Tuần -19 - Ngày 19/03/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Lịch sử Kiến trúc
Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Ấn Độ
23/10/2022
 

Thông tin chung:
Công trình: Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Ấn Độ (Buddhist Monuments at Sanchi)
Địa điểm: Bang Madhya Pradesh, Ấn Độ (N23 28 45,984 E77 44 22,992)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Hình thành: Thế kỷ thứ 3 TCN
Giá trị: Di sản thế giới (1989); hạng mục i ; ii ; iii ; iv ; vi 

Ấn Độ (India) là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích 3.287.263 km3 (đứng thứ 7 trên thế giới); dân số khoảng 1376 triệu người (năm 2022).
Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương tại phía Nam, biển Ả Rập phía Tây Nam, vịnh Bengal phía Đông Nam, giáp Pakistan ở phía Tây; với Trung Quốc, Nepal, Bhutan ở phía Đông Bắc; Myanmar và Bangladesh ở phía Đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia. 

Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilisation) thời Cổ đại, có các tuyến đường buôn bán mang tính lịch sử cùng với những đế quốc rộng lớn, giàu có về thương mại và văn hóa.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), tại đây đã xuất hiện các đô thị lớn với số dân hàng vạn người, được quy hoạch với hệ thống thoát nước, cấp nước phức tạp, nhà gạch nung, các kỹ thuật mới trong hoạt động thủ công mỹ nghệ và luyện kim…
Sự phân tầng xã hội, dựa trên đẳng cấp, xuất hiện trong thiên niên kỷ thứ 1 TCN. Sự tập quyền chính trị sớm nhất diễn ra dưới thời Đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 322 - 187 TCN); Đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại trong giai đoạn 187- 78 TCN) và Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 319 đến 550 sau Công nguyên).
Các vương quốc trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 3 TCN đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên tại Tiểu lục địa Ấn Độ (Middle kingdoms of India) có ảnh hưởng to lớn đến nền văn hóa của khu vực xung quanh, lan truyền đến tận Đông Nam Á. 

Đây cũng là nơi bắt nguồn của 4 tôn giáo nội sinh lớn:  

Ấn Độ giáo (Hinduism) là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, xuất phát từ khu vực Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), là sự hợp nhất hay đồng bộ hóa các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và  không có người sáng lập; hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, sau khi kết thúc thời kỳ Vệ Đà (Vedic period, năm 1500 – 500 TCN), phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ giáo bao gồm các nhóm tôn giáo khác biệt nhau về triết lý, song được liên kết bởi các khái niệm chung, các nghi thức, vũ trụ học, tài nguyên văn bản Hindu (luận về thần học, triết lý, thần thoại, kinh Vệ Đà, Yoga, nghi lễ, cách thức xây dựng đền thờ) và tập tục hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Bốn giáo phái lớn nhất của Ấn Độ giáo là Vaishnavism, Shaivism, Shaktism và Smartism. 

Phật giáo (Buddhism) do Đức Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama/ Tất đạt đa Cồ đàm, năm 624 TCN – 544 TCN ; hoặc năm 563 TCN – 483 TCN) sáng lập. Sau này, Phật giáo phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa); Phật giáo Đại thừa (Bắc tông, Đại chúng); Phật giáo Chân ngôn (Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa). 

Jaina giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo lâu đời trên thế giới, do Đức Mahavir (năm 599 trước TCN – 527 TCN) sáng lập ra tại Bắc Ấn Độ, gần như là cùng thời với Phật giáo, với triết lý và phương thức thực hành dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn. 

Sikh giáo (Sikhism) do Đức Guru Nanak (năm 1469 - 1539) sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, giữa Pakistan và Ấn Độ. 
Ngoài ra, tại đây còn xuất hiện các tôn giáo ngoại nhập như: Do Thái giáo (Judaism), Bái Hỏa giáo (là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islamic). Các tôn giáo này được truyền đến Ấn Độ vào thiên niên kỷ thứ 1 sau Công nguyên, bổ sung vào văn hóa đa dạng của khu vực. 

