Thông tin chung:
Công trình: Chùa Chuông, Chùa Phố, Đình – Chùa Hiến, Chùa Nễ Châu
Địa điểm: Khu di tích Phố Hiến thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên
Quy mô: 4 trong số 16 di tích chính
Năm hình thành: Thế kỷ 15- 17
Giá trị: Di tích Quốc gia đặc biệt (Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, năm 2014)
Phố Hiến
Phố Hiến tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên là một địa danh lịch sử ở Việt Nam.
Vào thế kỷ 17, đây là một thương cảng nổi tiếng của Việt Nam và được biết tới như một "vùng đất lành" của khu vực Đông Á, tương tự như Hội An, Quảng Nam. Ngoài kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ phồn vinh nhất nước, Phố Hiến đã là một đô thị nổi bật đứng ở vị trí thứ hai. Dân gian có câu: "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến".
Lịch sử hình thành và phát triển
Ngay từ thời Hùng Vương, các thày địa lý đã chia châu thổ Bắc Bộ thành 3 vùng: Thượng châu thổ với đỉnh của các triền sông là Việt Trì; Trung châu thổ với đỉnh là Cổ Loa; Hạ châu thổ với đỉnh là Phố Hiến. Trong Tứ bất tử của Việt Nam, vị Thánh thứ 3 là Chử Đồng Tử (thời Hùng Duệ Vương, vua Hùng thứ 18, thế kỷ 3 TCN), tượng trưng cho sự thịnh vượng, được cho là có liên quan đến việc hình thành tuyến giao thương buôn bán Kẻ Chợ, Thăng Long – Phố Hiến, Hưng Yên sau này.
Tại Hạ châu thổ, các nhánh sông trải ra vùng đồng bằng như những chiếc nan quạt. Phố Hiến xưa nằm sát bên bờ tả ngạn sông Hồng (ngày nay do phù sa bồi đắp nên cách sông khoảng chừng 2 km). Theo đường sông, Phố Hiến cách Kinh Đô Thăng Long – Kẻ Chợ 55 km. Từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên mất 3 ngày.
Bằng đường thuỷ, Phố Hiến trở thành nơi trung chuyển, cửa ngõ án ngữ hoặc thông thương của mọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh đô Thăng Long, qua các tuyến sông Đáy, sông Hồng, sông Thái Bình.
Thế kỷ 10, vùng Đằng Châu ở phía Bắc thành phố Hưng Yên ngày nay vốn là một lãnh địa của sứ quân Phạm Bạch Hổ (910- 972). Ông đã gây dựng nơi đây thành thủ phủ một vùng đất rộng lớn và là một trung tâm quân sự thời 12 sứ quân. Đến thời Tiền Lê (Đại Cồ Việt, tồn tại 980- 1009), vùng đất này tiếp tục là căn cứ hậu cần của Lý Công Uẩn (sau này là vua Lý Thái Tổ, sáng lập triều Lý, trị vì 1009- 1028).
Thế kỷ 13, dưới thời nhà Trần (Đại Việt, tồn tại 1225-1400), khi nhà Nguyên (Trung Quốc, tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống (Trung Quốc, tồn tại 960 -1279), một số người Trung Hoa (chính trị gia, thương gia) chạy sang Việt Nam tị nạn. Tại Phố Hiến, họ lập nên làng Hoa Dương. Một số người Việt từ nhiều địa phương khác nhau cũng tìm đến địa điểm này để giao lưu, buôn bán và định cư.
Theo sử sách, tên Phố Hiến có xuất xứ từ chữ Hiến của Hiến Doanh hay Hiến Nam, vốn là cơ quan hành chính của trấn Sơn Nam xưa, được cho xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 15, thời vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5 của triều Hậu Lê, trị vì 1460- 1497).
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một trung tâm kinh tế với nhiều mối giao lưu trong nước và quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có các công sở của trấn lỵ xứ Sơn Nam, cũng như các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong và ngoài nước.
Thế kỷ 17, giao thương giữa Phố Hiến đạt đến thời điểm cực thịnh, trở thành điểm nút trung chuyển quan trọng trên tuyến giao thương giữa Đàng Ngoài với các đô thị thương cảng tại Đàng Trong, vươn ra các tuyến giao thông quốc tế trên biển tới Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Đông Nam Á, các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp...
Phố Hiến trở thành một đô thị kinh tế nổi bật tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ.
Bản đồ Phố Hiến xưa, Hưng Yên
Suy thoái
Vào đầu thế kỷ 18, các tuyến giao thương trực tiếp bằng đường biển tại Trung Quốc, Nhật Bản trở nên thông thoáng hơn sau khi các quốc gia này dỡ bỏ lệnh cấm vận. Cùng với sự phát triển của các đội tầu có tải trọng lớn, vai trò của cảng biển (nước sâu) tại khu vực Đông Á dần trở nên quan trọng hơn cảng sông. Bến cảng Phố Hiến do sự bồi lở của sông Hồng chỉ có khả năng tiếp nhận thuyền buôn nhỏ. Trạm hải quan tại Phố Hiến đã được chuyển qua bến cảng biển Ninh Hải (Hải Phòng).
Các loại hàng hóa xưa sản xuất tại Đàng Ngoài (tơ sống, quế…) đã trở nên phổ biến tại các quốc gia Đông Á.
Các vị quan cai trị những giai đoạn sau này không còn được như xưa, vấn nạn tham nhũng, quấy nhiễu thương nhân lan tràn. Phố Hiến không còn là nơi đất lành.
Ngoại thương tại điểm trung chuyển Phố Hiến dần suy giảm. Các thương điếm phương Tây ở Phố Hiến lần lượt đóng cửa. Phố Hiến vắng hẳn các khách buôn nước ngoài, trừ người Trung Quốc.
Năm 1726, vào thời Lê - Trịnh (1545- 1787) trấn lị Sơn Nam được chuyển sang bên hữu ngạn sông Hồng thuộc huyện Duy Tiên (Hà Nam). Năm 1741, trấn Sơn Nam được tách thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ.
