
Thông tin chung:
Công trình: Đền, miếu tại Khu di tích lịch sử Lam Kinh
Địa điểm: xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân và xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Thời gian hình thành: Thế kỷ 15
Giá trị: Di tích quốc gia đặc biệt (Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, năm 2013)
Sau 10 năm lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn (năm 1418 - 1428) đánh đuổi giặc nhà Minh, Lê Lợi lên ngôi vua nước Đại Việt, hiệu là Lê Thái Tổ, trị vì từ năm 1428 đến năm 1433, đóng đô ở Đông Kinh (Thăng Long). Ông được coi là vị hoàng đế huyền thoại về tài năng quân sự, khả năng cai trị và lòng nhân ái đối với cả kẻ thù.
Năm 1430, Lê Thái Tổ cho đổi vùng đất Lam Sơn, quê hương ông, thành Lam Kinh hay Tây Kinh để phân biệt với Đông Kinh - Hà Nội. Lam Kinh trở thành vùng đất cốt lõi của nước Đại Việt thời Lê.
Năm 1433, sau khi mất, vua Lê Thái Tổ được đem về an táng ở quê nhà Lam Kinh. Các điện, miếu nhà Hậu Lê cũng bắt đầu được xây dựng tại đây.
Năm 1448, vua Lê Nhân Tông (hoàng đế thứ 3 triều Hậu Lê, trị vì năm 1442 – 1459) xuống chiếu cho làm lại điện, miếu Lam Kinh, trong đó có cung điện Lam Kinh với chức năng là hành cung của các vua chúa nhà Hậu Lê mỗi lần về lễ bái tổ tiên.
Năm 1456, trong dịp hành lễ ở Lam Kinh, vua Lê Nhân Tông đã đặt tên cho 3 toà của Chính điện Lam Kinh là Quang Đức, Sùng Hiếu, Diễn Khánh với các triết lý theo như tên gọi các tòa cung điện tại kinh thành Thăng Long.
Kết quả khảo cổ và dấu tích còn lại cho thấy di lích Lam Kinh gồm: Thành ngoại được giới hạn bởi La thành và Thành nội; Bên trong Thành nội đã từng tồn tại Ngọ môn, Sân rồng, Chính điện, Thái miếu... nguy nga tráng lệ.
Năm 2008, một số đoạn của La thành phía Đông và phía Tây cầu Bạch đã được khôi phục (với tổng chiều dài 21m).
Khu di tích lịch sử Lam Kinh có tổng diện tích là 141ha, nằm trên xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân và xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.
Khu di tích lịch sử Lam Kinh gồm 50 hạng mục công trình chính, trong đó có: Thành nội, Lăng, Đền, Miếu…

Sơ đồ vị trí Thành nội Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Phối cảnh khu vực Thành nôi Lam Kinh, Thanh Hóa
Thành nội Lam Kinh
Thành nội Lam Kinh xây dựng theo trục Bắc - Nam trên một khoảng đồi gò, phía Bắc dựa vào núi Dầu, phía Nam nhìn ra sông Chu, xa là núi Chúa làm tiền án, bên trái là rừng Phú Lâm, bên phải là núi Hương.
Phía trước Thành nội là một con sông đào, có tên là sông Ngọc. Sông bắt nguồn từ sông Chu và hồ nước phía Tây, chạy vòng qua trước thành. Theo sách xưa, nước sông trong veo, đáy sông có nhiều sỏi tròn trông rất đẹp. Trên sông bắc cầu Tiên Loan Kiều, còn có tên Cầu Bạch. Cầu có hình cánh cung, trên cầu có nhà, theo kiểu trên "Thượng gia hạ kiều" (trên là nhà, dưới là cầu).
Thành nội có mặt bằng hình chữ nhật, dài 314m, rộng 254m, diện tích khoảng 8ha. Xung quanh 4 mặt là hệ thống thành, hiện chỉ còn tàn tích móng dày 1,08m. Thành phía Bắc hình cánh cung.
Bên trong Thành nội, từ ngoài vào trong phân thành 3 lớp không gian với bệ nền cao dần lên. Lớp không gian thứ nhất có Giếng cổ, Nghi môn, Sân chầu; Lớp không gian thứ hai bố trí Chính điện; Lớp không gian thứ ba bố trí Thái miếu.

