
Thông tin chung:
Công trình: Tháp Po Klong Garai, Ninh Thuận
Địa điểm: Phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam (11,601831°B 108,9442935°Đ)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm thực hiện: Cuối thế kỷ 13 – đầu thế kỷ 14
Giá trị: Di tích quốc gia đặc biệt (Di tích kiến trúc nghệ thuật, năm 2016)
Champa là một quốc gia cổ tồn tại liên tục từ năm 192 đến 1832 với lãnh thổ lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam; Từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay, thuộc miền Trung Việt Nam.
Văn hóa Champa tiếp nối từ văn hóa Sa Huỳnh, là văn hóa thuộc giai đoạn Sơ kỳ đồ sắt của cư dân nông nghiệp ven biển miền Trung và miền Nam, có niên đại từ giữa thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên (TCN ) đến đầu Công nguyên, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong việc xây dựng hệ thống thần quyền trị quốc.
Người Chăm ngoài việc thờ các vị thần bản địa còn thờ các vị thần sơ khai của Hindu giáo và Phật giáo.
Dân tộc chính là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía Bắc (bộ tộc Dừa) và Chăm ở phía Nam (bộ tộc Cau). Ngôn ngữ là tiếng Champa bản địa và tiếng Phạn, ngôn ngữ tế lễ của Hindu giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo.
Tại đây, văn minh Ấn Độ, du nhập vào theo tôn giáo, được sử dụng rộng rãi: Văn học và điển tích tôn giáo; lịch trong sản xuất nông nghiệp và đời sống; kiến trúc và điêu khắc... Tuy nhiên yếu tố ngoại nhập này đều hòa hợp với yếu tố nội sinh mạnh mẽ của dân tộc Chăm, từ tục thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên, chữ viết Champa, kiến trúc và điêu khắc độc đáo, âm nhạc và ca múa sinh động (Thần đạo), đến phong tục cổ truyền như ăn trầu, nhuộm răng đen, hỏa táng và chôn tro xương trong các mộ vò…
Xã hội Champa mang đặc trưng cơ bản của khu vực Đông Nam Á, là xã hội của cư dân nông nghiệp. Quan hệ chủ yếu trong xã hội là quan hệ về ruộng đất, gắn với chế độ sở hữu và các hình thức sử dụng ruộng đất. Trong xã hội, vua có uy quyền tuyệt đối, tiếp đó là tầng lớp quý tộc, lãnh đạo tôn giáo và quan lại trung ương, địa phương. Người dân sống theo từng làng xã, là nơi duy trì mối quan hệ cộng đồng trong đời sống kinh tế và tinh thần.
Champa lần lượt trải qua các vương triều theo cùng một quá trình: Lập nước gắn với các vị vua khởi nghiệp; Xây dựng quốc gia hùng mạnh gắn với chống bành trướng phương Bắc, mở rộng bờ cõi về phía Tây và hội nhập với văn minh từ bên ngoài – Ấn Độ; Nội chiến giành quyền lực giữa các phe phái; Sụp đổ và bị thay thế bởi vương triều kế tiếp:
Vương quốc Lâm Ấp (năm 192- 757): Đây được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Champa độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của Trung Quốc, gắn liền với sự hấp thu văn minh Ấn Độ. Trong thời gian tồn tại, vương quốc Lâm Ấp trải qua 4 triều đại:
Vương quốc Hoàn Vương (Panduranga, năm 757 – 875): ban đầu là một tiểu quốc phía Nam Lâm Ấp, hình thành từ sự phân rã của vương triều Lâm Ấp, sau đó nổi lên lật đổ vương triều cũ, thành lập vương triều mới.
Miền Bắc Việt Nam giai đoạn này nằm dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường (tồn tại từ năm 618 – 907).
Vương quốc Hoàn Vương trải qua 5 triều đại.
Vương quốc Chiêm Thành (năm 875 - 1471): là triều đại tiếp nối vương quốc Hoàn Vương với kinh đô đặt tại Indrapura (từ năm 875 – 982, làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay).
Tại miền Bắc Việt Nam, năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam. Từ đây, nhà nước phong kiến độc lập của Việt Nam trải qua các quốc hiệu và vương triều: Đại Cồ Việt: thời nhà Đinh – nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý (từ năm 968–1054); Đại Việt: thời nhà Lý – nhà Trần (từ năm 1054–1400); Đại Ngu: thời nhà Hồ (từ năm 1400–1407) ; Đại Việt: thời nhà Hậu Lê- Nhà Tây Sơn và 3 năm đầu thời nhà Nguyễn (từ năm 1428–1804; Việt Nam: thời nhà Nguyễn (từ năm 1804–1839); Đại Nam: thời Nhà Nguyễn (từ năm 1839–1945).
Vương quốc Chiêm Thành trải qua 9 triều đại, kế tục Vương quốc Hoàn Vương, nên được gọi là triều đại thứ 6 đến triều đại thứ 14. Các vị vua đầu tiên của vương quốc Chiêm Thành theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của kinh đô Indrapura (Đồng Dương), một thiền viện Phật giáo (Vihara), bên trong thờ Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara) đã được xây dựng.
Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Champa kết thúc vào đầu thế kỷ thứ 10 (năm 925) với sự phục hồi của Hindu giáo, thờ thần Shiva. Trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở lại về Mỹ Sơn. Đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao. Dân số của vương quốc lên đến 0,6 triệu người.
Vương quốc Chiêm Thành dần suy yếu dưới sức ép của vương quốc Đại Cồ Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với vương quốc Khmer từ phía Tây.
Vào khoảng cuối thế kỷ 10, do kinh đô Indrapura (Đồng Dương) bị quân đội Đại Cồ Việt tấn công phá hủy (năm 982), Chiêm Thành chuyển kinh đô xuống Vijaya ở phía Nam (từ năm 982- 1471, thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định ngày nay, còn có tên là Chà Bàn/Trà Bàn).
Trong 5 thế kỷ tiếp theo, giữa Chiêm Thành và Đại Việt đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh.
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Chế Bồng Nga (Che Bonguar, năm 1360 – 1389, lên ngôi từ năm 1360). Ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra kinh đô Thăng Long và đã chết trong lần tấn công cuối cùng vào năm 1389.
Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, Chiêm Thành liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công.
Năm 1471, Champa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía Bắc. Phần lãnh thổ còn lại bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và tiếp tục dần bị các chúa Nguyễn thôn tính. Đến năm 1832, toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng (vị hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn, trị vì năm 1820 – 1841).