Sang thế kỷ 19, vào thời nhà Nguyễn (tồn tại năm 1802 -1945), kinh đô nước Việt chuyển vào Huế. Năm 1804, trấn lị Sơn Nam Thượng từ Phố Hiến đã được di chuyển về Châu Cầu (Phủ Lý). Năm 1831, tỉnh Hưng Yên được thành lập, Phố Hiến chỉ còn mang chức năng hành chính.
Cộng đồng dân cư Phố Hiến
Trong lịch sử phát triển, với vị trí giao thương thuận lợi, Phố Hiến đã trở thành nơi dành cho cả người Việt và người nước ngoài đến đây sinh sống, ví dụ như Trung Quốc, Nhật, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…Trong đó người Việt và người Hoa có vai trò quan trọng.
Tại văn bia chùa Hiến dựng năm 1709, đã liệt kê tới hơn 50 địa phương khắp miền Bắc có người đến Phố Hiến làm ăn, sinh sống.
Bên cạnh cộng đồng người Việt, đông đảo người Hoa đã đến cư trú tại Phố Hiến.
Người Hoa đến đây từ hai nguồn chính:
Thứ nhất, họ là những người Hoa vượt biển từ Trung quốc sang Việt Nam tị nạn chính trị, khi nhà Nguyên (tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống (tồn tại 960 -1279) và nhà Thanh (tồn tại 1636 – 1912) diệt nhà Minh (tồn tại 1368- 1644).
Thứ hai, họ là những thương nhân buôn bán trên biển, có quê gốc tại miền Nam Trung Quốc. Ngoài ra, những thương nhân này còn đến từ đường bộ qua biên giới, hoặc từ Thăng Long – Kẻ Chợ về đây buôn bán.
Những người Hoa lập các cửa hiệu, tập trung thành các phố thương mại. Ngoài nhà ở, cửa hàng, họ còn xây dựng nhiều chùa, đền, miếu, hội quán để lưu giữ Đạo giáo của người Trung Quốc. Theo thời gian, những người này hòa nhập với cộng đồng người Việt và trở thành người Việt. Địa điểm tụ cư đầu tiên của người Hoa ở Phố Hiến là Hoa Dương, sau gộp thêm các xã Hoa Điền (Lương Điền), Hoa Cái (Phương Cái) hợp thành Tam Hoa. Các cửa hiệu của Hoa Kiều phổ biến là buôn bán vải vóc, đồ sứ, tạp hóa, thuốc Bắc; được tập trung ở phố Khách, phố Bắc Hoà, Nam Hoà; nhiều nhà xây gạch ngói. Người ta cho rằng, hiện vẫn có tới 14 dòng họ gốc Hoa Kiều sinh sống ở Phố Hiến như các họ: Ôn, Tiết, Hoàng, Lý, Trần, Bạch, Quách, Mã, Thái, Hà, Hứa, Từ, Lâm, Khu…
Sau này, khi giao thương với châu Âu phát triển, người Hoa còn có vai trò vận chuyển thuê cho các thương gia đến từ các nước châu Âu như Hà Lan, Anh (Công ty Đông Ấn) và các quốc gia tại khu vực Đông Á.
Họ vận chuyển tơ sống (xuất sang Nhật Bản); bạc và đồng (nhập từ Nhật); hồ tiêu, đường, lưu huỳnh, diêm tiêu (nhập từ các quốc gia Nam Á); lụa, đồ gốm, sơn mài (xuất đi Batavia, thủ phủ của Đông Ấn Hà Lan, ngày nay là Jakarta, Indonesia)…
Vào thế kỷ 18, 19, khi việc buôn bán sa sút, các thương gia người Hoa một phần trụ lại Phố Hiến, một phần quay trở lại Thăng Long – Hà Nội.
Người Nhật cũng đến Phố Hiến vào khoảng đầu thế kỷ 17, chủ yếu là các thương nhân buôn bán xuyên đại dương. Họ mang bạc, đồng đến đây mua, đổi các loại tơ. Vào năm 1635, thời Mạc phủ Tokugawa, (chính quyền do tầng lớp võ sĩ Nhật Bản lãnh đạo, trị vì từ năm 1603- 1868, triều đình Thiên Hoàng chỉ có ý nghĩa tượng trưng) với sự ra đời của Luật bế quan tỏa cảng (Tòa Quốc), chỉ các chuyến tàu hồi hương mới được phép cập bờ. Nhiều kiều dân Nhật Bản không dám trở về và lưu lại Phố Hiến (cũng như Hội An, Quảng Nam, Việt Nam). Những người Nhật này thường làm những nghề như hoa tiêu dẫn tàu thuyền vào cửa sông, phiên dịch, môi giới…Một số người lập các lò sản xuất gốm Hizen với các vật dụng điển hình như ấm, chén, bình rượu, hộp nhỏ, được trang trí bởi các loại men và hình tượng mang đậm văn hóa Nhật Bản. Tại đây còn có nghĩa trang dành riêng cho người Nhật Bản.
Ngoài ra, tại Phố Hiến còn có các thương nhân Châu Á khác như Thái Lan, Malaysia, Philipin…
Thương nhân phương Tây đến Phố Hiến chủ yếu là người Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và Pháp. Người Bồ Đào Nha đến sớm nhất, vào năm 1626. Một số người phương Tây đến đây kết hợp việc buôn bán với truyền giáo.
Phố Hiến – Đô thị kinh tế và văn hóa
Phố hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng (đoạn sông Xích Đằng), ngày nay tương ứng với phần đất của thôn Đằng Châu (xã Lam Sơn, thành phố Hưng Yên) và thôn Nễ Châu (xã Hồng Châu, thành phố Hưng Yên) trên một diện tích 5km x 1km, khoảng 500ha. Phố Hiến được sử sách miêu tả là một phố thị khá lớn với chừng 2000 nóc nhà, tương đương khoảng 1 vạn dân.