Sông Ngọc trước Thành nội Lam Kinh, Thanh Hóa

Tiên Loan Kiều trên sông Ngọc trước Thành nội Lam Kinh, Thanh Hóa; xưa kia phía trên cầu có nhà
Giếng cổ, Nghi môn, Sân Chầu.
Giếng cổ là công trình thuộc lớp không gian thứ nhất, nằm phía trước Nghi môn khoảng 10m, lệch về bên trái. Tương truyền, giếng có từ thời cụ Lê Hối (cụ nội của Lê Lợi). Để tạo thành giếng, người xưa đã cho đắp ngăn đoạn suối chảy từ Tây sang Đông Nam để lấy nước sinh hoạt cho hàng nghìn người trong gia tộc. Năm 2003, giếng được tôn tạo với đường kính khoảng 35m, kè đá xung quanh. Giếng sâu 7,5m, mực nước dao động ở mức 3,5 - 4m.
Nghi môn Thành nội Lam Kinh đặt trên một nền rộng 11m, dài 14,1m, được phục dựng năm 2009, trên nền móng kiến trúc thời Lê Trung Hưng. Công trình gồm 3 gian, 4 mái. Bước gian giữa rộng 4,6m, bước gian hai bên rộng 3,5m. Cột bên trong Ngọ môn rất lớn, đường kính chân tảng đo được 78cm. Trước Nghi môn có hai con nghê bằng đá đứng chầu.
Sân Chầu hay sân Rồng có diện tích lớn, khoảng 3612m2 với chiều dài 64,5m, chiều rộng 56m. Hai đầu sân là tòa Tả vu và Hữu vu. Sân là nơi để các quan chầu khi vua thiết triều và tế lễ. Sân Rồng được phục hồi năm 2008, nền lát gạch, lối giữa sân lát đá đục nhám. Bên phải sân có một cây đa cổ hàng trăm năm tuổi.

Giếng cổ bên trong Thành nội Lam Kinh, Thanh Hóa

Nghi môn với cây đa cổ, Thành nội Lam Kinh, Thanh Hóa; phía sau là sân Rồng

Nghê đá phía trước Nghi môn Thành nội Lam Kinh, Thanh Hóa
Chính điện
Chính điện thuộc lớp không gian thứ hai, đặt trên một bệ nền cao 1,8m so với mặt sân Rồng. Đây là nơi các vua nhà Hậu Lê tổ chức gặp gỡ quan chức địa phương mỗi khi hành hương.
Từ sân Rồng lên Chính điện có một bậc thang rộng 5m với 9 bậc (cửu trùng) và 3 lối lên. Lối giữa rộng 1,8m, hai bên mỗi lối rộng 1,2m. Giữa các lối đi là lan can đá. Lan can hai bên bậc chính là hình tượng rồng uốn khúc. Trên thân rồng khắc hoa văn hình ngọn lửa; đầu rồng có bờm; mép rồng trang trí râu xoắn; dưới cằm có râu dài xoắn hình vặn thừng; tay rồng nắm gọn phần dưới râu, đặt trên một viên ngọc (hình tượng này được gọi là Long hí châu - rồng giỡn ngọc trai). Hai lan can ngoài cùng chạm hình mây cuộn.
Chính điện có bố cục hình chữ "công" hay chữ H, tạo thành 3 tòa: Tiền điện (có tên là điện Quang Đức), Trung điện (điện đặt dọc, có tên là điện Sùng Hiếu) và Hậu điện (có tên là điện Diên Khánh). Đây được cho là mô hình mẫu mực của các công trình hoàng cung thời bấy giờ.
Hai điện Quang Đức và Diên Khánh có cấu trúc xây dựng giống nhau gồm 7 gian, 2 dĩ. Điện Sùng Hiếu 5 gian. Tổng diện tích của Chính điện khoảng 1640m2.
Chính điện được xây dựng, cải tạo theo nhiều giai đoạn. Kiến trúc hiện nay thuộc thời Lê Trung Hưng (năm 1533–1789), được xây dựng trên nền của tòa nhà đã được xây dựng vào thời Lê Sơ (năm 1428–1527).

