|
|
|
|
Thông tin định kỳ
|
|
|
Lịch sử Kiến trúc
Tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định, Việt Nam |
04/03/2020 |
Thông tin chung:
Công trình: Tháp Dương Long, Bình Định
Địa điểm: Huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, Việt Nam (13,9249295°B 108,9885223°Đ)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm thực hiện: Thế kỷ 12
Giá trị: Di tích quốc gia đặc biệt (Di tích kiến trúc nghệ thuật, năm 2015)
Champa là một quốc gia cổ tồn tại liên tục từ năm 192 đến 1832 với lãnh thổ lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam; Từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay, thuộc miền Trung Việt Nam.
Văn hóa Champa tiếp nối từ văn hóa Sa Huỳnh, là văn hóa thuộc giai đoạn Sơ kỳ đồ sắt của cư dân nông nghiệp ven biển miền Trung và miền Nam, có niên đại từ giữa thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên (TCN ) đến đầu Công nguyên, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong việc xây dựng hệ thống thần quyền trị quốc.
Người Chăm ngoài việc thờ các vị thần bản địa còn thờ các vị thần sơ khai của Hindu giáo và Phật giáo.
Dân tộc chính là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía Bắc (bộ tộc Dừa) và Chăm ở phía Nam (bộ tộc Cau). Ngôn ngữ là tiếng Champa bản địa và tiếng Phạn, ngôn ngữ tế lễ của Hindu giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo.
Tại đây, văn minh Ấn Độ, du nhập vào theo tôn giáo, được sử dụng rộng rãi: Văn học và điển tích tôn giáo; lịch trong sản xuất nông nghiệp và đời sống; kiến trúc và điêu khắc... Tuy nhiên yếu tố ngoại nhập này đều hòa hợp với yếu tố nội sinh mạnh mẽ của dân tộc Chăm, từ tục thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên, chữ viết Champa, kiến trúc và điêu khắc độc đáo, âm nhạc và ca múa sinh động (Thần đạo), đến phong tục cổ truyền như ăn trầu, nhuộm răng đen, hỏa táng và chôn tro xương trong các mộ vò…
Xã hội Champa mang đặc trưng cơ bản của khu vực Đông Nam Á, là xã hội của cư dân nông nghiệp. Quan hệ chủ yếu trong xã hội là quan hệ về ruộng đất, gắn với chế độ sở hữu và các hình thức sử dụng ruộng đất. Trong xã hội, vua có uy quyền tuyệt đối, tiếp đó là tầng lớp quý tộc, lãnh đạo tôn giáo và quan lại trung ương, địa phương. Người dân sống theo từng làng xã, là nơi duy trì mối quan hệ cộng đồng trong đời sống kinh tế và tinh thần.
Champa lần lượt trải qua các vương triều theo cùng một quá trình: Lập nước gắn với các vị vua khởi nghiệp; Xây dựng quốc gia hùng mạnh gắn với chống bành trướng phương Bắc, mở rộng bờ cõi về phía Tây và hội nhập với văn minh từ bên ngoài – Ấn Độ; Nội chiến giành quyền lực giữa các phe phái; Sụp đổ và bị thay thế bởi vương triều kế tiếp:
Vương quốc Lâm Ấp (năm 192- 757): Đây được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Champa độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của Trung Quốc, gắn liền với sự hấp thu văn minh Ấn Độ. Trong thời gian tồn tại, vương quốc Lâm Ấp trải qua 4 triều đại:
Vương quốc Hoàn Vương (Panduranga, năm 757 – 875): ban đầu là một tiểu quốc phía Nam Lâm Ấp, hình thành từ sự phân rã của vương triều Lâm Ấp, sau đó nổi lên lật đổ vương triều cũ, thành lập vương triều mới.
Miền Bắc Việt Nam giai đoạn này nằm dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường (tồn tại từ năm 618 – 907).
Vương quốc Hoàn Vương trải qua 5 triều đại.
Vương quốc Chiêm Thành (năm 875 - 1471): là triều đại tiếp nối vương quốc Hoàn Vương với kinh đô đặt tại Indrapura (từ năm 875 – 982, làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay).