Phố Hiến là một đô thị tương đối đặc biệt, không có thành lũy bao quanh, chỉ có yếu tố thị mà không có yếu tố thành, mặc dù tại đây cũng có đồn binh với nhiều quân sĩ đồn trú.
Các vị quan cai trị Phố Hiến không chỉ được triều đình tín nhiệm, dân chúng yêu mến mà còn được cả các thương gia nước ngoài nể trọng. Một trong những vị quan có công mở mang, xây dựng Phố Hiến là Quận công Thái Bảo Lê Đình Kiên (1620-1704), quan dưới thời Lê Trịnh. Ông là vị quan tài năng, đức độ, không những có tài về cai trị mà còn giỏi thương nghiệp, ngoại giao, nổi tiếng trong việc giao thiệp với các thương nhân ngoại quốc đến buôn bán tại Phố Hiến.
Lúc ông mất, cả người Việt và người nước ngoài ngụ ở Phố Hiến đều dựng miếu thờ, tạc bia ghi công ông.
Trên tấm bia khắc ca ngợi ông, một thương nhân Trung Quốc viết: “Ngài yêu dân như yêu con, dẹp yên giặc biển, tiết kiệm tiêu pha, ngay cả con trẻ cũng biết và ca ngợi lòng trung của ngài với vua với nước…Là những thương nhân đến từ xa, không dám tự coi mình là những thần dân, nhưng vì đã sống lâu năm ở Việt Nam, chúng tôi tỏ lòng nhiệt thành sủng ái ngài…”.
Nhiều viên quan cai trị tại Phố Hiến được coi là đại thần của quốc gia, là mẫu mực về giải quyết các việc công.
Phố Hiến từ một điểm dân cư trở thành một đô thị kinh tế lớn vào thế kỷ 17. Lúc đầu là các hoạt động buôn bán qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn, xuất hiện sự chuyển dịch trọng tâm từ kinh tế nội sinh (thủ công nghiệp, buôn bán trong nước) sang kinh tế ngoại sinh (buôn bán với nước ngoài).
Ngoài chức năng là trung tâm hành chính trấn Sơn Nam với các cơ quan công quyền, Văn Miếu (nơi tổ chức các cuộc thị lựa chọn hiền tài)… diện mạo đô thị kinh tế của Phố Hiến thể hiện qua các không gian chức năng: Bến cảng sông; Hệ thống chợ; Khu phố phường; Hiệu buôn của người nước ngoài, đặc biệt là phương Tây.
Bến cảng Phố Hiến là nơi các tàu thuyền ngoại quốc lưu đỗ để làm thủ tục kiểm soát và xin giấy phép đi tiếp tới Kinh đô.
Cùng với bến cảng là hệ thống các khu chợ khá sầm uất như chợ Vạn, chợ Hiến, chợ Bảo Châu...Những chợ này đã vượt khỏi khuôn khổ những chợ địa phương để thành các chợ liên vùng, liên quốc gia.
Khu phố phường là các khu định cư của người Việt và các kiều dân ngoại quốc (chủ yếu là người Hoa).
Theo các văn bia ở chùa Hiến (1709) và chùa Chuông (1711), Phố Hiến thời đó có khoảng 20 phố phường. Qua các bi ký, có thể đọc được 13 phố và 32 tên cửa hiệu buôn bán như các Tân Thị, Tân Khai, Tiên Miếu, Hậu Trường…
Trong thế kỷ 17, các hiệu buôn (thương điếm) của người Phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến, ví như: Thương điếm Hà Lan (1637-1700) buôn bán tơ sống, quế; Thương điếm Anh (1672-1683) buôn bán nguyên liệu lưu huỳnh tạo thuốc súng, vũ khí, hợp kim kẽm – đồng – sắt để đúc tiền, các loại dạ và vải khổ rộng của Anh, đồ kỹ xảo ngoại quốc dành cho vua chúa; đặt mua để xuất khẩu tơ lụa, đồ gỗ sơn mài, gốm sứ, hương liệu, xạ hương, lâm thổ sản…Phương thức mua bán ngoài việc trả tiền mặt còn có trao đổi hàng hóa.. Mỗi thương điếm là một quần thể kiến trúc văn phòng đại diện kiêm nhà kho của các Công ty Đông Ấn (Hà Lan, Anh). Các công trình được xây bằng gạch, sau này đã bị phá hủy hoàn toàn.
Kiến trúc tại đô thị Phố Hiến là sự đa dạng phong cách, từ kiến trúc Việt Nam, kiến trúc Trung Hoa (tại vùng Phúc Kiến, miền Nam Trung Quốc) đến kiến trúc châu Âu (ví như phong cách kiến trúc Gothic của nhà thờ Phố Hiến)...
Truyền thuyết về Chuông thần
Có nhiều truyền thuyết về Phố Hiến, trong đó có liên quan đến chùa Chuông và chuông chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội).
Khi dời kinh đô từ Hoa Lư, Ninh Bình về Đại La, Thăng Long, để khơi thông nguồn lực, năm 1108, vua Lý Nhân Tông (Hoàng đế thứ 4 triều Lý, trị vì năm 1072-1128) cho đúc một chiếc chuông lớn đặt tại chùa Diên Hựu, tên là Giác Thế Chung (chuông Thức tỉnh thiên hạ). Đây được xem là một trong Tứ đại khí của Việt Nam thời Lý, bao gồm: Tháp Báo Thiên, Chuông Qui Điền, Vạc Phổ Minh và Tượng Phật Quỳnh Lâm.
Chuông chùa thường có hai dạng: Chuông treo trong tháp gọi là tháp chuông và chuông đặt trên mặt đất trong một tòa nhà gọi là tòa chuông. Chuông chùa Diên Hựu to nên đặt trên mặt đất, trong tòa chuông, tại rìa chùa. Rùa ngoài ruộng thường bò vào trú bên trong, nên dân gian gọi đây là chuông Quy Điền.