Vương quốc Champa vào khoảng năm 1100.
Màu xanh: Phạm vi vương quốc Đại Việt (kinh đô Đại La - Hà Nội) ; Màu vàng : Vương quốc Champa (kinh đô Indrapura – Đồng Dương); Màu đỏ : Vương quốc Khmer (kinh đô Angkor)
Đền tháp Champa
Nhóm tháp theo niên đại
Đền tháp Champa theo niên đại được phân thành 23 nhóm tháp. Đền tháp Mỹ Sơn là nhóm đầu tiên với niên đại sớm nhất từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13.
TT
|
Tên di tích
|
Địa điểm
|
Niên đại
|
1
|
Nhóm tháp Mỹ Sơn
|
xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ IV - XIII
|
2
|
Nhóm tháp Po Sah Inư
|
phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận
|
thế kỷ VIII
|
3
|
Nhóm tháp Mỹ Khánh
|
xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế
|
thế kỷ VIII
|
4
|
Nhóm tháp Hòa Lai
|
làng Tam Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ IX
|
5
|
Nhóm tháp Po Dam
|
làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận
|
thế kỷ IX
|
6
|
Nhóm tháp Đồng Dương
|
Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình. tỉnh Quảng nam
|
thế kỷ IX
|
7
|
Nhóm tháp Bằng An
|
làng Bằng An, xã Điện An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ IX - X
|
8
|
Nhóm tháp Khương Mỹ
|
làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ X
|
9
|
Nhóm tháp Po Nagar
|
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà
|
thế kỷ X - XIII
|
10
|
Nhóm tháp Chiên Đàn
|
làng Chiên Đàn, xã Tam An, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ XI - XII
|
11
|
Nhóm tháp Bánh Ít
|
thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XI - XII
|
12
|
Nhóm tháp Bình Lâm
|
xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
13
|
Nhóm tháp Đôi
|
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
14
|
Nhóm tháp Nhạn
|
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
|
thế kỷ XII
|
15
|
Nhóm tháp Phú Lốc
|
xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
16
|
Nhóm tháp Cánh Tiên
|
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
17
|
Nhóm tháp Thủ Thiện
|
xã Bình nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
18
|
Nhóm tháp Dương Long
|
xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
19
|
Nhóm tháp Liễu Cốc
|
xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế
|
thế kỷ XIII
|
20
|
Nhóm tháp Mẫm
|
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XIII
|
21
|
Nhóm tháp Yang Praong
|
Bản Đôn, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk
|
thế kỷ XIII
|
22
|
Nhóm tháp Po Klong Garai
|
phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ XIII - XIV
|
23
|
Nhóm tháp Po Rome
|
làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ XVII
|
Đặc trưng chung của các ngôi đền tháp Champa
Đền Champa thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi, không gần nơi dân cư sinh sống, xây dựng thành cụm, theo trục Đông – Tây, được thiết kế bằng sự kết hợp các hình thức trừu tượng và hình học cụ thế. Trong ngôi đền Champa có nhiều công trình dạng tháp.
Tháp Champa là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch hoặc có bổ sung một số cấu trúc đá, phía trên dật cấp hoặc thu nhỏ dần vào tạo thành hình tháp.
Mặt bằng tháp đa số là hình vuông. Không gian bên trong hẹp thường có cửa mở về hướng Đông - Tây, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đối xứng với cửa chính. Trần được cấu tạo vòm cuốn.
Gạch xây tháp có màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương. Gạch được nung, vừa đạt được độ cứng nhất định vừa tạo điều kiện cho việc chạm khắc, tương tự như đá sa thạch (là một loại đá được hình thành nhờ sự tích tụ của những đá cát, đá trầm tích, tương đối mềm và dễ gia công). Nghệ nhân chạm khắc trực tiếp lên các bức tường gạch thành phẩm.