Vào thời Trung cổ, phần lớn miền Bắc Ấn Độ thuộc Vương quốc Hồi giáo Delhi (Delhi Sultanate), kéo dài trong khoảng 320 năm (1206- 1526). Trong giai đoạn này, sự kết hợp giữa văn minh Ấn Độ với văn minh Hồi giáo, sự hội nhập giữa tiểu lục địa Ấn Độ với vùng lục địa Phi – Á – Âu (Afro-Eurasia) đã có một tác động to lớn lên văn hóa và xã hội Ấn Độ. Khi Delhi thành thủ đô Hồi giáo vào năm 1193, tại đây đã hình thành được nền kiến trúc Hồi giáo - Ấn Độ (Indo-Islamic architecture, nguồn gốc từ Iran), đạt được sự tăng trưởng dân số và kinh tế cùng với việc xuất hiện ngôn ngữ Hindi-Urdu (Hindustani language). Vương quốc Hồi giáo Delhi cũng có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi các cuộc xâm lăng của Đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ 13, 14. 

Vào thời Trung cổ, miền Nam Ấn Độ phân thành nhiều vương quốc nhỏ, ví dụ như: 
Vương quốc Vijayanagara (Vijayanagara Empire): nằm trên Cao nguyên Deccan (Deccan Plateau),  miền nam Ấn Độ, kinh đô là thành phố Vijayanagara (bang Karnataka hiện tại). Triều đại này được thành lập năm 1336, kéo dài đến năm 1646. Vijayanagara đã trở thành một thành trì của Ấn Độ giáo trong giai đoạn người Hồi giáo làm bá chủ ở miền bắc Ấn Độ, nổi tiếng vì bảo trợ cho việc học chữ Phạn. Đây là vương quốc giàu có nhờ buôn bán gia vị và sản xuất hàng dệt vải bông. 
Vương quốc Đông Ganga (Eastern Ganga dynasty): thuộc vùng Kalinga (bao gồm cả bang Odisha hiện tại) là khu vực ven biển phía Đông, giữa sông Mahanadi và sông Godavari với kinh đô là Dantapura, sau đó được chuyển đến Kalinganagara (Mukhalingam) và cuối cùng đến Kataka (Cuttack). Triều đại này tồn tại vào thế kỷ 11- đầu thế kỷ 15, được đánh giá là vương triều bảo trợ tuyệt vời cho tôn giáo và nghệ thuật. Nhiều ngôi đền của thời kỳ Đông Ganga được xếp hạng là những kiệt tác của kiến trúc Ấn Độ giáo. Người cai trị đáng chú ý của triều đại Đông Ganga là vua Narasingha Deva I, giai đoạn năm 1238-1264. Ông là một chiến binh mạnh mẽ, đã tổ chức đánh bại nhiều đợt tấn công của Vương quốc Hồi giáo Delhi và thậm chí còn truy đuổi kẻ thù. Vua Narasingha Deva I cho xây dựng Đền Mặt trời tại Konark để kỷ niệm những chiến thắng của mình đối với người Hồi giáo và nhiều ngôi đền, pháo đài khác. 
Vào thế kỷ 16, Đế quốc Mughal (Mughal Empire, năm 1526 – 1857) hình thành, chinh phục các vương quốc nhỏ, mở rộng lãnh thổ ra gần như toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần của Afghanistan với số dân vào giai đoạn cực thịnh lên đến 150 triệu người. Đế quốc Mughal đạt đến đỉnh cao vinh quang trong triều đại của Shah Jahan (trị vì năm 1628 đến 1658) và ông được coi là một trong những hoàng đế Mughal vĩ đại nhất. Trong giai đoạn này, kiến trúc Mughal đạt đến đỉnh cao với các công trinh nổi tiếng như: Taj Mahal và Moti Masjid tại Agra, Pháo đài Đỏ (Red Fort), Jama Masjid, Delhi và Pháo đài Lahore (Lahore Fort). 

Tiểu lục địa Ấn Độ dần bị Anh thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh từ giữa thế kỷ 19.
Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947, sau cuộc đấu tranh giành độc lập do Mahatma Gandhi (năm 1869 – 1948) lãnh đạo.
Ngày nay, Ấn Độ là một liên bang bao gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ thuộc liên bang. Dưới bang là các đơn vị hành chính: quận (huyện, khu); phân khu và làng xã.  


Bản đồ Ấn Độ và vị trí thành phố Bhopal, thủ phủ của bang Madhya Pradesh
 

Tại thị trấn Sanchi thuộc quận Raisen của bang Madhya Pradesh, Ấn Độ có một quần thể di tích Phật giáo, nằm cách thị trấn Raisen, trụ sở chính của quận khoảng 23 km và cách Bhopal, thủ phủ của bang Madhya Pradesh, 46 km về phía đông bắc.

