cha hay Tam phủ ba vua) gồm: Vua Cha Thiên phủ, Ngọc Hoàng Thượng đế là cao nhất, có ban thờ riêng, hai bên Ngài là Quan Nam Tào và Quan Bắc Đẩu; Vua Cha Nhạc phủ, Tản viên Sơn Thánh; Vua Cha Thoải phủ, Bát Hải Long Vương.
Hàng thứ ba: Tam tòa Thánh Mẫu: Mẫu đệ nhất Thượng Thiên; Mẫu đệ nhị Thượng Ngàn; Mẫu đệ tam Thoải Cung.
Trong Đạo Mẫu, tín đồ thường tập trung thờ tự và sinh hoạt tín ngưỡng xoay quanh hàng thứ ba, Tam tòa Thánh Mẫu trở xuống.
Hàng Quan: Từ 5- 10 vị, gồm Ngũ vị Tôn quan: Quan đệ nhất Thượng Thiên, Quan đệ nhị Thượng Ngàn, Quan đệ Tam Thoải Cung, Quan đệ Tứ Khâm sai, Quan đệ ngũ Tuần tranh; Lục phủ Tôn quan.
Hàng Chầu bà: Từ 4- 12 vị, trong đó có: Chầu đệ nhất Thượng Thiên, Chầu đệ nhị Thượng Ngàn, Chầu đệ tam Thoải Cung, Chầu đệ tứ Khâm Sai…
Hàng ông Hoàng: Từ 5 - 10 vị, trong đó có: Hoàng Cả Thượng Thiên, Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Hoàng Bơ Thoải phủ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười…
Hàng Cô: 12 vị, trong đó có: Cô Cả Thượng Thiên, Cô Đôi Thượng Ngàn, Cô Bơ Thoải Cung, Cô Chín Sòng Sơn, Cô bé Đông Cuông …
Hàng Cậu: 12 vị, trong đó có: Cậu Hoàng Cả, Cậu Hoàng Đôi, Cậu Hoàng Bơ, Cậu Hoàng Tư Địa Phủ, Cậu Bé Bản Đền.…
Hàng Ngũ Hổ và ông Lốt: 5 ông Hổ với màu sắc tượng trưng ngũ hành và 2 vị Thanh xà, Bạch xà Đại tướng quân.
Sự khác nhau về số lượng các vị thần trong từng hàng (quan, chầu bà, ông hoàng, cô, cậu) do khác biệt trong quan niệm ở các vùng miền.
Các thần linh Tứ phủ có nguồn gốc không chỉ là người Kinh mà còn thuộc các dân tộc ít người như Tày, Nùng, Dao, Champa, Khmer, Hoa…. Bên cạnh đó có nhiều vị vốn là những nhân vật lịch sử được thần thánh hóa như Lý Nam Đế, Trần Hưng Đạo…
Thực hành tín ngường thờ Mẫu Tam phủ
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ không chỉ là các hoạt động nghi thức nhằm duy trì và lan truyền Đạo Mẫu Tam Phủ, mà còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc, được cộng đồng trao truyền qua nhiều thế hệ. Cùng với Quan niệm về tự nhiên và Cách sắp đặt thờ tự, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ thể hiện triết lý về ứng xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên. Trong đó, không chỉ đề cao vai trò của người phụ nữ trong cuộc sống gia đình và xã hội, mà còn phản ánh sự tích hợp và dung hòa nhiều loại hình, sắc thái văn hóa truyền thống của các dân tộc. Từ đây, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững văn hóa cộng đồng và góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ có rất nhiều nghi thức, từ lễ phục, âm nhạc, hầu đồng, rước Mẫu, thỉnh kinh, rước đuốc đến lễ hội (gắn với nghi lễ cầu mưa thuận, gió hòa, quốc thái dân an đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, quốc gia; cầu tài, cầu lộc, cầu sức khỏe đáp ứng nhu cầu của đời sống thường nhật)…là một trong những thành tố đặc sắc của văn hóa Việt Nam.
Năm 2016, Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (Practices related to the Viet beliefs in the Mother Goddesses of Three Realms).
Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (năm 2016).
Biểu diễn Chầu văn tại phủ Tiên Hương, Di tích Phủ Dầy, Vụ Bản, Nam Định
Lễ Rước Mẫu và Thỉnh kinh tại phủ Vân Cát, Di tích Phủ Dầy, Vụ Bản, Nam Định
Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Liễu Hạnh là vị Thánh đứng đầu Đạo Mẫu Tam Phủ.
Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân","Chế Thắng Hoà Diệu đại Vương" và đã quy y Phật giáo.
Trong Điện thờ Tam phủ, Thánh Mẫu Liễu Hạnh luôn đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, ngồi chính giữa (trang phục màu đỏ), bên trái là Mẫu Thoải (trang phục màu trắng) và bên phải là Mẫu Thượng Ngàn (trang phục màu xanh).
Lần giáng trần đầu tiên
Lần đầu tiên, Bà giáng sinh vào gia đình ông Phạm Huyền Viên tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Thái An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), được cha mẹ đặt tên là Phạm Tiên Nga.
Bà giáng trần năm 1434 (thời vua Lê Thái Tông, vị hoàng đế thứ 2 triều Hậu Lê nước Đại Việt, trị vì 1433 - 1442) và trở về thượng giới năm 1473, vào năm 40 tuổi.
Sau khi Bà mất, dân đã lập đền thờ, gọi là phủ Quảng Cung (phủ Nấp), nay thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, Nam Định.
Lần giáng trần thứ hai
Lần thứ hai, Bà giáng sinh vào gia đình ông Lê Thái Công (Lê Đức Chinh) tại thôn An Hải, xã Thiên Hương - Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định), được cha mẹ đặt tên là Lê Giáng Tiên. Lần giáng trần này cách lần trước vào khoảng 120 năm.
Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào Lang, sinh được một người con trai tên là Nhân, một con gái tên là Hoà.
Bà giáng trần năm 1557 (thời vua Lê Anh Tông, vị hoàng đế thứ 14 của nhà Hậu Lê, nước Đại Việt, trị vì 1556 -1572, thời Lê - Trịnh) và trở về thượng giới năm 1577, vào năm 21 tuổi.
Sau khi Bà mất, lăng mộ và đền thờ Bà được lập ở Phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
Lần giáng sinh thứ ba
Lần thứ ba, Bà giáng sinh vào một gia đình họ Hoàng tại xã Phú Long, huyện Nho Quan, Ninh Bình, được cha mẹ đặt tên là Hoàng Thị Trinh. Lần này Bà kết duyên với ông Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Nhưng chỉ hơn một năm sau đó, năm 19 tuổi, Bà trở về thượng giới.
Sau khi Bà mất, người dân lập phủ thờ Bà và con trai (phủ Đồi Ngang hay phủ Cậu bé Đồi Ngang) tại xã Phú Long, huyện Nho Quan, Ninh Bình.
Mỗi lần giáng sinh Thánh Mẫu Liễu Hạnh đều dạy dân hành thiện, sống đời đạo đức. Từ lần thứ ba trở đi, Bà hóa thân cùng với hai hầu cận là Quỳnh Hoa và Quế Hoa đi chu du khắp nước, không chỉ nhiều lần thi triển thần thông giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác, mà còn để lại biết bao thần tích và giai thoại. Các triều đại từ thời Hậu Lê trở về sau đều có ghi sự tích của Bà.
Mẫu Liễu Hạnh một trong bốn vị thánh Tứ bất tử
Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử:
Tản viên Sơn Thánh là vị thần núi Tản Viên Ba Vì, tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên;
Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh của tuổi trẻ;
Chử Đồng Tử hay Chử Đạo Tử tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, hôn nhân và sự giàu có;
Mẫu Thượng thiên hay Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ.
Ba vị thánh đầu tiên đều xuất hiện vào thời vua Hùng (vương triều Văn Lang, truyền được 18 đời). Vị thánh Tứ bất tử thứ ba là Chử Đồng Tử xuất hiện vào đời vua Hùng thứ 18 (tồn tại đến năm 258 TCN).
Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1434, vào thời vua Lê Thái Tông (vị hoàng đế thứ 2 của triều Lê nước Đại Việt, trị vì năm 1433 – 1442). Như vậy, phải sau 1700 năm, người Việt mới bổ sung thêm cho mình một vị thánh Tứ bất tử thứ tư. Để lý giải cho câu chuyện này đã có rất nhiều giai thoại.
Tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa đã có từ thời xa xưa gắn với sự tích: Lạc Long Quân (nòi Rồng, Lạc Việt) và Âu Cơ (giống Tiên, Âu Việt) có phúc lành sinh trăm con trai, nở ra từ “Bọc trăm trứng”. Khi các con trưởng thành, 50 người con theo Cha Lạc Long Quân xuống biển, 50 người con theo Mẹ Âu Cơ lên núi.