Điều kỳ diệu là khi chuông Quy Điền ngân lên, bao nhiêu vàng bạc, châu báu và hiền tài của thiên hạ theo đó đổ về. Thăng Long thành đất Kinh kỳ phồn thịnh.
Người phương Bắc lo sợ, nhiều lần cử người tìm đến. Người dân bèn mang chuông giấu đi, chỉ cho một số ít người tin cậy biết, để truyền lại cho đời sau.
Đầu thế kỷ 15, nhà Minh xâm lược Đại Việt, quyết cho quân phá chuông Quy Điền.
Vào thời điểm này, xảy ra một trận đại hồng thủy trên sông Hồng. Tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, Hưng Yên, có một quả chuông trôi vào bãi sông. Dân làng cho là Trời, Phật mách bảo bèn góp công của dựng chùa, xây tòa đặt chuông, gọi là Kim Chung Tự - chùa Chuông Vàng. Khi chuông chùa ngân lên, không chỉ vàng bạc, châu báu mà cả hiền tài của thiên hạ theo đó đổ về Phố Hiến. Nơi đây trở nên trù phú, ngoài Kinh kỳ Thăng Long, không đâu sánh kịp. Người dân cho rằng, chuông tại chùa Chuông chính là chuông Quy Điền. Trong chùa Chuông có một tấm bia đá ghi lại các sự kiện thịnh vượng của Phố Hiến, như muốn báo với Tiền nhân về công tích của Chuông thần.
Người phương Bắc biết, lại cử người tìm đến. Người dân lần nữa lại mang chuông giấu kỹ.
Từ khi Chuông thần không ngân vang, tiền của không đổ về, hiền tài không hội tụ. Phố Hiến dần suy tàn.
Khu di tích Phố Hiến
Khu di tích Phố Hiến là Di tích quốc gia đặc biệt về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, gồm 16 di tích tiêu biểu, đại diện cho khoảng 100 di tích lịch sử được bảo tồn và lưu giữ tại Phố Hiến, phân bố trong 6 phường, xã của thành phố Hưng Yên:
Phường Lam Sơn: Văn Miếu Xích Đằng, đền Mây, đền Kim Đằng;
Phường Hiến Nam: Chùa Chuông, đình An Vũ, đền Nam Hòa;
Phường Quang Trung: Chùa Phố, đền Trần, đến Mẫu, đền Thiên Hậu, đền Bà Chúa Kho, Võ Miếu;
Phường Lê Lợi: Đền Cửu Thiên Huyền Nữ;
Phường Hồng Châu: Đình- chùa Hiến, Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung;
Xã Hồng Nam: Chùa Nễ Châu.
Dưới đây giới thiệu 4 di tích chùa:
Chùa Chuông
Chùa Chuông có tên chữ là Kim Chung tự, tọa lạc tại khu phố chùa Chuông, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên.
Chùa Chuông được xây dựng vào thế kỷ 15, thời Hậu Lê và trải qua một cuộc trùng tu lớn vào năm 1707, tạo nên ngôi chùa như ngày nay.
Chùa Chuông có mặt tiền hướng Nam, kết cấu kiểu "nội công ngoại quốc" (công trình bên trong tạo thành hình chữ H, có các công trình bao quanh tạo thành hình chữ nhật), bao gồm các hạng mục: Nghi môn, Tiền đường, Chính điện, nhà Tổ, nhà Mẫu và các công trình phụ trợ khác.
Phối cảnh tổng thể chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Nghi môn
Nghi môn hay Tam quan của chùa Chuông lớn, gồm 3 khối cổng. Khối giữa rộng, lớn với 3 tầng 12 mái. 2 khối bên nhỏ với 2 tầng, 8 mái. Hai bên cổng có hai trụ biểu. Trên đỉnh trụ trang trí con nghê chầu; thân trụ trang trí các ô lồng đèn, ô trang trí câu đối; đế trụ thắt cổ bồng.
Qua Nghi môn là con đường tới cầu đá 3 nhịp bắc qua ao có tên Mắt Rồng. Cầu được xây dựng vào năm 1792.
Hai đầu cầu đặt 4 con nghê đá được chạm khắc tinh xảo.
Sau cầu đá là tới sân trước tòa Tiền đường.
Sân chùa rộng, lát gạch Bát Tràng; chính giữa sân có một làn đường lát đá xanh dẫn đến tòa Tiền đường với ý nghĩa về một con đường “Nhất chính đạo”.
Nghi môn chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Cầu đá bắc qua ao Mắt Rồng tại chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Sân phía trước tòa Tiền đường với trục chính giữa lát đá xanh, chùa Chuông, Phố Hiến
Tiền đường
Tòa Tiền đường 5 gian, 2 chái, 4 mái. Hai đầu mái có hai đoạn tường hồi với trụ biểu nhô ra phía trước. Tòa Tiền đường là nơi chuẩn bị các đồ nghi lễ. Nội thất bên trong đơn giản.
Phối cảnh tòa Tiền đường, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Bên trong tòa Tiền đường, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Từ tòa Tiền đường nhìn vào sân trong trước Bái đường, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Chính điện chùa Chuông có mặt bằng hình “chữ công” hay chữ H. gồm Bái đường, Thiêu Hương và Thượng điện.
Tòa Bái đường 5 gian, 2 chái, 4 mái, có kết cấu tương tự như tòa Tiền đường, mang đậm kiến trúc thời Hậu Lê.
Tòa Thiêu hương đặt dọc nối liền tòa Tiền đường với tòa Thượng điện phía sau.
Tòa Thượng điện 3 gian, 4 mái, dài 10,5m, rộng 7m, đặt dọc nối tiếp từ tòa Thiêu hương.
Bên trong Thượng điện là ban thờ Phật và các chư vị Bồ tát.
Hai bên tòa Tiền đường và Chính điện có hai dãy Tả vu và Hữu vu, mỗi dãy 10 gian, dài 23,2m, rộng 3m.