Quần thể di tích Phật giáo ở Sanchi, nằm trên một gò đồi, trên cao nguyên rừng thanh bình và đẹp như tranh vẽ, được coi là một cái gì đó (Cetiyagiri) bất khả xâm phạm trong biên niên sử Phật giáo, nơi tu sĩ Mahindra (năm 270 TCN – 204 TCN), con trai của Hoàng đế Aśoka (trị vì năm 268 TCN – 232 TCN) cai trị Đế chế Mauryan (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN - 184 TCN), đã dừng chân trước khi tiến hành cuộc hành trình truyền giáo đến Sri Lanka (đảo quốc, tại phía nam Ấn Độ).
Tại đây lưu giữ các hộp chứa mảnh xương và đồ vật của Sariputra (Xá Lợi Phất/ Xá Lợi Tử, một nhà lãnh đạo tâm linh ở Ấn Độ cổ đại, năm 586 TCN– 484 TCN) và Maudgalyayana (Mục Kiền Liên, đệ tử chính của Đức Phật) ở Sanchi được Theravadins (Phật giáo Theravada/ Phật giáo Thượng tọa bộ, là một nhánh của Phật giáo Nguyên thủy) tôn kính và tiếp tục được tôn thờ cho đến ngày nay. 

Sự ra đời của Sanchi như một trung tâm linh thiêng là do hoàng đế Aśoka của Đế chế Mauryan thực hiện. Triều đại của ông vào thế kỷ thứ 3 TCN được coi là công cụ truyền bá Phật giáo khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Với việc xây dựng Trụ biểu tượng Aśoka (Aśoka Stambha) nguyên khối công phu, Hoàng đế Aśoka đã xác định Sanchi là một địa điểm có tầm quan trọng đặc biệt. 

Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi ngày nay là một loạt các di tích bắt đầu từ thời kỳ Đế chế Mauryan (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN - 184 TCN), tiếp tục với thời kỳ Đế chế Gupta (Gupta Empire, thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên) và kết thúc vào khoảng thế kỷ 12 sau Công nguyên. Đây có lẽ là nhóm di tích Phật giáo được bảo tồn tốt nhất ở Ấn Độ. Đồng thời, nhiều cấu trúc đền thờ khác nhau cũng được xây dựng, từ thời Đế chế Gupta trở về sau. 

Quần thể di tích Phật giáo Sanchi có nhiều bảo tháp (Stupa).
Bảo tháp là một cấu trúc giống như gò đất hoặc hình bán cầu chứa xá lợi (Śarīra, chỉ các thánh tích Phật giáo, các vật thể hình hạt giống như ngọc trai, được cho là được tìm thấy trong số tro hỏa táng của các bậc thầy tâm linh Phật giáo). Bảo tháp được sử dụng như một nơi thiền định, một thuật ngữ có liên quan đến Chaitya (chaitya hall, chaitya-griha) là một phòng cầu nguyện hoặc một ngôi đền có chứa một bảo tháp.
Trong Phật giáo, đi vòng xung quanh (circumambulation/ pradakhshina) các thực thể thiêng liêng theo chiều kim đồng hồ là một nghi lễ và thực hành sùng kính quan trọng kể từ thời sơ khai. Vì vậy, cấu trúc xây dựng của một  bảo tháp luôn có một lối đi (pradakhshina) xung quanh. 

Lâu đời nhất, lớn nhất tại Sanchi là Đại bảo tháp (Great Stupa, còn được gọi là Bảo tháp số 1) và là một di tích quan trọng của kiến trúc Ấn Độ ; được coi là một ví dụ không thể so sánh được về giai đoạn trưởng thành của các bảo tháp Ấn Độ.

Kể từ thời hoàng đế Aśokan, các đế chế hùng mạnh tiếp theo trị vì vùng này - chẳng hạn như các triều đại Sunga (Shunga Empire, tồn tại năm 184 TCN – 72 TCN), Kushana (Kushan Empire, tồn tại năm 30–375 sau Công nguyên), Kshatrapa (Western Kshatrapas, tồn tại năm 35–415 sau Công nguyên) và cuối cùng là Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên) - tiếp tục đóng góp vào việc mở rộng Sanchi với việc xây dựng các đền, chùa (temples), bảo tháp (stupas) nhỏ hơn (Bảo tháp 2 và 3) và nhiều tịnh xá (viharas).

Sanchi luôn là một trung tâm quan trọng của Phật giáo cho đến thế kỷ 13 sau Công nguyên. 

Các bảo tháp, đền chùa, tịnh xá và trụ biểu tượng (stambha) ở Quần thể di tích Phật giáo Sanchi là một trong những ví dụ lâu đời nhất và trưởng thành nhất về nghệ thuật biểu tượng và kiến ​​trúc độc lập, ghi lại toàn diện lịch sử của Phật giáo từ thế kỷ 3 TCN đến thế kỷ 12 sau Công nguyên.  