Gạch xây không có mạch vữa, được liên kết với nhau bằng một loại keo đặc biệt. Có giả thuyết cho rằng đó là loại keo được tinh chế từ một loại thực vật tại địa phương. Giả thuyết khác là vữa xây làm từ đất sét tạo ra chính viên gạch. Giả thuyết này được củng cố sau khi thí nghiệm hóa học đã không tìm ra dấu vết của bất kỳ chất hữu cơ nào từ giữa các viên gach, mà tìm thấy các khoáng chất tương tự như các chất có trong lõi viên gạch.
Nghệ thuật chạm khắc của các ngôi đền tháp Champa là tiêu biểu cho Di sản nghệ thuật Champa. Các tác phẩm điêu khắc bằng gạch, đá sa thạch rất công phu với các trang trí hình hoa lá, chim, thú, vũ nữ, thần thánh (Hindu giáo, Phật giáo, tôn giáo bản địa) thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp.
Phong cách nghệ thuật của các đền tháp Champa
Người ta cho rằng, di tích đền tháp Champa tại Việt Nam có tới 7 phong cách nghệ thuật :
Phong cách Mỹ Sơn E1 (Style of Mỹ Sơn E1) hay phong cách Cổ đại : có niên đại thế kỷ 7 – 8, được khái quát hóa từ đền tháp Mỹ Sơn E1 tại Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này được thể hiện đầy đủ nhất tai ngôi tháp Mỹ Sơn E1.
Phong cách Hoà Lai (Style of Hoa Lai) : có niên đại cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, được khái quát hoá từ đền tháp Hoà Lai.
Phong cách Đồng Dương (Đồng Dương style): có niên đại cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10, được khái quát hoá từ đền tháp Đồng Dương.
Phong cách Mỹ Sơn A1 (Mỹ Sơn A1 style): có niên đại thế kỷ 10, được khái quát hoá từ tháp Mỹ Sơn A1, thuộc Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1.
Phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn A1- Bình Định: có niên đại đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12.
Phong cách Bình Định (style of Bình Định): có niên đại cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14.
Phong cách muộn: có niên đại từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 17.
Tháp Po Klong Garai
Tháp Poklong Garai thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
Trong 23 nhóm tháp của Đền tháp Champa, nhóm tháp Po Klong Garai đứng thứ 22, vào giai đoạn cuối của vương quốc Chiêm Thành.
Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 (thời vua Jaya Shihavaman III, người Việt gọi là Chế Mân, thuộc triều đại thứ 11 của vương quốc Chiêm Thành, trị vì trong giai đoạn 1285- 1307) để thờ Po Klong Garai (tiểu vương, trị vì năm 1151-1205), đã có nhiều công lớn trong việc cai trị thành quốc Panduranga (thuộc vương quốc Hoàn Vương và sau này là vương quốc Chiêm Thành).
Tháp Poklong Garai được xây dựng trong thời điểm: Nhu cầu về tín ngưỡng của ngươi dân không chỉ là đức tin đến từ tôn giáo ngoại nhập (Hindu giáo, thờ thần Shiva) mà còn phải là đức tin hay tôn giáo bản địa gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, cha mẹ và các vị anh hùng có công giữ và dựng nước. Đức tin Hindu giáo ít có vai trò trong việc huy động người dân chung sức bảo vệ nền độc lập và xây dựng đất nước. Việc tôn thờ vua Po Klong Garai là tất yếu. Po Klong Garai đã lãnh đạo thành quốc Panduranga trong vòng 50 năm, chống ách đô hộ của triều đình Angkor (Campuchia), bình định xứ sở và phát triển nông nghiệp, được người dân Champa suy tôn như vị thần thủy lợi. Trong thời gian trị vì ông đã xây dựng được các công trình tiêu biểu như đập Nha Trinh, đập Sông Cấm…
Tháp Poklong Garai được xây dựng theo Phong cách muộn, về mặt hình thức tương tự như một ngôi đền Hindu giáo, song đã đa dạng hơn và gian thờ bên trong theo hướng một ngôi đền Thần đạo bản địa.
Tháp Pô Klong Garai là một quần thể đền tháp, bố cục theo hướng Đông – Tây, nằm trên đồi Trầu, trên một bệ cao so với nền xung quanh.
Quần thể đền tháp bao gồm (từ Đông sang Tây): Tháp Cổng và tường bao quanh; Bái đường, Chính điện, Nhà phụ và các công trình phụ trợ khác.