Điện Quang Đức hay Tiền điện, Thành nội Lam Kinh, Thanh Hóa

Mặt bên điện Sùng Hiếu (Trung điện), nối điện Quang Đức (Tiền điện) với điện Diên Khánh (Hậu điện), Thành nội, Lam Kinh, Thanh Hóa
Thái miếu
Thái Miếu thuộc lớp không gian thứ ba, đặt trên một bệ nền cao hơn từ 0,4m - 1m so với nền của Chính điện.
Lớp không gian này kéo dài khoảng 135m theo hình bán nguyệt, ôm lấy tòa Chính điện.
Thái Miếu gồm 9 tòa nhà. Mỗi tòa có mặt bằng hình chữ nhật, tương đối giống nhau, dài từ 13,5m đến 16m, rộng từ 10,4m đến 12,9m, gồm 3 gian, 2 dĩ, 4 mái. Có tòa tường mặt trước lùi vào phía trong tạo thành hàng hiên.
Đây là nơi các vua nhà Hậu Lê và hoàng gia tổ chức lễ bái yết và suy tôn tổ tiên.
Tòa 5 (chính giữa) có nền cao nhất, thấp dần về hai bên. Mỗi toà đều có bậc lên xuống, lan can được tạc hình rồng và trang trí hoa lá tinh xảo.
Toà chính giữa thờ 3 vị: Thái tổ Cao hoàng đế (Lê Lợi), Hiển tổ Trạch hoàng đế (Lê Đinh, ông nội của Lê Lợi), Tuyên tổ Phúc hoàng đế (Lê Khoáng, cha của Lê Lợi). 8 tòa còn lại thờ các vị vua Lê đời sau.

Bậc đá từ khu vực Chính điện lên khu vực Thái miếu, Thành nội Lam Kinh, Thanh Hóa


Phối cảnh khu vực Thái Miếu, Thành nội Lam Kinh, Thanh Hóa
Lăng mộ tại Lam Kinh
Lam Kinh là nơi an táng 6 vị vua và 2 Hoàng Thái hậu.
Hiện nay còn lại 5 mộ vua và 1 bà Hoàng Thái hậu: Lăng vua Lê Thái Tổ (còn gọi là Vĩnh Lăng); Lăng vua Lê Thái Tông (Hựu Lăng); Lăng vua Lê Thánh Tông (Chiêu Lăng); Lăng Lê Hiến Tông (Dụ Lăng); Lăng Lê Túc Tông (Kính Lăng) và lăng mộ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao (mẹ vua Lê Thánh Tông, Lăng Khôn Nguyên).
Hai ngôi mộ chưa tìm thấy là lăng mộ vua Lê Nhân Tông và lăng Hoàng Thái hậu Nguyễn Ngọc Huyên.
Mỗi khu lăng mộ có diện tích khoảng 400m2 và đều có một nhà bia.
Các nhà bia tại Lam Kinh đều được dựng phục dựng lại những năm gần đây.
5 trong 6 tấm bia trong các nhà bia tại Khu lăng mộ nhà Hậu Lê tại Lam Kinh được công nhận là Bảo vật quốc gia; tấm bia còn lại (tại Hựu Lăng) hiện không còn.
Vĩnh Lăng
Vĩnh Lăng là lăng vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) nằm phía sau Thái miếu, cách khoảng 60m.
Khu vực Lăng được giới hạn bởi một hàng 4 trụ biểu, tạo thành tam quan vào Lăng, như tại các công trình đình đền truyền thống.
Trước Lăng có hai hàng tượng quan hầu và linh vật bằng đá (2 nghê, 2 ngựa, 2 tê giác, 2 hổ). Giữa hai hàng tượng là một lối vào lăng mộ rộng 2,3m.
Lăng mộ đắp đất hình lập phương, xung quanh xây chèn bằng đá ở bên ngoài, có kích thước mặt bằng 4,4m x 4,4m, cao 1m. Lăng không có mái che. Mặt trên lăng mộ để cỏ mọc.
Nhà bia Vĩnh Lăng được dựng cách lăng 300m, ở Tây Nam Thành nội Lam Kinh.
Nhà bia có mặt bằng gần vuông, mỗi cạnh là 8,8m với 16 cột đỡ mái 2 tầng, 8 mái. Xung quanh Nhà bia còn có nhiều tượng rồng tạc bằng đá với hình thức độc đáo.
Bia bằng đá nguyên khối cao 2,97m, rộng1,94m, dày 0,27m; đặt trên lưng một con rùa lớn bằng đá với chiều dài 3,46m; rộng 1,9m; cao 0,94m kể cả đế. Nghệ thuật trang trí trên mặt bia tinh xảo. Văn bia do Nguyễn Trãi soạn, ca ngợi công lao của vua Lê Thái Tổ.