Mẹ Âu Cơ đưa người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Bạch Hạc (Hạc trắng), Phú Thọ. Đó là vào thế kỷ thứ 7 TCN. Mẹ Âu Cơ được gọi là Quốc mẫu Âu Cơ.
Thời bấy giờ, nước Văn Lang ngoài tín ngưỡng thờ Mẫu, có lẽ chỉ cần 3 vị thánh bất tử.
Vào cuối thời Hùng Vương, thế kỷ 3 – thế kỷ 2 TCN, Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam.
Vào thời kỳ Bắc thuộc (3 lần: năm 179TCN – 39; năm 43- 541; năm 602- 905), các triều đại Trung Quốc không ngừng thực hiện đồng hóa người Việt, nhằm biến Việt Nam thành quận huyện thông qua việc truyền bá văn minh Trung Hoa: Chữ nho, Đạo giáo (Đạo Khổng và Đạo Lão).
Thời nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Đạo Phật ngày càng có vai trò quan trọng, được coi là Quốc giáo.
Các tôn giáo ngoại nhập như Đạo Phật, Đạo giáo đã dần lấn át tôn giáo bản địa – Thần đạo Việt Nam.
Song lịch sử cũng cho thấy, Đạo Phật, Đạo giáo ít có vai trò khi đất nước bị nạn ngoại xâm.
Vào thời Hậu Lê, truyền thuyết về việc Rùa Thần cho mượn kiếm để đánh giặc Minh Trung Quốc là ví dụ tiêu biểu cho nhu cầu phục hưng Thần đạo Việt Nam để gắn kết cộng đồng, khơi dậy nguyên khí và sức mạnh quốc gia.
Tiếp đó, Thần đạo Việt Nam (cùng với ngôn ngữ - chữ Nôm) cũng phải đủ mạnh, tương xứng với sức mạnh quân sự để mở mang bờ cõi về phương Nam; không chỉ thống nhất về đất đai mà còn phải thống nhất cả về văn hóa.
Có lẽ từ nhu cầu xã hội to lớn đó mà các vị tinh hoa của dân tộc Việt đã sáng tạo ra một vị thánh Tứ bất tử mới - Thánh Liễu Hạnh. Đây không phải là một vị thánh mang tính cá nhân như 3 vị thánh trước, mà là vị Giáo chủ của một tổ chức - Đạo Mẫu, khởi nguồn từ một tín ngưỡng bản địa mạnh mẽ, để phục hưng và mở rộng văn hóa nước nhà.
Các vị tinh hoa của dân tộc Việt cũng gửi gắm vào Thánh Mẫu Liễu Hạnh các triết lý văn hóa đương thời mà chính họ đang hướng tới:
Trước hết, Bà là vị Thánh linh thiêng do kết nối được các quyền lực: Quyền lực Phật giáo, Bà quy y cửa Phật, trở thành Mã Vàng Bồ Tát; Quyền lực Đạo giáo, Bà được cho là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế; Quyền lực Vương triều, Bà được các triều đại phong kiến từ thời Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân","Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương".
Bà là người trải qua các cung bậc của đời người để hiểu nỗi vui khổ của chúng sinh, sự thịnh suy của chính thể và hết lòng hành thiện giúp đời qua 3 lần giáng trần ở các kiếp khác nhau và các lần giáng trần khác.
Bà xuất thân là công chúa con vua, song con của Bà tại hai lần giáng trần đều không được nhiều người biết tới. Điều này cho thấy, không phải nguồn gốc xuất xứ mà chính là công tích hay điều tốt đẹp làm cho đời mới quyết định vị thế của mỗi con người.
Bà giáng sinh hay hóa tại vùng đất nào đều như là sự chỉ báo về sự xuất hiện hoặc suy tàn của một dòng họ quyền lực, cũng như sự xuất hiện vị minh chủ mới của quốc gia.