Đại bảo tháp và các di tích xung quanh được khảo sát và khai quật chính thức vào năm 1851. Từ năm 1912 – 1919, các cấu trúc di tích đã được khôi phục lại sau sự tàn phá của các kẻ săn tìm kho báu. Hộp chứa thánh tích tích xương (asthi avashingh) của hai bậc thầy Phật giáo (Sariputra/ Xá Lợi Tử và Maudgalyayana/ Mục Kiền Liên) cùng với một số di vật khác (mà các nhà thuộc địa Anh mang về Anh như một chiến tích cá nhân) đã được mang trở lại Sri Lanka vào năm 1947 và trả lại cho Ấn Độ vào năm 1952. Các Phật tích này đã được lưu giữ tại một ngôi chùa mới xây dựng Chetiyagiri Vihara. Sự kiện này được cho là đánh dấu sự tái lập chính thức truyền thống Phật giáo tại Ấn Độ. 

Di tích Phật giáo tại Sanchi chứa đựng sự tập trung đáng kể của các kỹ thuật nghệ thuật Ấn Độ thời kỳ đầu và nghệ thuật Phật giáo, được gọi là trường phái hoặc giai đoạn mang tính biểu tượng (Anionic). Các biểu tượng cho thấy sự tiến hóa trong kỹ thuật điêu khắc và sự công phu, đặc biệt là khắc họa Đức Phật. Những câu chuyện và sự kiện có ý nghĩa lịch sử và tôn giáo to lớn đã được làm sống động với các kỹ thuật chạm nổi và phù điêu đắp cao. Chất lượng của nghề thủ công, thể hiện qua các các gam màu tại các biểu tượng thực vật, động vật, con người và những câu chuyện về sự tích của Đức Phật (Jataka) cho thấy sự phát triển của nghệ thuật thông qua sự tích hợp truyền thống điêu khắc bản địa và phi bản địa. 


Hình ảnh trên cao tại Khu phức hợp di tích Phật giáo tại Sanchi, Madhya Pradesh, Ấn Độ
 


Chùa Chetiyagiri Vihara, lưu giữ nhiều Phật tích giá trị của Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Ấn Độ
 

Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Madhya Pradesh, Ấn Độ được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1989) với tiêu chí: 

Tiêu chí (i): Sự hoàn hảo về tỷ lệ và sự phong phú của các tác phẩm trang trí điêu khắc trên 4 cổng làm cho Đại bảo tháp số 1 trở thành một thành tựu nghệ thuật có một không hai, một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người. Nhóm các di tích Phật giáo tại Sanchi - bảo tháp, đền chùa và tu viện - là duy nhất ở Ấn Độ vì tuổi đời và chất lượng của nó. 

Tiêu chí (ii): Kể từ thời điểm đài tưởng niệm lâu đời nhất được dựng lên, cột Aśoka với đầu cột hình những con sư tử lấy cảm hứng từ nghệ thuật Achaemenid (Achaemenid Art, nghệ thuật Ba Tư hoặc Iran vào thời Đế chế Achaemenid, tồn tại năm 550 TCN – 330 TCN), Sanchi có vai trò là trung gian truyền bá các nền văn hóa và nghệ thuật trên khắp Đế chế Mauryan và sau đó là ở Ấn Độ vào thời các triều đại Sunga, Shatavahana, Kushan và Gupta. 

Tiêu chí (iii): Vẫn là trung tâm chính của Phật giáo cho đến đầu thời Trung cổ của Ấn Độ sau sự truyền bá của Ấn Độ giáo, Sanchi là một bằng chứng độc đáo về một thánh địa Phật giáo lớn trong giai đoạn từ thế kỷ 3 TCN  đến thế kỷ 1 sau Công nguyên. 

Tiêu chí (iv): Bảo tháp tại Sanchi, đặc biệt là Bảo tháp 1 và Bảo tháp 3, là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoàn thiện nhất của loại hình di tích này: Bảo tháp có mái vòm hình bán cầu (anda), trên cùng là một khối lan can bằng đá (harmika), được xây dựng trên một sân thượng hình tròn (medhi); Có một hoặc hai hành lang bao quanh cho tín đồ sử dụng (pradakshina patha); Một số cấu trúc của bảo tháp được chuyển đổi từ cấu trúc bằng gỗ sang đá như lan can (vedika) và cổng (torana); Bảo tháp được bao phủ bởi một lớp bên đá bên ngoài cho thấy việc tiếp tục sử dụng các hình thức nguyên thủy của cấu trúc đền thờ tạc vào trong đá; Toàn bộ bảo tháp được bao quanh bởi một hàng rào. 