Lối vào Vĩnh Lăng (Lăng Lê Lợi), Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Hàng tượng quan hầu và linh vật phía trước mộ, tại Vĩnh Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Mộ vua Lê Thái Tổ tại Vĩnh Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Phối cảnh Nhà bia Vĩnh Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Bia Vĩnh Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa
Hựu Lăng
Hựu Lăng là lăng mộ vua Lê Thái Tông (hoàng đế thứ 2 triều Hậu Lê, trị vì năm 1433- 1442).
Hựu Lăng ở bên trái, cách Vĩnh Lăng khoảng 800m và nằm trên một gò thuộc núi Phú Lâm, xã Xuân Lâm, huyện Thọ Xuân.
Nhà bia Hựu Lăng được dựng cách lăng khoảng 20m. Hiện nay, bia đã bị mất, chỉ còn lại rùa đá nằm nguyên ở vị trí ban đầu.
Chiêu Lăng
Chiêu Lăng là lăng mộ vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5 của triều Hậu Lê, trị vì 1460- 1497), nằm phía bên trái điện Lam Kinh, thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân.
Cách bố cục mặt bằng và những hiện vật tại Chiêu Lăng đều giống Vĩnh lăng (Lăng Lê Thái Tổ), nhưng kích thước nhỏ hơn, chung quanh không có tường bao.
Phía trước mộ có các tượng quan hầu, tê giác, ngựa, lân và voi. Nét chạm khắc được cho là tỉ mỉ và trau chuốt hơn so với tượng tại Vĩnh Lăng.
Nhà bia Chiêu Lăng, nằm cách lăng khá xa, kích thước gần như nhà bia Vĩnh lăng, cao 2,80m, rộng 1,90m, dày 0,27m.
Bia được tạo dựng năm 1498, cùng với thời điểm xây dựng lăng. Trên mặt bia có nhiều trang trí, song không tinh xảo bằng bia Vĩnh Lăng. Bia Chiêu Lăng khắc chữ Hán cả hai mặt. Mặt trước tên bia được chạm theo lối chữ Triện gồm 7 chữ: Đại Việt Lam Sơn Chiêu Lăng Bi. Nội dung văn bia nói về thân thế, sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông. Mặt sau bia còn khắc một bài thơ của vua Lê Hiến Tông (hoàng đế thứ 6 triều Hậu Lê, trị vì từ năm 1479- 1504) và 35 bài thơ của các văn thần, danh nho nổi tiếng thời bấy giờ ca ngợi công đức của vua Lê Thánh Tông.

Mộ vua Lê Thánh Tông tại Chiêu Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Nhà bia Chiêu Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Bia Chiêu Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa
Dụ Lăng
Dụ Lăng là lăng mộ vụa Lê Hiến Tông (hoàng đế thứ 6 triều Hậu Lê, trị vì 1497 – 1504).
Dụ Lăng nằm cách Vĩnh Lăng gần 300m, trên một thế đất rộng mở. Phía trước Dụ Lăng là 4 trụ biểu tạo thành tam quan. Phía trước mộ là các tượng quan hầu và tê giác, ngựa, lân, voi.
Nhà bia Dụ Lăng dựng trên một gò núi cách Dụ Lăng 80m về phía Tây Nam. Nhà bia có 4 cột phía trong, 4 cột phía ngoài, 4 mái. Bia là một tấm đá nguyên khối rộng 1,90m, cao 2,78m, dày 27cm; dựng trên lưng một con rùa đá dài 2,64m, rộng 1,83m, cao 67cm.

Trụ biểu tạo thành Tam quan phía trước Dụ Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Nhà bia Dụ Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa
Kính Lăng
Kính Lăng là lăng mộ vua Lê Túc Tông (hoàng đế thứ 7 triều Hậu Lê, trị vì 1504 -1505).
Kính Lăng được xây dựng trên đỉnh núi Hổ, cách Vĩnh Lăng 4km về phía Đông Bắc.
Lăng xây theo hướng Nam chếch Đông với các tượng quan hầu và các con giống sắp đặt như ở Dụ Lăng.
Nhà bia Kính Lăng được dựng vào năm 1505, trên một mảnh đất bằng cách Kính Lăng 300m về phía Đông Nam. Bia làm bằng đá nguyên khối, rộng 1,90m, cao 2,64m, dày 30cm, được đặt trên lưng một con rùa đá dài 3,35m, rộng 2,05m, cao 43cm.