Bà không chỉ giúp đỡ những người dân nghèo khó, trừng trị bọn quan tham tàn ác, mà còn gặp gỡ giới tinh hoa, để hiểu học vấn và khả năng làm những điều tốt đẹp của họ, qua việc Bà gặp 2 lần và xướng họa thơ với vị tiến sĩ Phùng Khắc Khoan (năm 1528 -1613, tục gọi là Trạng Bùng)...Giới hiền tài - nguyên khí quốc gia sau này đã lập phủ Tây Hồ thờ Mẫu Liễu Hạnh tại kinh đô Thăng Long, Hà Nội. Đây cũng là minh chứng về sự tự do sáng tạo đặc sắc của người Việt. Trong hệ thống Thần đạo Việt Nam, có đủ chỗ để những kẻ sĩ muốn làm quan phát tài cho bản thân đến cầu xin Khai ấn như tại đền Trần Nam Định và cũng có đủ chỗ để những kẻ sĩ muốn làm điều tốt đẹp cho dân đến cầu xin Thức tỉnh như tại phủ Tây Hồ, Hà Nội.
Khu Di tích Phủ Dày
Phủ Dầy là một quần thể di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật trên địa bàn xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong đó có 3 công trình chính: Phủ Vân Cát, Phủ Tiên Hương, Lăng Bà Chúa Liễu.
Phủ Dầy xưa kia nằm trên địa bàn làng Kẻ Dầy. Năm 1557, dưới triều vua Lê Anh Tông, làng Kẻ Dầy được đổi thành xã Anh Thái. Năm 1861, dưới triều vua Tự Đức, xã An Thái đổi tên thành xã Tiên Hương.
Năm 1557 triều vua Lê Anh Tông, làng Kẻ Dầy lấy tên chữ là xã An Thái, sau này chia thành 2 xã nhỏ là Tiên Hương và Vân Cát, cách nhau 2 km. Mỗi nơi có phủ thờ Liễu Hạnh riêng là phủ Tiên Hương và phủ Vân Cát.
Ngày nay, xã An Thái đổi tên lại là xã Kim Thái.
Hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch – ngày giỗ của Bà, lần giáng trần thứ hai.
Phủ Tiên Hương
Phủ Tiên Hương như hiện nay được xây dựng vào thế kỷ 17, thời Lê Cảnh Trị (1663 – 1671) và đã qua nhiều lần trùng tu.
Phủ Tiên Hương hướng Tây, về dãy núi Tiên Hương (một trong 6 ngọn núi đất, đá của huyện Vụ Bản: núi Ngăm, núi Tiên Hương, núi Báng, núi Lê, núi Gôi và núi Hổ).
Năm 1996, phủ Tiên Hương đã được sửa chữa lớn để thờ phụ thân của Mẫu Liễu Hạnh và Đức Thánh Trần.
Phía Bắc phủ Tiên Hương là đền Đức Thánh Trần, phía Nam là chùa Tiên Hương, đền thờ Đức vua (Lý Nam Đế), tạo thành một quần thể phủ - đền - chùa.
Mặt bằng phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định
Phối cảnh tổng thể phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Phủ Tiên Hương là một quần thể gồm: Nghi môn, Phương đình, hồ Bán nguyệt, Điện phủ và các công trình phụ trợ.
Nghi môn là một hàng trụ biểu, giới hạn tượng trưng giữa sân ngoài và sân trong của phủ. Phía trước Nghi môn là một hồ tròn. Giữa hồ là một bệ hình vuông, bên trên đặt một đỉnh đồng lớn.
Sau Nghi môn là sân trong. Trong sân có lầu Chuông, Trống và Chiêng, đồng thời cũng là nhà bia. Chính giữa là lầu Chuông, cũng là Phương du đón khách hành hương, 3 gian, 2 tầng mái, 8 mái.
Sau lầu Chuông là hồ Bán nguyệt. Hồ có lan can đá thấp bao quanh và một bức bình phong đá nằm chính giữa. Đối xứng hai bên, bên phải là lầu Cậu, bên trái là lầu Cô.
Hồ Bán Nguyệt; cạnh hồ là lầu Chuông và lầu Chiêng, phía xa là hệ thống các trụ biểu của Nghi môn
Lầu Chuông, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Lầu Chiêng và nơi đặt bia, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban thờ tại lầu Cậu, bên trái tòa Đệ tứ cung, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban thờ tại lầu Cô, bên phải tòa Đệ tứ cung, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Điện phủ gồm 4 tòa nhà đặt song song với nhau theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”: Đệ tứ cung, Đệ tam cung, Đệ nhị cung, Đệ nhất cung (tòa trong cùng).
Đệ tứ cung (Tiền đường) nằm sát hồ Bán nguyệt, là tòa nhà lớn nhất của Điện phủ, gồm 5 gian, 2 chái, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Bên trong thờ Tứ phủ công đồng hay còn gọi là ban Công Đồng.