Hai dãy này nối Tòa Tiền đường với tòa Bái đường tạo thành một sân trong thứ nhất, còn gọi là “Thiên Tỉnh” – giếng trời. Giữa sân có một cây hương đá, gọi là “Thạch trụ”, cao 1,55m, bốn mặt khắc chữ Hán ghi công của người dân đóng góp tu sửa chùa.
Hai dãy này nối tòa Bái đường với nhà Tổ phía sau tạo thành hai khe sân hẹp.
Cuối của dãy Tả vu và Hữu vu giao với Nhà tổ là hai khối tháp chuông, tháp chiêng. Tháp 4 mái, cao vượt lên trên mái của tòa Tả vu và Hữu vu.
Bên trong hai dãy Tả vu và Hữu vu bố trí hệ thống phù điêu miêu tả các cảnh theo triết lý Phật giáo về luật Nhân Quả; tượng Tứ Thiên vương, tượng Bát Bộ Kim Cương và 18 pho "Thập Bát La Hán" với các tư thế sinh động, đời thường.
Tại đầu dãy Hữu vu, cạnh Nhà tổ, có lưu giữ một tấm bia đá dựng năm 1711, ghi tên những người công đức tu sửa chùa, đặc biệt ghi lại việc xây dựng Phố Hiến với tên các phố phường và cửa hiệu buôn bán vào đầu thế kỷ 18.
Sân trong giữa tòa Tiền đường và Bái đường; Giữa sân là Thạch trụ, chùa Chuông, Phố Hiên, Hưng Yên
Bên trong tòa Bái đường, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Tượng Hộ pháp bên trong Bái đường, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Bên trong tòa Thượng điện, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Ban thờ Phật bên trong tòa Thượng điện, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Hệ thống phù điêu miêu tả các cảnh về luật Nhân Quả tại Tả vu, Hữu vu, chùa Chuông, Phố Hiến
Tượng Bát Bộ Kim Cương và 18 pho "Thập Bát La Hán", tại Tả vu, Hữu vu, chùa Chuông, Phố Hiến
Tháp chuông và Tháp chiêng tại cuối dãy Tả vu, Hữu vu, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Bên trong Tháp chuông và Tháp chiêng chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Lối đi dọc theo Tả vu và Hữu vu gắn với vườn chùa, chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Một bức chạm trang trí bên trong Chính điện chủa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Tấm bia đá ghi quá trình xây dựng Phố Hiến, chùa Chuông, Hưng Yên
Nhà Tổ
Nhà Tổ nằm ngay phía sau Chính điện, 5 gian, 2 mái. Đây là nơi đặt ban thờ Tổ và các vị sư trụ trì chùa.
Ngoài ra trong chùa Chuông còn có các công trình khác như nhà thờ Mẫu, vườn chùa với các tháp mộ của sư tổ trụ trì chùa.
Bàn thờ tổ với nhiều tượng Quan Âm bằng đá
Phía sau nhà Tổ; hai đầu là Lầu chuông, Lầu chiêng của Tả vu, Hữu vu, chùa Chuông
Giếng cổ và vườn tháp chùa Chuông, Phố Hiến, Hưng Yên
Vào giai đoạn thế kỷ 15- 17, Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên là địa điểm nổi bật trong lịch sử phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ.
Các công trình kiến trúc còn bảo tồn tại Phố Hiến có giá trị tiêu biểu trong quá trình phát triển kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam.
Chùa Chuông là một trong những di tích thể hiện tầm quan trọng về vị thế tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa của Khu phố cổ Phố Hiến. Những truyền thuyết về Chùa Chuông luôn là điểm khởi đầu cho việc nghiên cứu và phục dựng Khu phố cổ Phố Hiến.
Chùa Phố
Chùa Phố toạ lạc trên đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Xưa kia, đây là khu vực người Hoa và người Nhật tập trung sinh sống và lập lên phố Bắc Hoà. Ngôi chùa là minh chứng cho sự tồn tại về tôn giáo, tín ngưỡng của người Hoa tại Phố Hiến.
Ban đầu, chùa có quy mô nhỏ, chỉ là lầu thờ Quan âm. Sau đó, người dân gốc Trung Quốc ở phố Bắc Hoà tiến hành tu sửa, mở rộng vào năm 1875, năm 1903, thời nhà Nguyễn và đổi tên là chùa Minh Hương với mong muốn làm rạng rỡ quê hương bản xứ. Do nằm tại phố Bắc Hòa nên chùa còn có tên là Bắc Hoà tự.
Đến đầu thế kỷ 20, chùa được tu sửa để trở thành trung tâm Phật giáo của tỉnh Hưng Yên và có tên mới là Bắc Hoà Nhân Dân tự.
Do ngôi chùa nằm ở trong khu phố phường, nên người dân thường goi là chùa Phố và lâu dần thành tên chính của chùa.
Ban đầu chùa quay về hướng Nam, năm 1926, được tu sửa với quy mô lớn với bố cục quay về hướng Bắc.
Hiện nay, chùa Phố có diện tích khoảng 900m2, gồm các hạng mục: Tam quan, Chính điện, nhà Tổ, nhà Mẫu và các công trình phụ trợ khác.
Nghi môn
Nghi môn nằm sát đường phố, gồm 3 khối cổng, theo kiểu chồng diêm. Khối cổng chính cao, lớn với 3 tầng mái, 12 mái với nhiều trang trí. Hai khối cổng hai bên thấp với 2 tầng mái, 8 mái, mô phỏng kiến trúc của khối cổng chính. Trên cổng chính có dòng chữ ”Bắc Hòa Nhân Dân tự”.
Sau Nghi môn là sân chùa, dài 9m, rộng 8m.
Nghi môn chùa Phố, Phố Hiến, Hưng Yên
Trang trí trên mái Nghi môn chùa Phố, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Chính điện gồm 3 tòa Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện.