Phối cảnh tổng thể tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm
Sơ đồ mặt bằng tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm

Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm, nhìn từ phía Nam

Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm, nhìn từ phía Bắc
Tháp cổng và tường bao quanh
Mặt bằng Khu vực tháp Poklong Garai là một hình chữ nhật, được giới hạn bởi các bức tường bảo vệ xung quanh. 4 góc của tường bao quanh là 4 tháp nhỏ.
Tháp cổng (gopura) nằm ngoài cùng, tại phía Đông, gắn với tường bảo vệ đền.
Tháp cổng cao 8,56m.
Mặt bằng Tháp cổng hình vuông, có hai lối ra vào tại hướng Đông và Tây. Hai phía còn lại là cửa giả.
Tương tự như các tháp Champa khác, mặt đứng tháp cổng chia thành: Đế tháp, Thân tháp và Mái tháp.
Do Tháp cổng nằm nhô hẳn ra phía ngoài sân quần thể đền, nên đế Tháp cổng chia thành hai phần: Phần cao ở phía ngoài và phần thấp tại phía trong. Trang trí mặt bệ tạo cho tháp có dáng vươn lên từ mặt đất.
Thân tháp cổng là một khối lập phương. Bề mặt thân Tháp cổng không phẳng mà có các trụ áp tường với các mảng trang trí. 4 góc tháp được nhấn mạnh bởi 4 trụ góc lớn. Phía trên mỗi trụ góc đều có một khối điêu khắc mô phỏng mái tháp 3 tầng với các góc có trang trí phiến đá hình đuôi phượng.
Đỡ mảng tường phía trên 2 lối vào chính của Tháp cổng là một dầm ngang bằng đá.
Mái tháp cổng có chiều cao bằng thân tháp, song chia thành 3 tầng mái, nhỏ dần về phía trên. Trang trí tầng mái trên được mô phỏng theo tầng dưới.
Bái đường
Tháp Bái đường (mandapa/jagamohan) nằm ngay sau Tháp cổng, có chức năng là nơi sắp xếp lễ vật và múa hát nghi thức hành lễ. Tòa Bái đường có mặt bằng hình chữ nhật, hiện chỉ còn tàn tích nền.
Tháp phụ
Tháp phụ hay Nhà dài (kosagrha): nằm gần cổng, tại phía Nam quần thể. Công trình được sử dụng để chứa các vật có giá trị thuộc về vị thần hoặc để nấu ăn cúng tế cho vị thần, vì thế còn được gọi là Tháp lửa. Tháp cao 9,31m.
Mặt bằng Tháp phụ hình chữ nhật, gồm 2 phòng hình vuông, có 3 cửa ra vào tại hướng Đông, Bắc và Nam.
Đế Tháp phụ được phân chia bởi các trụ, kết hợp với các vòm cong, tạo thành hình tượng hoa sen đỡ thân tháp.
Thân Tháp phụ là hai khối lập phương. Bề mặt tháp không phẳng mà có các trang trí tương tự như Tháp cổng.
Mái tháp Phụ một tầng. Thân mái được trang trí bởi các trụ tường. Đỉnh mái dạng vòm như hình thuyền. Diềm mái trang trí các phiến đá hình đuôi phượng.