Tiêu chí (vi): Sanchi là một trong những thánh địa Phật giáo lâu đời nhất còn tồn tại. Mặc dù Đức Phật chưa bao giờ đến thăm địa điểm này trong bất kỳ cuộc sống nào trước đây hoặc trong thời gian tồn tại trên trần thế của mình, nhưng bản chất tôn giáo của thánh địa này là hiển nhiên. Phòng chứa xá lợi của Bảo tháp 3 chứa hài cốt của Sariputra (Xá Lợi Tử, năm 586 TCN – 484 TCN), một đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đã chết trước sư phụ của ông 6 tháng; Ngài đặc biệt được tôn kính bởi những người theo giáo phái Tiểu thừa (Hinayana, tồn tại ở Sri Lanka và lan truyền đến các khu vực khác tại Đông Nam Á). 


Phạm vi Di sản Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi,
Ấn Độ   


Sơ đồ vị trí các di tích chính tại Quần thể di tích Phật giáo Sanchi, Ấn Độ ; được đánh số từ 1 đến 50
 

Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Ấn Độ nằm trong một bức tường đá bao quanh. Chỉ có di tích Bảo tháp số 2 nằm bên ngoài bức tường. Các hạng mục chính trong Khu vực Di sản gồm : 

Đại bảo tháp số 1
Đại bảo tháp số 1 là một phức hợp có nhiều di tích :

Đại bảo tháp số 1
Đại bảo tháp số 1 (Great Stupa No 1; hình vẽ ký hiệu 1) nằm tại phía tây Khu vực Di sản. Công trình được xây dựng bởi Ashoka Đại đế (Ashoka the Great, trị vì năm 268- 232 TCN) của Đế chế Mauryan (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN - 184 TCN).
Hạt nhân của Đại bảo tháp là một cấu trúc hình bán cầu đơn giản, như chiếc mũ che nắng (Chhatra, là một biểu tượng tốt lành trong Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo và Phật giáo), nhằm mục đích tôn vinh và bảo vệ các thánh tích. Đại bảo tháp ban đầu chỉ có đường kính bằng một nửa so với bảo tháp ngày nay, được bao phủ bởi gạch. 
Vào thời kỳ Đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại năm 185 TCN – 73 TCN), Đại bảo tháp được mở rộng gần gấp đôi kích thước ban đầu, ốp đá, bổ sung cổng, lan can và là hình dạng của Đại bảo tháp ngày nay.
Các thời kỳ tiếp theo, từ Satavahana (Satavahana Dynasty, tồn tại cuối thế kỷ 2 TCN – đầu thế kỷ 3 sau Công nguyên) đến Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên) - tiếp tục đóng góp vào việc hoàn thiện Đại bảo tháp. Lần bổ sung cuối cùng cho Đại bảo tháp là trong triều đại Gupta (thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên), khi 4 điện thờ với tượng Phật ngồi được thêm vào phía trước 4 cổng. 
Đại bảo tháp ngày nay là một mái vòm hình bán cầu (anda), đường kính 36,6 m, cao 16,46 m, nằm trên một bệ nền với một buồng chứa thánh tích nằm sâu bên trong. Mái vòm được bao phủ bởi một lớp đá veneer (đá mỏng tự nhiên).
Trên đỉnh mái vòm có một lan can hình vuông (harmika) bằng đá, tượng trưng cho ngọn núi thế giới, bao quanh một trụ trung tâm (yashti) tượng trưng cho trục vũ trụ. Trụ nâng đỡ một cấu trúc hình tượng 3 cái ô chồng lên nhau (chhatra), đại diện cho Tam bảo của Phật giáo là Phật pháp (Buddha), Giáo pháp (Dharma /Doctrine) và Tăng đoàn (Sangha / Community).
Bảo tháp đặt trên một sân thượng hình tròn (medhi), được bao bọc bởi lan can trang trí công phu bao quanh, để các tín đồ đi vòng quanh theo chiều kim đồng hồ.
Toàn bộ Đại bảo tháp số 1 được bao bọc bởi một bức tường thấp (vedika), đánh dấu ở 4 điểm chính bằng 4 Cổng nghi lễ (toranas). Mỗi cổng vào đều có một bức tượng Phật ngồi, đặt sát cạnh chân Đại bảo tháp. Các Cổng nghi lễ của Đại bảo tháp là thành tựu đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Sanchi
Bảo tháp 1 có một số lượng lớn các bản khắc bằng chữ Brahmi (Brahmi Script, là một hệ thống chữ viết của Nam Á cổ đại, xuất hiện như một hệ thống chữ viết phát triển hoàn chỉnh vào thế kỷ 3 TCN. Hậu duệ của nó, chữ viết Brahmic, tiếp tục được sử dụng ngày nay trên khắp Nam và Đông Nam Á). Mặc dù các chữ này nhỏ và đề cập đến các khoản quyên góp, song có ý nghĩa lịch sử to lớn trong việc giải mã các văn tự Brahmi. 