Nhà bia Kính Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Bia Kính Lăng, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa
Lăng Khôn Nguyên Chí Đức
Lăng Khôn Nguyên Chí Đức là lăng mộ của Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao (1421- 1496, phi tần của vua Lê Thái Tông, mẹ đẻ của vua Lê Thánh Tông, triều Hậu Lê). Lăng được xây ở một khu đất thấp phía Đông Vĩnh Lăng 700m, phía Nam Hựu Lăng 100m. Điều khác biệt với lăng vua là tượng quan hầu đặt ở hai bên tả hữu là tượng nữ quan. Tượng con giống cũng tương tự như ở các lăng vua, chỉ khác biệt là đều có thân mập.
Nhà bia lăng Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao cách Lăng Khôn Nguyên Chí Đức khoảng 150m.
Bia làm bằng đá nguyên khối cao 2,76m, rộng 1,90m, dày 0,28m, được đặt trên lưng một con rùa đá dài 2,65m, rộng 1,84m, cao 0,69m. Bia hai mặt đều khắc chữ với 36 bài thơ ca ngợi công đức của Hoàng Thái hậu. Bia được dựng vào năm 1498.

Nhà bia Lăng Khôn Nguyên Chí Đức, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Bia Lăng Khôn Nguyên Chí Đức, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa
Đền thờ tại Lam Kinh
Lam Kinh hiện có hai đền thờ, được được phục hồi tôn tạo năm 1997: Đền thờ Lê Thái Tổ (Lê Lợi) tại xã Xuân Lam và đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai tại xã Kiên Thọ – Ngọc Lặc, cách di tích Lam Kinh 5km về phía Bắc.
Đền thờ Lê Lợi
Đền thờ Lê Lợi nằm cách Thành nội Lam Kinh 150m về phía Đông Nam.
Năm 1996, đền được tôn tạo theo kiến trúc đền truyền thống, gồm: Nghi môn ngoại, Nghi môn nội, Tiền đường, Trung đường và Hậu cung….
Nghi môn ngoại nằm tại phía Tây của đền, gồm 4 trụ biểu xây gạch theo kiểu truyền thống: Hai trụ biểu tại giữa cao, đỉnh trụ trang trí tứ phượng; Hai trụ biểu hai bên thấp, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu. 4 thân trụ biểu phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế thắt dạng cổ bồng.
Nghi môn nội hướng về phía Nam. Phía trước là hồ nước hình chữ nhật thả sen. Nghi môn nội tạo thành tam quan. Khối chính giữa là một tòa cổng với mái 2 tầng, 8 mái. Hai bên có hai trụ biểu với đỉnh trụ trang trí con nghê chầu. Giữa trụ biểu và khối tòa cổng là một cổng vòm tường.
Sau Nghi môn nội là sân đền và Điện thờ gồm 3 tòa: Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Tiền đường và Trung đường được nối với nhau bởi tòa Thiêu hương (ống muống) tạo thành hình “chữ công” hay chữ H.
Kết cấu của đền là khung gỗ lim.