Nhà Tiền đường, dài 18m, rộng 7m, gồm 3 gian. Phía trước gian giữa nhô lên lầu chuông. Bên trong treo 3 chuông nhỏ. Kết cấu đỡ mái đơn giản, có thêm phần chồng diêm hay phần cửa mái.
Hai bên tường bên trong Tiền đường có phù điêu miêu tả các sự tích theo triết lý nhà Phật.
Nối Tiền đường với tòa Thượng điện là tòa Thiêu hương với kết cấu mái kiểu vòm cuốn như kiến trúc nhà thờ Kito giáo.
Tòa Thượng điện 3 gian, dài 14m, rộng 6m. Kết cấu mái là vì kèo kiểu vòm cuốn.
Bên cạnh Thượng điện là nhà Mẫu. Trước nhà Mẫu là nhà Bia, vườn Tháp.
Áp sát Nghi môn là nhà Tổ 4 gian.
Nhìn chung, tổng thể các hạng mục kiến trúc chùa Phố là sự kết hợp giữa nét kiến trúc Trung Hoa hợp với kiến trúc truyền thống của người Việt và phương Tây. Đây là loại hình kiến trúc chùa ít gặp ở tỉnh Hưng Yên, cũng như vùng Đồng bằng sông Hồng, thể hiện văn hóa quốc tế tại Phố Hiến thời xưa.
Tòa Tiền đường với lầu chuông trên mái, chùa Phố, Phố Hiến, Hưng Yên
Kết cấu mái kiểm vòm tại Chính điện, chùa Phố, Phố Hiến, Hưng Yên
Hai bức phù điều miêu tả sự tích nhà Phật bên trong Tiền đường, chùa Phố, Phố Hiến
Ban thờ trong tòa Tiền đường, chùa Phố, Phố Hiến, Hưng Yên
Ban thờ Phật bên trong Thượng điện, chùa Phố, Phố Hiến, Hưng Yên
Ban thờ Mẫu trong nhà Mẫu, chùa Phố, Phố Hiến, Hưng Yên
Nhà Bia và vườn Tháp phía trước nhà Mẫu, chùa Phố, Phố Hiến, Hưng Yên
Hiện tại, chùa còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật có giá trị như hệ thống tượng Phật cổ, bát hương bằng đá, chuông đồng, các bức đại tự, câu đối được sơn son thếp vàng…
Đình, chùa Hiến
Đình, chùa Hiến tọa lạc tại Phố Hiến hạ thuộc trung tâm Phố Hiến xưa, nay là đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thành phố Hưng Yên.
Chùa Hiến có tên chữ là Thiên Ứng tự, được cho là xây dựng vào đầu thời Trần, liên quan đến vua Trần Thái Tông (vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần nước Đại Việt, trị vì 1226- 1258) với nên hiệu là Thiên Ứng Chính Bình (1232 – 1251). Chùa có tên nôm là Hoa Dương hay Hoa Giang. Tuy nhiên, tên gọi phổ biến nhất vẫn là chùa Hiến, được định danh từ thế kỷ 15, khi Hiến Doanh hay Hiến Nam, cơ quan hành chính của trấn Sơn Nam xưa, được vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5 của triều Hậu Lê, trị vì 1460- 1497) thành lập.
Chùa và đình được trùng tu, tôn tạo lớn vào năm1892 thời Nguyễn.
Chùa Hiến là nơi thờ Phật và Quan Âm Nam Hải, ngoài khuyên răn sống hướng thiện, tu nhân tích đức, còn thể hiện sự cầu mong thuyền buôn đến nơi đây được thuận buồm xuôi gió.
Chùa Hiến có phong cách kiến trúc, nghệ thuật thời Hậu Lê, tổng thể gồm: Nghi môn, Tiền đường, Hậu đường, hai dãy Tả vu, Hữu vu, nhà Tổ, nhà Mẫu.
Sơ đồ Phối cảnh chùa Hiến; bên trái là đình Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Nghi môn
Nghi môn chùa Hiến gồm 3 khối cổng. Khối giữa cao, rộng, mái 2 tầng, 8 mái. Hai khối bên thấp, nhỏ, mái 1 tầng 4 mái. Hai bên Nghi môn có hai trụ biểu, đỉnh trụ là hai con nghê chầu, thân trụ gồm ô lồng đèn, ô bố trí câu đối, đế trụ thắt cổ bồng.
Sau Nghi môn là sân chùa.
Trong sân có cây Nhãn Tổ còn gọi là Nhãn tiến vua với tuổi gần 400 năm. Thân cây có đường kính tới 2 người ôm. Vào năm 1980, một trận bão lớn khiến cây bị đổ, chỉ còn một vài nhánh nhỏ.
Nghi môn chùa Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Cây nhãn tổ tai sân chùa Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Tiền điện
Tòa Tiền điện 5 gian 2 chái, 4 mái. Các bộ vì kèo theo kiểu chồng rường. Đầu hồi tòa Tiền điện nhô ra hai trụ biểu; đỉnh trụ trang trí tứ phượng, thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng. Tiền điện là nơi chuẩn bị trước khi vào tế lễ.
Hai đầu tòa Tiền điện có hai nhà bia đá.
Tấm bia bên trái tạc năm 1625, thời Hậu Lê, cao 113m, đặt trên lưng rùa. Hai mặt bia khắc bài văn “ Thiên Ứng Tự - Tân Tự trùng tu ký thạch bi ” ghi lại quá trình tụ cư, phát triển và tên gọi các phường, thị của Phố Hiến xưa. Bia được trang trí cả hai mặt gồm những hình rồng, hoa dây uốn cong, hoa sen và hoa cúc.
Tấm bia bên phải tạc năm 1709, thời nhà Hậu Lê, cao 198m, hình trụ. Bia khắc bài văn “ Thiên Ứng Tự - Bi ký công đức tùy hỷ ”, ghi công đức của người xây dựng chùa tại 10 phường của Phố Hiến, trong đó có nhiều người gốc Hoa.