Phối cảnh tổng thể Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ


Phối cảnh nhìn từ phía tây Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ


Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ




Sơ đồ cấu trúc Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ


Lối vào tại cổng phía đông với tượng Phật thờ, Đại bảo tháp số 1, 
Sanchi, Ấn Độ


Lan can và cầu thang đá tại Đại bảo tháp số 1, 
Sanchi, Ấn Độ

Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1
Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1 (Stupa 1 Southern Gateway) được cho là lâu đời nhất và là lối vào chính của bảo tháp. 
Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1 (cũng như các cổng khác) thuộc loại cổng Torana (còn được gọi là Vandanamalikas).

Toran là một dạng cổng vòm hoặc cổng trang trí, đứng độc lập, dành cho các mục đích nghi lễ được thấy trong kiến trúc Ấn Độ giáo, Phật giáo và Jain giáo ở tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và một số vùng của Đông Á. Người ta cho rằng, Cổng Shanmen (Sơn Môn, cổng chính của một ngôi chùa thường dựng trên núi) của Trung Quốc; Cổng Torii (cổng chính tại lối vào hoặc bên trong một ngôi đền Thần đạo, biểu tượng đánh dấu cho sự chuyển đổi từ trần tục sang linh thiêng) của Nhật Bản; Cổng Iljumun (cổng đầu tiên tại lối vào ngôi chùa) của Triều Tiên, cổng Tam quan của Việt Nam và Sao Chingcha (Giant Swing, như một xích đu khổng lồ) của Thái Lan có thể bắt nguồn từ cổng Torana của Ấn Độ.
 

Mặc dù được làm bằng đá, các cổng Torana của Đại Bảo tháp số 1 được chạm khắc và xây dựng theo cách thức bằng gỗ và được bao phủ bởi những tác phẩm điêu khắc tinh xảo, được cho làm bởi các nghệ nhân chạm khắc ngà voi tại Vidisha.
 
Mỗi cổng được tạo thành từ hai trụ hình vuông. Trên đỉnh trụ là những khối điêu khắc về con vật hoặc những chú lùn, được nối với nhau bởi 3 dầm ngang (architraves).
Tất cả bề mặt cổng, trụ và dầm ngang, được bao phủ bởi các điêu khắc mô tả các sự kiện trong cuộc đời của Đức Phật, các câu chuyện Jataka (tiền kiếp của Đức Phật), cảnh của Phật giáo thời kỳ đầu và các biểu tượng tốt lành. Tên của những người hiến tặng cũng được khắc trên đó.

Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1 là một trong hai cổng được xây dựng lại vào năm 1882–1883. 


Phối cảnh Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ


Trang trí phía trên Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ


Chi tiết trang trí mặt dầm phía nam tại Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ ; miêu tả Vua Ashoka (phải) đến Bảo tháp Ramagrama (giữa), để rước xá lợi của Đức Phật    

Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1
Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1 (Stupa 1 Northern Gateway) là cổng được bảo tồn tốt nhất trong số các cổng của Đại bảo tháp số 1 và là cổng thứ hai được phục dựng lại vào năm 1882–1883.
Trên bề mặt cổng có các bức phù điêu kể lại những sự kiện khác nhau trong cuộc đời của Đức Phật, đặc biệt là phép màu hay phép lạ của Đức Phật. Các bức phù điêu nghệ thuật này (theo một khái niệm gọi là Aniconism) không miêu tả trực tiếp Đức Phật mà chỉ miêu tả những biểu tượng có liên quan như: Chỗ ngồi, cây bồ đề, dấu chân, bánh xe pháp luân... Tuy nhiên, những người khác và môi trường xung quanh biểu tượng được miêu tả rất nhiều và chi tiết. 
Trên bề mặt cổng còn có bức phù điêu miêu tả người nước ngoài, trong trang phục Hy Lạp chơi nhạc, trong đó có kèn (carnyxes) và sáo đôi (aolus). 
Giống như các cổng khác, Cổng phía bắc bao gồm hai cột trụ vuông được ghép lại bởi các khối đầu cột đỡ 3 dầm ngang với hai đầu uốn cong. 