Tại miền Bắc Việt Nam, năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam. Từ đây, nhà nước phong kiến độc lập của Việt Nam trải qua các quốc hiệu và vương triều: Đại Cồ Việt: thời nhà Đinh – nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý (từ năm 968–1054); Đại Việt: thời nhà Lý – nhà Trần (từ năm 1054–1400); Đại Ngu: thời nhà Hồ (từ năm 1400–1407) ; Đại Việt: thời nhà Hậu Lê- Nhà Tây Sơn và 3 năm đầu thời nhà Nguyễn (từ năm 1428–1804; Việt Nam: thời nhà Nguyễn (từ năm 1804–1839); Đại Nam: thời Nhà Nguyễn (từ năm 1839–1945).
Vương quốc Chiêm Thành trải qua 9 triều đại, kế tục Vương quốc Hoàn Vương, nên được gọi là triều đại thứ 6 đến triều đại thứ 14. Các vị vua đầu tiên của vương quốc Chiêm Thành theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của kinh đô Indrapura (Đồng Dương), một thiền viện Phật giáo (Vihara), bên trong thờ Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara) đã được xây dựng.
Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Champa kết thúc vào đầu thế kỷ thứ 10 (năm 925) với sự phục hồi của Hindu giáo, thờ thần Shiva. Trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở lại về Mỹ Sơn. Đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao. Dân số của vương quốc lên đến 0,6 triệu người.
Vương quốc Chiêm Thành dần suy yếu dưới sức ép của vương quốc Đại Cồ Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với vương quốc Khmer từ phía Tây.
Vào khoảng cuối thế kỷ 10, do kinh đô Indrapura (Đồng Dương) bị quân đội Đại Cồ Việt tấn công phá hủy (năm 982), Chiêm Thành chuyển kinh đô xuống Vijaya ở phía Nam (từ năm 982- 1471, thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định ngày nay, còn có tên là Chà Bàn/Trà Bàn).
Trong 5 thế kỷ tiếp theo, giữa Chiêm Thành và Đại Việt đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh.
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Chế Bồng Nga (Che Bonguar, năm 1360 – 1389, lên ngôi từ năm 1360). Ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra kinh đô Thăng Long và đã chết trong lần tấn công cuối cùng vào năm 1389.
Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, Chiêm Thành liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công.
Năm 1471, Champa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía Bắc. Phần lãnh thổ còn lại bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và tiếp tục dần bị các chúa Nguyễn thôn tính. Đến năm 1832, toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng (vị hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn, trị vì năm 1820 – 1841).
Vương quốc Champa vào khoảng năm 1100.
Màu xanh: Phạm vi vương quốc Đại Việt (kinh đô Đại La - Hà Nội) ; Màu vàng : Vương quốc Champa (kinh đô Indrapura – Đồng Dương); Màu đỏ : Vương quốc Khmer (kinh đô Angkor)
Đền tháp Champa
Nhóm tháp theo niên đại
Đền tháp Champa theo niên đại được phân thành 23 nhóm tháp. Đền tháp Mỹ Sơn là nhóm đầu tiên với niên đại sớm nhất từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13.