Đệ tam cung thấp và hẹp hơn Đệ tứ cung, gồm 5 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Bên trong thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Ngũ vị vương quan.
Đệ nhị cung hẹp như kiểu nhà cầu, rộng 2,5m, dài 11m, nối mái Đệ tam cung với mái Đệ nhất cung. Bên trong thờ Tứ vị Chầu Bà và ba bộ long ngai.
Đệ nhất cung (Hậu cung) 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 tầng mái, cao hơn hẳn so với Đệ tam cung và Đệ nhị cung. Bên trong thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Hậu cung có khám kính đặt tượng đồng Mẫu Liễu Hạnh và cùng với hai hầu cận là Mẫu Quang cung Quế Anh phu nhân và Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân.
Bên cạnh Điện phủ còn có các tòa, bên trong đặt ban thờ Ban Trần Triều (thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo) và Ban Đức Vương Phụ, Vương Mẫu. Đằng sau Hậu cung là Động Sơn Trang, nơi thờ bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn và mười hai cô Sơn Trang.
Các hệ thống kèo, xà ngang, xà dọc của các tòa nhà trong phủ Tiên Hương đều được chạm khắc công phu với nhiều họa tiết sinh động hình tứ linh, tứ quý. Một số khám thờ khảm trai, bề thế và tinh xảo.
Phủ Tiên Hương còn lưu giữ được một số sắc phong đầu thế kỷ 18, tôn vinh Thánh Mẫu là “Mẫu nghi thiên hạ”.
Tòa Đệ tứ cung hay Tiền đường, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban Công đồng tại Đệ tứ cung, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Ngũ vị vương quan tại Đệ tam cung, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Bộ Long ngai tại Đệ nhị cung, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban thờ Tứ vị Chầu Bà tại Đệ nhị cung, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Phía sau tòa Đệ nhất cung (Hậu cung), phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban Tam Tòa Thánh Mẫu thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh và hai vị phu nhân hầu cận, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban Bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn tại Động Sơn Trang, phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban Trần Triều, thờ Trần Hưng Đạo, tại phủ Tiên Hương, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Phủ Vân Cát
Phủ Vân Cát nằm ở phía Bắc thôn Vân Cát thuộc xã Kim Thái, cách phủ Tiên Hương chừng 1 km về phía Tây Nam.
Phủ được xây dựng trên một khu đất rộng khoảng 1h, mặt quay về hướng Tây, về núi Ngăm.
Bên phải phủ Vân Cát là đền thờ Đức Vua cha (Lý Nam Đế), bên trái phủ là chùa Vân Hùng, tạo thành quần thể phủ - đền - chùa tương tự như phủ Tiên Hương.
Mặt bằng phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Phối cảnh tổng thể phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Phủ Vân Cát là một quần thể bao gồm: Nghi môn và Lầu chuông, Hồ và Thủy lâu, Điện phủ và các công trình phụ trợ.
Nghi môn là một dãy với 5 gác lầu, là gác chuông, được xây dựng vào thế kỷ 19, thời vua Tự Đức (hoàng đế thứ 4 triều Nguyễn, trị vì năm 1847- 1883).
Phía ngoài Nghi môn là một hồ nước. Trên hồ có một tòa Thủy lâu (Phương đình) để thoáng 4 mặt, nối với bờ bằng 2 cây cầu đá. Thủy lâu được xây dựng vào năm 1900, là tòa 3 gian, 4 mái, 4 góc là 4 cột đá. Lan can xung quanh bằng đá với các mảng phù điêu chạm khắc hoa văn.
Phía trong Nghi môn là khoảng sân rộng trước khi vào Điện phủ.
Nghi môn phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Tòa Thủy Lâu trên hồ phía trước Nghi môn, phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Điện phủ có cấu trúc kiểu “nội trùng thiềm, ngoại chữ quốc”, gồm 4 tòa nhà đặt song song với nhau: Đệ tứ cung, Đệ tam cung, Đệ nhị cung, Đệ nhất cung (tòa trong cùng) gắn liền với hệ thống các tòa Tả mạc, Hữu mạc như hành lang bao quanh.
Đệ tứ cung, còn gọi là tòa Tiền đường, 5 gian, mái 2 tầng, 8 mái; bộ cách cửa chạm vân mây, rồng, hoa lá… đường nét rất tinh xảo. Các xà, kẻ, bẩy được gia công chạm khắc, soi chỉ công phu với nhiều hình tứ linh, tứ quý.