Phối cảnh Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ


Trang trí phần trên Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ


Chi tiết trang trí mặt dầm tại Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ


Chi tiết miêu tả Đức Phật lên trời, song không có hình ảnh Ngài mà chỉ miêu tả con đường lên trời – phiến đá nằm ngang ; Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ


Chi tiết miêu tả tín đồ và nhạc sĩ nước ngoài ; Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ
  

Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1
Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1 (Stupa 1 Eastern Gateway) là một trong 4 cổng bao quanh Đại Bảo tháp số 1.
Giống như các cổng khác, Cổng phía đông bao gồm hai cột trụ vuông được ghép lại bởi các khối đầu cột và 3 dầm ngang với hai đầu uốn cong. Trên bề mặt của cổng có các bức chạm khắc miêu tả sự tích về Đức Phật ; các vị thần thánh, chuyến viếng thăm của hoàng gia Ashoka đến cây bồ đề, nơi Đức Phật đã đắc đạo…  


Phối cảnh Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ


Trang trí phần trên Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ


Điêu khắc miêu tả một nữ thần (Salabjanjika, liên quan đến sinh sản) trên một góc Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ
 

Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1
Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1 (Stupa 1 Western Gateway) là một trong 4 cổng xung quanh Đai bảo tháp số 1.
Tương tự
như các cổng khác, Cổng phía tây bao gồm hai cột trụ vuông. Trên mỗi đỉnh cột là một khối trang trí gồm 4 vị thần Dạ xoa (Yaksha) đứng và đỡ 3 dầm ngang với đầu dầm được làm cong. Bề mặt của dầm được chạm khắc tinh xảo. 


Phối cảnh Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1,
Sanchi, Ấn Độ


Đầu cột với các vị thần Dạ xoa
; Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ


Trang trí bề mặt dầm ngang tại Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ; 
Cảnh người Mallas mang xá lợi Đức Phật đến Kushinagara. Nhà vua, ngồi trên một con voi, giữ xá lợi trên đầu


Trang trí bề mặt trụ Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1, Sanchi Ấn Độ; Cảnh cuộc sống thường nhật 
 

Trụ cột Ashoka
Trụ cột Ashoka (Ashoka Pillar) là một loại cột đá sa thạnh nguyên khối nằm rải rác khắp tiểu lục địa Ấn Độ, được dựng lên theo các sắc lệnh của Hoàng đế Ashoka Mauryan trong thời gian trị vì của ông từ năm 268 đến 232 TCN. Những cột trụ này tạo nên những di tích quan trọng của kiến ​​trúc Ấn Độ, hầu hết chúng đều thể hiện nét đặc trưng của người Mauryan
Tất cả các trụ cột của Ashoka đều được xây dựng tại các tu viện Phật giáo, nhiều địa điểm quan trọng từ cuộc đời của Đức Phật và những nơi hành hương. 
Cột có chiều cao trung bình từ 12 đến 15 m và nặng tới 50 tấn mỗi cây. Các trụ cột được vận chuyển hàng trăm km từ các mỏ đá đến vị trí để dựng lên.
Trong số những trụ cột do Hoàng đế Ashoka dựng lên, có tới 20 trụ cột vẫn tồn tại, bao gồm cả những trụ cột có khắc các sắc lệnh của ông. 
Một hình ảnh đại diện cho đầu cột hình sư tử thời Ashoka đã được sử dụng làm Quốc huy chính thức của Ấn Độ vào năm 1950. 
Các Trụ cột Ashoka đều được đánh bóng tinh xảo, thành một đặc trưng của kỹ thuật tạc tượng thời Mauryan (Mauryan polish). Kỹ thuật đánh bóng trên mặt đá sa thạch có mặt tại các hang động (tạc vào đá), trụ cột biểu tượng và trên bề mặt tượng.
Người ta tin rằng kỹ thuật đánh bóng đá mà người Mauryas sử dụng có thể bắt nguồn từ kỹ thuật điêu khắc thời Đế chế Achaemenid (Achaemenid Empire / Đế chế Ba Tư, tồn tại năm 550 TCN – 330 TCN). Kỹ thuật đánh bóng đá sa thạch đã lan sang Ấn Độ cùng với sự nhập cư của các nghệ sĩ và kỹ thuật viên người người Ba Tư và Ba Tư-Hy Lạp. 
Sau thời kỳ Đế chế Mauryan, xu hướng điêu khắc chung là từ bỏ hoàn toàn kỹ thuật đánh bóng. Điều này có thể là do chi phí đánh bóng cao. Sự kết thúc của thời kỳ Mauryan cũng đánh dấu kết thúc xu hướng bảo trợ của chính quyền đối với nghệ thuật, mà sau đó có chỉ còn được tài trợ bởi người dân hoặc tầng lớp thương gia giàu có. 
Các Trụ cột Ashoka thường chia thành hai phần : Đầu trụ và thân trụ.
Thân trụ được tạo bởi đá nguyên khối, mặt cắt ngang hình tròn, hơi thuôn nhỏ lên trên và luôn được đánh bóng. Thân trụ không có bệ đỡ. 
Đầu trụ được tạo bởi đá nguyên khối, gắn với trụ cột bằng một chốt kim loại lớn. Đầu trụ chia thành 3 phần: Phần dưới của đầu trụ có dạng như hình chiếc chuông hay hình cánh sen; Phần tấm đầu trụ (Abaci/ Abacus) dạng vuông hoặc tròn với tỷ lệ khác nhau. Tấm có chiều cao dày, được trang trí xung quanh; Phần trên tấm đầu trụ đặt những con vật đội vương miện, ngồi hoặc đứng, luôn ở dạng khối tròn và được chế tác cùng với tấm đầu trụ. 