TT
|
Tên di tích
|
Địa điểm
|
Niên đại
|
1
|
Nhóm tháp Mỹ Sơn
|
xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ IV - XIII
|
2
|
Nhóm tháp Po Sah Inư
|
phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận
|
thế kỷ VIII
|
3
|
Nhóm tháp Mỹ Khánh
|
xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế
|
thế kỷ VIII
|
4
|
Nhóm tháp Hòa Lai
|
làng Tam Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ IX
|
5
|
Nhóm tháp Po Dam
|
làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận
|
thế kỷ IX
|
6
|
Nhóm tháp Đồng Dương
|
Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình. tỉnh Quảng nam
|
thế kỷ IX
|
7
|
Nhóm tháp Bằng An
|
làng Bằng An, xã Điện An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ IX - X
|
8
|
Nhóm tháp Khương Mỹ
|
làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ X
|
9
|
Nhóm tháp Po Nagar
|
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà
|
thế kỷ X - XIII
|
10
|
Nhóm tháp Chiên Đàn
|
làng Chiên Đàn, xã Tam An, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ XI - XII
|
11
|
Nhóm tháp Bánh Ít
|
thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XI - XII
|
12
|
Nhóm tháp Bình Lâm
|
xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
13
|
Nhóm tháp Đôi
|
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
14
|
Nhóm tháp Nhạn
|
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
|
thế kỷ XII
|
15
|
Nhóm tháp Phú Lốc
|
xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
16
|
Nhóm tháp Cánh Tiên
|
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
17
|
Nhóm tháp Thủ Thiện
|
xã Bình nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
18
|
Nhóm tháp Dương Long
|
xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
19
|
Nhóm tháp Liễu Cốc
|
xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế
|
thế kỷ XIII
|
20
|
Nhóm tháp Mẫm
|
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XIII
|
21
|
Nhóm tháp Yang Praong
|
Bản Đôn, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk
|
thế kỷ XIII
|
22
|
Nhóm tháp Po Klong Garai
|
phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ XIII - XIV
|
23
|
Nhóm tháp Po Rome
|
làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ XVII
|
Đặc trưng chung của các ngôi đền tháp Champa
Đền Champa thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi, không gần nơi dân cư sinh sống, xây dựng thành cụm, theo trục Đông – Tây, được thiết kế bằng sự kết hợp các hình thức trừu tượng và hình học cụ thế. Trong ngôi đền Champa có nhiều công trình dạng tháp.
Tháp Champa là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch hoặc có bổ sung một số cấu trúc đá, phía trên dật cấp hoặc thu nhỏ dần vào tạo thành hình tháp.
Mặt bằng tháp đa số là hình vuông. Không gian bên trong hẹp thường có cửa mở về hướng Đông - Tây, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đối xứng với cửa chính. Trần được cấu tạo vòm cuốn.
Gạch xây tháp có màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương. Gạch được nung, vừa đạt được độ cứng nhất định vừa tạo điều kiện cho việc chạm khắc, tương tự như đá sa thạch (là một loại đá được hình thành nhờ sự tích tụ của những đá cát, đá trầm tích, tương đối mềm và dễ gia công). Nghệ nhân chạm khắc trực tiếp lên các bức tường gạch thành phẩm.
Gạch xây không có mạch vữa, được liên kết với nhau bằng một loại keo đặc biệt. Có giả thuyết cho rằng đó là loại keo được tinh chế từ một loại thực vật tại địa phương. Giả thuyết khác là vữa xây làm từ đất sét tạo ra chính viên gạch. Giả thuyết này được củng cố sau khi thí nghiệm hóa học đã không tìm ra dấu vết của bất kỳ chất hữu cơ nào từ giữa các viên gach, mà tìm thấy các khoáng chất tương tự như các chất có trong lõi viên gạch.
Nghệ thuật chạm khắc của các ngôi đền tháp Champa là tiêu biểu cho Di sản nghệ thuật Champa. Các tác phẩm điêu khắc bằng gạch, đá sa thạch rất công phu với các trang trí hình hoa lá, chim, thú, vũ nữ, thần thánh (Hindu giáo, Phật giáo, tôn giáo bản địa) thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp.
Phong cách nghệ thuật của các đền tháp Champa
Người ta cho rằng, di tích đền tháp Champa tại Việt Nam có tới 7 phong cách nghệ thuật :
Phong cách Mỹ Sơn E1 (Style of Mỹ Sơn E1) hay phong cách Cổ đại : có niên đại thế kỷ 7 – 8, được khái quát hóa từ đền tháp Mỹ Sơn E1 tại Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này được thể hiện đầy đủ nhất tai ngôi tháp Mỹ Sơn E1.
Phong cách Hoà Lai (Style of Hoa Lai) : có niên đại cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, được khái quát hoá từ đền tháp Hoà Lai.
Phong cách Đồng Dương (Đồng Dương style): có niên đại cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10, được khái quát hoá từ đền tháp Đồng Dương.
Phong cách Mỹ Sơn A1 (Mỹ Sơn A1 style): có niên đại thế kỷ 10, được khái quát hoá từ tháp Mỹ Sơn A1, thuộc Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1.
Phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn A1- Bình Định: có niên đại đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12.
Phong cách Bình Định (style of Bình Định): có niên đại cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14.
Phong cách muộn: có niên đại từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 17.
Tháp Dương Long
Tháp Dương Long hay Nhóm tháp Dương Long nằm trên địa bàn xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, được xây dựng vào cuối thế kỷ 12.
Trong 23 nhóm tháp của Đền tháp Champa, nhóm tháp Dương Long đứng thứ 18. Trong thời kỳ này, ảnh hưởng của Phật giáo ở Champa đã không còn, cùng với đó là sự phục hồi mạnh mẽ của Hindu giáo.
Trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở lại về Mỹ Sơn. Đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao.
Nhóm tháp Dương Long thuộc Phong cách Bình Định.
Nhóm tháp Dương Long tương tự như các ngôi đền Hindu giáo điển hình, bố cục theo hướng Đông – Tây, nằm trên gò đất xưa có tên là Dương Long.
Ngoài tên phổ biến là Dương Long, đôi khi tháp còn được gọi theo địa danh khác: tháp Bình An, tháp An Chánh hay tháp Vân Tường. Người Pháp gọi di tích này là Tour d’ Ivoire (tháp Ngà).
Khu tháp có diện tích khoảng 1500m2.
Tổng mặt bằng Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Phối cảnh tổng tháp Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Tàn tích của các công trình khác ngoài 3 tháp Chính, Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Một ngôi đền tháp Champa thường có các công trình (từ Đông sang Tây): Tháp Cổng và tường bao quanh; Bái đường, Chính điện, Nhà phụ (Nhà dài) và các công trình phụ trợ khác.
Nhóm tháp Dương Long hiện tại chỉ còn 3 tháp Chính điện, thờ 3 vị thần Hindu giáo: Bhrama, Visnu và Shiva. Theo vị trí, 3 tháp hiện nay được gọi là: Tháp Bắc (thờ thần Shiva), tháp Giữa (thờ thần Vishnu) và tháp Nam (thờ thần Brahma). Tháp Giữa cao 39m, hai tháp bên cao 32m. Với chiều cao này, nhóm tháp Dương Long được cho là có chiều cao lớn nhất trong số các tháp Champa còn lại tại Việt Nam.
Theo thời gian, Tháp cổng, tường bao và các tháp phụ khác chỉ còn dấu vết nền móng.
Cả ba tháp đều có mặt bằng hình vuông. Mặt bằng tháp Bắc và tháp Nam có chiều rộng mỗi cạnh khoảng 12m. Tháp Giữa mặt bằng lớn hơn. Cả 3 tháp đều chỉ có một lối vào từ phía Đông. Các phía còn lại là cửa giả. Tại nhóm tháp Dương Long, kết cấu đá để gia cố chịu lực và trang trí chiếm tỷ lệ lớn hơn so với một số tháp Champa khác. Đây cũng là một đặc điểm tạo nên Phong cách Bình Định.
Hình thức mặt đứng tháp chia thành: Đế tháp, Thân tháp và Mái tháp.
Sơ đồ mặt đứng 3 tháp Chính, Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Sơ đồ mặt bằng 3 tháp Chính, Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Phối cảnh mặt phía Đông 3 tháp Chính, Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Phối cảnh mặt phía Tây 3 tháp Chính, Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Đế Tháp
Đế tháp Dương Long bên trong bằng gạch, bên ngoài được gia cố bởi các viên đá sa thạnh dày đến 60cm, tạo cho nền móng hết sức bề thế và kiên cố. Khác với nhiều tháp Champa khác với móng chủ yếu bằng gạch với trang trí chủ yếu từ trụ móng, dật bậc móng, tại đây các viên đá bao móng có bề mặt được chạm khắc gờ, rãnh hoa lá, linh vật, người.
Các khối đá sa thạch ốp xung quanh bệ các tháp Chính, Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Thân Tháp
Thân tháp chính là một khối lập phương.
Bề mặt tháp không có trụ góc mà có các mảng tường nhô dần 3 lớp, vừa tạo ra cơ cấu trang trí bề mặt vừa tạo thành khối cổng bề thế.