Nghi môn ngoại, Đền thờ Lê Lợi, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Nghi môn nội, Đền thờ Lê Lợi, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Hồ sen trước Nghi môn nội, Đền thờ Lê Lợi, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Tòa Tiền đường, Đền thờ Lê Lợi, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Ban thờ bên trong Đền thờ Lê Lợi, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa
Đền thờ Lê Lai
Đền thờ Lê Lai (Trung Túc Vương Lê Lai, một vị Khai quốc công thần của triều Hậu Lê, năm 1355 -1419), thuộc địa bàn xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, cách Khu di tích Lam Kinh 6km về phía Tây Bắc.
Vào thế kỷ 15, tương truyền rằng một lần Lê Lợi đi chiêu binh qua dòng suối trước làng, vì nóng quá xuống rửa chân thì tép bám đầy chân. Vì vậy, Lê Lợi đặt tên là làng Tép. Làng Tép ngày nay là một bản nhỏ của xã Kiên Thọ, dân tộc Mường chiếm 80% dân số. Đây là nơi sinh ra Lê Lai, một tấm gương về sả thân cứu chúa.
Lê Lai được sử gia miêu tả là có tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt.
Năm 1416, tại hội thề Lũng Nhai, Lê Lai là người đứng thứ 2 sau Lê Lợi.
Năm 1419, khi nghĩa quân bị giặc Minh vây hãm trên núi Chí Linh, tình hình cấp bách, Lê Lai phải đổi áo bào cho Lê Lợi, liều mình cưỡi voi xông ra phá vòng vây và bị giặc bắt. Quân Minh, sau khi chém Lê Lai (nghĩ là Lê Lợi), liền thu quân.
Lê Lợi thoát khỏi vòng vây, phục dựng quân đội và đánh đuổi quân Minh, thu lại giang sơn.
Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) mất ngày 22 tháng 8 âm lịch, năm 1433, trước khi mất có dặn lại đời sau phải làm giỗ Lê Lai trước một ngày, tức là ngày 21 tháng 8. Từ đó dân gian truyền lại câu: 21 Lê Lai, 22 Lê Lợi.
Các sử gia đời sau cho rằng: Vua nhà Lê (Lê Lợi) có tài, lại có bề tôi trung liệt (Lê Lai) thì làm gì mà chẳng làm nên nghiệp lớn ngàn năm.
Đền thờ Phúc Quốc công Lê Lai còn có tên gọi là đền Tép, hay đền ở làng Tép. Đền được xây dựng vào năm 1450, được trùng tu vào năm 1939. Năm 1971, 1997 đền được trung tu có diện mạo như ngày nay.
Đền thờ Lê Lai nằm trong khuôn viên rộng 828m2, có tường bao quanh.
Đền hướng về phía Đông Nam. Trước đền là một hồ bán nguyệt.
Quần thể đền gồm: Nghi môn, Tiền đường, Hậu cung và đền Mẫu.
Nghi môn là một tam quan. Tòa giữa cao và lớn, hai bên thấp và nhỏ, có cấu trúc xây dựng giống nhau gồm một bức tường với các trụ tường cuốn vòm thành cổng, phía trên là khối mái dạng 4 mái.
Tiền đường được trùng tu vào năm 1997, trên nền móng cũ xưa, dài 12m, rộng 9,5m, gồm 3 gian, 2 dĩ, mái 2 tầng, 8 mái. Kết cấu gỗ bên trong theo kiểu chồng rường, giá chiêng truyền thống. Bên trong, các cấu kiện gỗ được chạm khắc hình tượng mây, sóng nước, hoa lá. Năm 2013, Tiền đường bị hỏa hoạn, ngay sau đó đã được phục dựng.
Hậu cung là một tòa nhà nằm dọc so với Tiền đường,. Công trình được trùng tu lần cuối vào năm 1944. Kiến trúc hậu cung là “Thượng sàng hạ mộ” (dưới là mộ, trên là ban thờ).
Phần móng nhà tương đương với phần mộ Lê Lai. Phần nhà bên trên dài 9,5m, rộng 9m, gồm 3 gian, 4 mái.
Ban thờ bên trong xây gạch theo hình vòm cuốn, trên đặt tượng Lê Lai tạc bằng gỗ mít ngồi trong ngai, chân đặt lên 2 con sư tử. Phía trên ban thờ là bức đại tự “Thiên cổ anh linh”.
Đền Mẫu nằm bên cạnh Hậu cung, là nơi thờ Đức bà A Thiện, vợ Lê Lai. Đền hướng về Nam, có kiến trúc hình “chữ đinh” hay chữ T. Tòa Tiền đường 3 gian, phía trước xây vòm cuốn với các trang trí lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay phượng múa, xen lẫn các họa tiết vân mây sóng nước. Bên đầu hồi đắp nổi hình hổ phù. Hậu cung phía sau là nơi đặt ban thờ Đức bà.

Nghi môn Đền thờ Lê Lai, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Tòa Tiền đường, Đền thờ Lê Lai, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Hậu cung Đền thờ Lê Lai; phía dưới là lăng mộ Lê Lai; Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa

Đền Mẫu thờ Đức bà A Thiện, vợ Lê Lai, thuộc Đền thờ Lê Lai, Khu di tích Lam Kinh, Thanh Hóa
Khu di tích Lam Kinh, huyện Thọ Sơn, tỉnh Thanh Hóa với các công trình Thành nội, Lăng, Đền là địa điểm mang ý nghĩa lịch sử và văn hóa thiêng liêng, gắn liền với nơi sinh Anh hùng dân tộc Việt Nam Lê Lợi, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và sự ra đời của triều đại Hậu Lê nước Đại Việt kéo dài gần 360 năm. Các công trình trong Khu di tích lịch sử Lam Kinh có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ 15- 18.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%91%E1%
BA%B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lam_Kinh
http://www.ditichlamkinh.vn/vi/gioi-thieu-ve-khu-di-tich-lam-kinh-
367faa79216f5876b616a2ff6a7d4d5b.html
http://vietlandmarks.com/module/groups/action/view/id/972
http://www.ditichlamkinh.vn/m/vi/cac-di-tich-ve-tinh-1-
6A7C1F2CBBF15697A798F689A795EA18.html
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|