Mặt trước tòa Tiền điện, chùa Hiến; bên trái là đình Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Hai nhà bia hai bên tòa Tiền điện, chùa Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Tòa Chính điện nằm song song, sát cạnh tòa Tiền đường, có mặt bằng hình ”chữ đinh” hay chữ T, gồm tòa Bái đường và Hậu cung.
Tòa Bái đường 3 gian, đầu hồi bít đốc 2 mái. Đây là nơi đặ ban thờ với tượng Quan Âm Nam Hải được tạo tác ở tư thế ngồi thiền với tám đôi tay kết ấn. Tượng có niên đại khoảng 300 năm. Phía trước tượng Quan Âm Nam Hải là 4 vị Bồ tát ngồi trên tòa sen.
Tòa Hậu cung nằm vuông góc với tòa Bái đường, 3 gian, 2 mái. Đây là nơi đặt ban thờ Phật.
Bao quanh Chính điện là hai tòa Tả vu, Hữu vu và nhà Tổ, nhà Mẫu phía sau.
Ban thờ Quan Âm Nam Hải tại Bái đường, chùa Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Nằm liền kề với chùa Hiến là đình Hiến hay đình Hoa Dương. Đây là nơi hội họp của người dân làng Mậu Dương xưa và cũng là nơi thờ quan Thái giám họ Du, vương triều nhà Tống (Trung Quốc, tồn tại 960 -1279). Khi nhà Nguyên (Trung Quốc, tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống, ông tị nạn sang Phố Hiến. Vương quan Thái giám họ Du là bậc hiền tài, giàu lòng nhân nghĩa; có công lập nên làng Hoa Dương; truyền dạy dân nghề canh nông, thủ công, trồng dâu nuôi tằm, đánh cá; đặc biệt là xây dựng đền Mẫu thờ bà Thái hậu Dương Nguyệt Quả, là mẹ của vua Tống Đoan Tông (vị hoàng đế thứ 8 nhà Nam Tống, trị vì 1276- 1278, anh trai của vua Tống Đế Bính, vị hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của vương triều Nam Tống, trị vì 5/1278- 3/1279); góp phần thu hút người Hoa đến nơi đây buôn bán, lập nghiệp. Khi ông mất, người dân tôn là Thành hoàng. Lăng mộ của ông hiện nằm phía sau đình.
Đình Hiến có kiến trúc và chạm khắc tương tự như các ngôi đình khác tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Đình Hiến, cạnh chùa Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Chạm khắc gỗ bên trong đình Hiến, cạnh chùa Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Lăng mộ quan Thái giám họ Du tại đình Hiến, Phố Hiến, Hưng Yên
Lễ hội hàng năm tại chùa Hiến được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, và vào ngày 10 tháng chạp là ngày ngày giỗ của vị Thành hoàng làng - Đức Đại Vương quan Thái giám họ Du.
Chùa Nễ Châu
Chùa Nễ Châu có tên chữ là Thụy Ứng tự tọa lạc tại thôn Nễ Châu, xã Hồng Nam, thành phố Hưng Yên.
Nơi chùa tọa lạc, xưa kia là khu vực chợ Nễ Châu, thuộc Phố Hiến hạ.
Chùa là nơi thờ Đức Phật Thích Ca Mầu Ni, thờ Mẫu và thờ Tổ.
Chùa Nễ Châu gắn liền với tên tuổi bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh, vợ vua Lê Đại Hành (hoàng đế sáng lập triều Tiền Lê, nước Đại Cồ Việt, trị vì năm 980-1005).
Tương truyền, khi Lê Hoàn về đóng quân tại vùng đất Nễ Châu chống quân xâm lược nhà Tống, thấy bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh nết na, xinh đẹp đã lấy làm vợ, phong bà làm Chính thất phu nhân, xây "Ngọc Dinh Thự" tại chợ Nễ và mời cha mẹ bà về ở cùng. Thời gian đó, bà Ngọc Thanh giúp chồng chiêu mộ binh sỹ, tích lũy lương thảo.
Sau khi dẹp giặc, giữ yên bờ cõi, vua Lê Đại Hành quay trở lại Nễ Châu đón bà về kinh. Nhưng bà xin ở lại quê hương để phụng dưỡng cha mẹ. Lê Hoàn cảm động, cho người xây dựng chùa Nễ Châu để bà làm nơi tu hành; cử con thứ 9 là Lê Long Kính (hiệu Trung Quốc đại vương) thay mình trấn giữ vùng này và cũng là để chăm sóc bà. Sau khi bà mất, vua đã cho lập đền thờ bà phía trước chùa và sắc phong bà làm “Ngọc Thanh Hoàng hậu”.
Chùa Nễ Châu được khởi dựng từ thế kỷ 10, quy mô ban đầu còn nhỏ. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo ngôi chùa hiện nay mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Lê đan xen Nguyễn với kiến trúc kiểu "Nội công ngoại quốc", gồm các hạng mục như: Nghi môn, Chính điện, Nhà tổ, Tả vu, Hữu vu và các công trình phụ trợ khác.
Nghi môn
Nghi môn chùa Nễ Châu là một Tam quan gồm 3 khối cổng. Khối cổng chính giữa cao, 4 mái. Hai khối cổng hai bên thấp, có hình thức tương tự khối cổng chính giữa.
Sau Nghi môn là sân chùa. Trong sân có một Lầu chuông, mái 2 tầng, 8 mái, đặt trên một bệ đá 3 bậc so với mặt sân.
Nghi môn chùa Nễ Châu, Phố Hiến, Hưng Yên
Lầu chuông phía sau Nghi môn, chùa Nễ Châu, Phố Hiến, Hưng Yên
Nhìn từ Lầu chuông vào sân trước Chính điện, chùa Nễ Châu, Phố Hiến Hưng Yên
Chính điện
Chính điện chùa Nễ Châu có mặt bằng hình "Chữ công" hay chữ H, gồm Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện.