Tháp Giữa có cửa ra vào nhô hẳn ra phía trước.
Các cửa ra vào của tháp, kể cả cửa giả, đều được gia cố bằng các khối đá sa thạch, trên bề mặt được chạm khắc trang trí.
Các bức điêu khắc thể hiện nhiều đề tài khác nhau trong Hindu giáo, ví như : hình ảnh các vị thần trong nhiều tư thế; vũ công; các loại hoa lá; các loài thú như voi, khỉ, rắn; linh vật như chim thần Garuda chân quắp hai đầu rắn (là con vật cưỡi của thần Vishnu, với hình tượng thân chim, đầu người), linh vật Kala hay mặt nạ Kala (thần Thời gian, hóa thân của thần Siva), linh vật Gajasimha (đầu voi, mình sư tử), thủy quái Makara…
Các bức điêu khắc nổi bật nhất là tại phía trên cửa ra vào tại thân tháp và cả mái tháp.
Tại các cửa ra vào, trên đỉnh là tượng thần Garuda.
Tại các cửa giả, trên đỉnh trang trí hình lá nhĩ, vòng ngoài là thân rắn uốn cong, bên trong là mặt linh vật Kala, miệng khạc ra rắn bảy đầu trong tư thế uốn lượn sinh động.
Diềm đá ngăn cách thân và mái được chạm khắc tinh vi thể hiện hình voi và sư tử kết thành dải chạy vòng quanh.
Trong 3 khối tháp, tháp Giữa trang trí không cầu kỳ như tháp Bắc và tháp Nam.
Thân tháp là các mảng tường gạch kết hợp với các khối đá sa thạnh có trang trí
Mái tháp
Từ phía trên của mỗi thân tháp đều có diềm mái nhô ra đỡ 4 tầng mái tại phía trên. Các tầng mái phía trên thu nhỏ dần. Các diềm mái đều được gia cố bằng đá kết hợp với mảng trang trí tại chính giữa mái.
Trang trí tầng mái trên được mô phỏng theo tầng mái dưới.
Trên đỉnh của mái tháp có một khối đá sa thạch, chạm khắc thành một bông sen lớn với một búp nhọn trên đỉnh.
Mái tháp gồm các gờ bậc gạch kết hợp với các diềm mái bằng đá sa thạch
Trang trí bông sen đá trên đỉnh tháp Chính, Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Chóp tháp Dương Long trưng bày tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định
Vào năm 2006, tại Nhóm tháp Dương Long đã tiến hành các đợt khai quật và tìm thấy hàng trăm hiện vật liên quan như sành, sứ, đất nung, điêu khắc đá…Từ đây, cho phép hình dung rõ nét hơn về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật của Nhóm tháp: Phong cách của Nhóm tháp Dương Long được hình thành trên cơ sở tiếp biến các Phong cách đền tháp Champa giai đoạn trước, cũng như tiếp nhận các ảnh hưởng của kiến trúc, nghệ thuật đền tháp Hindu giáo tại Vương quốc Khmer láng giềng.
Song tại Nhóm tháp Dương Long, các hình ảnh thể hiện tín ngưỡng dân gian nội sinh ít được đề cập tới do Hindu giáo ngoại nhập quá mạnh mẽ. Công trình dường như chỉ dành cho tầng lớp vua, quý tộc, lãnh đạo tôn giáo (Hindu giáo), quan lại trung ương và địa phương.
Trong khi đó, cũng trong thời kỳ này, từ khi dành độc lập, các nhà nước phong kiến Việt Nam tại phía Bắc, từ Đại Cồ Việt thời nhà Đinh – nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý (từ năm 968–1054) đến Đại Việt thời nhà Lý – nhà Trần (từ năm 1054–1400) đều chú trọng phục hưng tín ngưỡng Thần đạo bản địa với việc xây dựng các ngôi đền, đình và miếu để thờ tiền nhân, thờ mẫu, thờ các các vị anh hùng có công với nước, với dân. Mãi đến cuối thế kỷ 13 – đầu thế kỷ 14, tại vương quốc Chiêm Thành mới có đền tháp Champa kết hợp giữa Hindu giáo và tín ngưỡng bản địa, qua công trình tháp Po Klong Garai, Ninh Thuận. Công trình được xây dựng để thờ Po Klong Garai (tiểu vương, trị vì năm 1151-1205), đã có nhiều công lớn trong việc cai trị thành quốc Panduranga, được người dân Champa suy tôn như vị thần thủy lợi.