Phối cảnh Tháp cổng (bên trái ảnh); phía trước Tháp cổng là tàn tích tòa Bái đường; Tháp phụ (bên phải ảnh), quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm

Phối cảnh Tháp cổng (bên phải ảnh); Tháp phụ (bên trái ảnh); Tháp chính (giữa ảnh), quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm

Phối cảnh tường bao quanh và các tháp góc, quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm
Chính điện
Tháp chính (kalan/sanctuarya): đặt chính giữa sân đền, phía sau tòa Bái đường.
Tháp chính cao 20,5m.
Mặt bằng Tháp chính hình vuông, có một lối vào chính tại hướng Đông. Ba phía còn lại là cửa giả.
Đế Tháp chính được phân chia bởi các trụ, kết hợp với các vòm cong, tạo thành hình tượng hoa sen đỡ thân tháp.
Thân Tháp chính là một khối lập phương. Bề mặt tháp không phẳng mà có các trụ áp tường với bề mặt được trang trí. 4 góc tháp được nhấn mạnh bởi 4 trụ góc lớn. Phía trên mỗi trụ góc đều mô phỏng mái tháp 3 tầng với các góc có trang trí phiến đá hình đuôi phượng, tương tự như Tháp cổng và Tháp phụ. Phần lối vào chính nhô ra phía trước. Hai bên và phía trên lối vào được ốp bằng các trụ đá. Trên mặt trụ đá khắc các văn tự chữ Chăm ghi công đức của vua Po Klong Garai. Tại ô tường phía trên lối vào có các tượng đá của các vị thần.
Mái Tháp chính có chiều cao bằng thân tháp, song chia thành 3 tầng mái, nhỏ dần về phía trên. Trang trí tầng mái trên được mô phỏng theo tầng dưới. Trên đỉnh mỗi khối mái đều có một khối chóp bằng đá.
Bên trong Tháp chính đặt thần tượng thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Champa và bộ linh vật Lingam và Yoni bằng đá sa thạch. Trong Ấn Độ giáo, linh vật Yoni có biểu tượng như là bộ phận sinh thực khí đàn bà, gắn với thờ nữ thần sinh sôi Shakti (Shaktism). Đi cùng với linh vật Yoni là linh vật Linga, có biểu tượng như là bộ phận sinh thực khí đàn ông, gắn với thờ thần hủy diệt và sáng tạo – thần Shiva (Shaivism). Linh vật Linga – Yoni thường đi đôi với nhau. Đây là nơi tôn nghiêm của đền, chỉ có pháp sư mới được vào. Những người cầu nguyện thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ.
Hiện tại, bên trong tháp có một khung gỗ tạo thành một ngôi đền nhỏ bên trong lòng tháp. Phía trước biểu tượng Lingam và Yoni là tượng thờ tiểu vương Po Klong Garai.

Tháp chính với lối vào tại phía Đông, quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm

Phối cảnh mặt phía Bắc Tháp chính, quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm

Sơ đồ mặt đứng phía Nam Tháp chính, quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm

Bên trong lòng mái Tháp chính, quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm

Ban thờ với tượng vua Po Klong Garai, phía sau là linh vật Linga – Yoni, bên trong Tháp chính, quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm

Trụ đá khắc chữ Champa tại lối vào Tháp chính, quần thể Tháp Poklong Garai, Phan Rang - Tháp Chàm
|