Tòa Tiền đường dài 15m, rộng 5m, gồm 7 gian, đầu hồi bít đốc 2 mái; kiến trúc theo kiểu vì kèo đơn giản. Ở hai bên đầu hồi có hai trụ biểu cao 3.5m, trên đỉnh cột đắp hai con nghê quay đầu vào nhau. Phía trên, ở chính giữa mái nhà có đắp nổi 3 chữ Hán “Thụy Ứng Tự”. Toàn bộ hoa văn trang trí ở nhà Tiền đường đều được chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt và hoa lá cách điệu, mang đậm nét văn hóa thời Lê.
Tòa Thiêu Hương đặt dọc nối tòa Tiền đường với Thượng điện,
Tòa Thượng điện dài 15m, rộng 5m, kiến trúc giống Tiền đường. Bên trong Thượng điện đặt các tượng thờ Tam thế Phật và tượng Tuyết Sơn. Bộ tượng Tam thế được tạc bằng gỗ, trong tư thế ngồi thiền. Các mặt tòa sen đều được khắc hình hoa lá và một số tích truyện của nhà Phật. Tượng Tam Thế đều dựa lưng vào một lá gỗ có hình dáng giống như bài vị.
Tượng Tuyết Sơn được tạc trong tư thế ngồi suy tư, hai tay bó gối. Đây là pho tượng cổ có từ thời Lê, được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hưng Yên, còn tượng đặt ở chùa là phiên bản.
Hai dãy Tả vu, Hữu vu của chùa Nễ Châu có hàng trăm pho tượng với các tư thế, vẻ mặt khác nhau, miêu tả các sự tích nhà Phật.
Song song với dãy Tả vu là một cái sân nhỏ, tiếp đến là nhà thờ Tổ và Mẫu.
Phía sau Thượng điện có vườn tháp. Ngoài ra, chùa còn có các công trình phụ trợ khác như nhà bếp, bể nước, ao chùa.
Chùa Nễ Châu hiện bảo lưu được chuông đồng, khánh đá, 3 bức ván gió, tượng Tuyết Sơn cùng bộ tượng Tam thế Phật có giá trị, mang đậm tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc thời Hậu Lê.
Hàng năm, ngoài những ngày lễ lớn của nhà Phật như Phật Đản, Vũ Lan, chùa Nễ Châu còn tổ chức tế lễ vào các ngày 15 tháng giêng và ngày 15 tháng 8 âm lịch để tưởng nhớ ngày sinh và ngày mất của bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh; 10 tháng 9 âm lịch ngày mất của Trung Quốc Đại vương Lê Long Kính.
Mặt trước tòa Tiền đường chùa Nễ Châu, Phố Hiến, Hưng Yên
Ban thờ Phật tại Thượng điện chùa Nễ Châu, Phố Hiến, Hưng Yên
Pho tượng đặc biệt Tuyết Sơn tại Chính điện chùa Nễ Châu, Phố Hiến, Hưng Yên
Phía trước chùa Nễ Châu là đền thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh.
Ngôi đền được xây dựng ngay sau khi bà mất. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo hiện nay đền có quy mô kiến trúc kiểu "Chữ đinh" hay chữ T gồm Tiền tế 3 gian; Hậu cung 2 gian. Các hạng mục mang đậm phong cách kiến trúc, mỹ thuật thời Nguyễn.
Đền thờ bà Ngọc Thanh Hoàng hậu, Phố Hiến, Hưng Yên
Tượng bà Ngọc Thanh Hoàng Hậu trong đền thờ, Phố Hiến, Hưng Yên
Vào giai đoạn thế kỷ 15- 17, Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên là địa điểm nổi bật trong lịch sử phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ. Các công trình kiến trúc còn bảo tồn tại Phố Hiến có giá trị tiêu biểu trong quá trình phát triển kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam.
Ngày nay ta mới chỉ thấy rõ vị thế Phố Hiến về kinh tế trong quá khứ hay qua một vài công trình di tích lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng còn sót lại, mà chưa hiểu rõ rằng: Nơi đây bắt đầu và đạt tới tầm quốc tế nhờ kết nối giao thương. Song theo thời gian hàng trăm năm, Phố Hiến cũng đã trở thành địa danh về kết nối văn hóa hay "vùng đất lành" tầm quốc tế.
Khu di tích Phố Hiến không chỉ là sự bảo tồn, tôn tạo 16 (hay nhiều hơn) công trình di tích đơn lẻ. Sẽ đến một ngày, tổng thể Khu phố cổ Phố Hiến được phục dựng (có thể như Khu phố cổ Hội An) và mang lại giá trị văn hóa cốt lõi, đặc hữu cho tỉnh Hưng Yên trong thời Hội nhập mà thiên hạ vẫn gọi là thời Cách mạng công nghiệp 4.0.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%
91%E1%BA%B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%91_Hi%E1%BA%BFn
http://phohienplus.blogspot.com/2015/05/ngoai-thuong-pho-hien-ky-17-18.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_%C4%90%C3%B4_Qu%E1%
BA%A3ng_H%E1%BB%99i
http://thanhphohungyen.gov.vn/16-di-tich-trong-khu-di-tich-quoc-gia-dac-biet-
pho-hien-c211347.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Chu%C3%B4ng
https://www.youtube.com/watch?v=qg907Twx_3I
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_mi%E1%BA%BFu_X%C3%ADch_%
C4%90%E1%BA%B1ng
https://vtv.vn/video/kham-pha-viet-nam-van-mieu-xich-dang-320950.htm
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_B%E1%BA%A1ch_H%E1%BB%95
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_M%C3%A2y
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Chu%C3%B4ng
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh_%C4%90i%E1%BB%81n
http://hungyen.gov.vn/portal/Pages/2004-11/Chua-Hien--b86c7b3d0838351f.aspx
http://thanhphohungyen.gov.vn/chua-ne-chau-c262.html
http://hungyen.gov.vn/portal/Pages/2004-11/Chua-Ne-Chau-fc8238c1eeaff978.aspx
- Xem thêm Đình. đền thuộc Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên tại đây
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|