Hiện vật tìm được trong các lần khai quật, tại Nhóm tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định được đánh giá là một trong những di tích tháp Champa cổ và đẹp còn tồn tại. Tháp Dương Long tạo thành một phong cách kiến trúc, nghệ thuật tiêu biểu của hệ thống đền tháp Champa, Việt Nam.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
http://whc.unesco.org/en/list/949
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia
_%C4%91%E1%BA%B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1p_D%C6%B0%C6%A1ng_Long
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C4%83m_Pa
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_%C4%91%E1%BB%81n_
th%C3%A1p_Ch%C4%83m_Pa
https://en.wikipedia.org/wiki/Art_of_Champa#Periods_and_styles_of_Cham_art
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1p_Ch%C4%83m
http://redsvn.net/chum-anh-thap-duong-long-toa-thap-cham-cao-nhat-viet-nam/
- Di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn (My Son Sanctuary), Duy Xuyên, Quảng Nam, Việt Nam xem tại đây
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|
Cập nhật ( 04/03/2020 )
|
Tin mới đưa:- Thung lũng Loire giữa Sully-sur-Loire và Chalonnes, Pháp
- Quần thể Tu viện Ferapontov, Vologda, Nga
- Nhà thờ St James ở Šibenik, Croatia
- Mỏ đá lửa Thời kỳ Đồ đá mới ở Spiennes, Mons, Bỉ
- Lăng mộ Hoàng gia của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, Trung Quốc
- Hang động Long Môn, Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc
- Vương cung thánh đường San Francesco và địa điểm khác của Dòng Phanxicô tại Assisi, Ý
- Công trình Villa Adriana, Tivoli, Rome, Ý
- Địa điểm khảo cổ Mycenae và Tiryns tại Argolis, Hy Lạp
- Di tích Thời kỳ Đồ đá mới ở Orkney, Scotland, Vương quốc Anh
- Vùng đất lấn biển Beemster, tỉnh Noord-Holland, Hà Lan
- Trạm bơm hơi nước D.F. Woudagemaal, Lemmer, Hà Lan
- Khu Khảo cổ Nghệ thuật đá thời Tiền sử ở Thung lũng Côa (Bồ Đào Nha) và Siega Verde (Tây Ban Nha)
- Nhà hát Catalana và Bệnh viện Sant Pau, Barcelona, Tây Ban Nha
- Hệ thống cối xay gió ở Kinderdijk – Elshout, Hà Lan
Tin đã đưa:- Tháp Po Klong Garai, Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận
- Đình So, Quốc Oai, Hà Nội, Việt Nam
- Đình Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, Việt Nam
- Đình Tường Phiêu, Phúc Thọ, Hà Nội, Việt Nam
- Đền thờ Lê Hoàn, Thọ Xuân, Thanh Hóa, Việt Nam
- Tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên, Việt Nam
- Tháp Hòa Lai, Thuận Bắc, Ninh Thuận, Việt Nam
- Đình Đại Phùng, Đan Phượng, Hà Nội, Việt Nam
- Đền Bà Triệu, Lăng tháp Vua Bà và Đình Phú Điền tại Triệu Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa, Việt Nam
- Đình Hoành Sơn, Nam Đàn, Nghệ An, Việt Nam
- Đền Xưa - Chùa Giám - Đền Bia, Cẩm Giàng, Hải Dương, Việt Nam
- Đền Trần Thương, Lý Nhân, Hà Nam
- Phủ Tiên Hương, Phủ Vân Cát, Lăng Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Dày, Vụ Bản, Nam Định
- Đền Sóc, Sóc Sơn, Hà Nội, Việt Nam
- Đền Cửa Ông và đền Cặp Tiên, Quảng Ninh, Việt Nam
|