Đệ tứ cung thờ Quan Giám sát. Hai bên sập thờ có giá để những đồ bát bửu. Trong Đệ tứ cung có những bức y môn và đại tự chạm khắc cầu kỳ và sơn son thếp vàng rực rỡ.
Trong sân, bên trái tòa Đệ tứ cung là lầu Cô, bên phải là lầu Cậu, là tòa tháp với mái 2 tầng, 8 mái.
Đệ tam cung, còn gọi là tòa Bái đường, 5 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Đệ tam cung thờ Công đồng tứ Phủ, Bà Chúa Bản Đền.
Đệ tứ cung và Đệ tam cung được tôn tạo và mở rộng vào năm 1879. Cả hai cung này bị giặc Pháp ném bom phá hủy. Năm 1959, dân làng dựng lại Đệ tứ cung. Còn Đệ tam cung được dựng lại sau này vào năm 1992.
Đệ nhị cung 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Đệ nhị cung thờ Tứ vị Chầu bà và Ngũ vị Quan lớn, đặc biệt có hai khám hai bên thờ Ông Hoàng Mười (bên phải) và Ông Hoàng Ba (bên trái).
Đệ nhất cung hay Hậu cung 3 gian, mái 2 tầng, 4 mái, cao vượt hơn hẳn so với Đệ tam cung và Đệ nhị cung. Đệ nhất cung thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tượng bằng đồng gồm có Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn bên trái, Mẫu Thoải bên phải.
Trong Phủ còn lưu giữ được nhiều câu đối, đại tự, hoành phi và hệ thống văn bia có giá trị.
Phối cảnh tòa Đệ Tứ cung (Tiền đường), bên phải là lầu Cô, bên trái là lầu Cậu, phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Ban Ngũ vị Quan lớn tại tòa Đệ nhị cung, phủ Vân Cát, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Lăng Bà Chúa Liễu
Lăng Bà Chúa Liễu nằm ở thôn Tiên Hương trên cồn có hình cá chép, được xây gạch lát đá.
Vào năm 1938, vua Bảo Đại (hoàng đế thứ 13 triều Nguyễn, trị vì năm 1925 - 1945) cầu tự Thánh Mẫu được quý tử, đã cho trùng hưng lại lăng mộ với chất liệu bằng đá xanh và 60 búp sen đá như hiện tại.
Lăng có diện tích 625m2, gồm có cửa vào theo 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Hướng chính quay về phía Tây, về phía núi Tiên Hương.
Giữa lăng là ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh chừng 1m.
4 góc lăng mộ là 4 trụ cột đá. Tại bốn cửa ở bậc cuối cùng đều có một bức bình phong bằng đá án ngữ. Phía sau cửa chính, nằm về hai phía góc đối diện với cửa ra vào là hai nhà bia.
Bên cạnh khu lăng mộ còn có một tòa thờ tự. Ban thờ Mẫu nằm chính giữa, bên trái ban thờ Bà Cai Bản mệnh, tiếp là ban thờ đức Thánh Trần; bên phải là ban thờ Quan lớn đệ nhất và ban thờ Nhị Vị Cô Nương.
Mặt bằng Lăng Bà Chúa Liễu, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Khu Di tích Phủ Dầy, Nam Định
Phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Mẫu Liễu Hạnh tại Khu di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật phủ Giầy thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định là minh chứng sống động về Đạo Mẫu Liễu Hạnh, một trong tín ngưỡng quan trọng hàng đầu của Thần đạo Việt Nam
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%E1%BB%85u_H%E1%BA%A1nh_c%C3%B4ng_ch%C3%BAa
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADn_ng%C6%B0%E1%BB%A1ng_th%E1%BB%9D_
M%E1%BA%ABu_Vi%E1%BB%87t_Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_ph%E1%BB%A7
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A9_ph%E1%BB%A7
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1o_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam
http://special.vietnamplus.vn/thomautamphu
https://ich.unesco.org/en/RL/practices-related-to-the-viet-beliefs-in-the-mother-goddesses
-of-three-realms-01064
https://www.youtube.com/watch?v=L8uG3kEJc48
https://www.youtube.com/watch?v=UlD4E4-mMeU
https://www.youtube.com/watch?v=wRu2jnv0fj0
- Xem Phủ Tây Hồ, Hà Nội tại đây
- Xem Phủ Quảng Cung, Ý Yên, Nam Định tại đây
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|