Trụ cột Ashoka tại Sanchi dựng bên cạnh Cổng phía nam Đại bảo tháp số 1. Khi còn nguyên vẹn, cột có chiều cao khoảng 12m. Đá sa thạch làm trụ được chuyển đến từ mỏ đá ở Chunar cách đó vài trăm dặm, bằng phương tiện giao thông thủy.
Phần thân trụ vẫn còn lại một phần. Các phần của đầu trụ được lưu giữ tại Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi (Sanchi Archaeological Museum) gần đó. 
Phần dưới của đầu trụ hình quả chuông, đỡ tấm đầu trụ hình tròn, xung quanh viền có trang trí. Trên tấm đầu trụ là hình tượng 4 con sư tử (có thể phía trên cùng là biểu tượng bánh xe Pháp Luân hay Luân Xa). Những con sư tử đá này là minh chứng cho tay nghề điêu luyện của các nghệ nhân Sanchi.
Trên bề mặt thân trụ được đánh bóng có các dòng chữ, gọi là Sắc lệnh Ashokan (Edicts of Ashoka, là một bộ sưu tập của hơn 30 bộ chữ khắc trên các cột trụ, tảng đá và tường hang động, được cho là của Hoàng đế Ashoka của Đế chế Mauryan). Ngoài ra, tại đây còn có các dòng chữ Sankha Lipi trang trí từ thời Gupta.  


Tàn tích một phần thân Trụ cột Ashokan bằng đá mài nhẵn, bố trí bên phải cổng phía Nam Đại bảo tháp, Sanchi, Ấn Độ


Dòng chữ sắc lệnh Ashokan trên bề mặt Trụ cột Ashokan, Sanchi, Ấn Độ


Một phần đầu trụ, lưu giữ tại Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi, Ấn Độ.
  

Bảo tháp số 2
Bảo tháp số 2 (Stupa No. 2) nằm bên ngoài khu phức hợp chính của Sanchi, khoảng 300 mét về phía tây, trên sườn đồi Sanchi. Bảo tháp số 2 nằm ở vị trí thấp hơn Đại bảo tháp số 1, được cho là do chỉ chứa xá lợi của những vị chức sắc Phật giáo có vị trí thấp.
Bảo tháp được dựng dưới thời Đế chế Shungas (Shunga Empire, tồn tại năm 185 TCN – 73 TCN) và Đế chế Satavahanas (Satavahana Dynasty, tồn tại cuối thế kỷ 2 TCN – đầu thế kỷ 3 sau Công nguyên).
Bảo tháp số 2 được thành lập muộn hơn Đại bảo tháp số 1, nhưng được quan tâm đặc biệt vì có những bức phù điêu trang trí quan trọng, sớm nhất ở Ấn Độ, được coi là nơi sinh của các bức tranh minh họa cho truyện Jataka (Jataka tales, là một bộ văn học đồ sộ có nguồn gốc Ấn Độ có nội dung liên quan đến các kiếp đời của Đức Phật ở cả dạng người và động vật).
Tại đây có những chạm khắc hình tròn như các huy chương, khoảng 455 cái, đa phần miêu tả hoa sen.
Bên trong Bảo tháp chứa các quan tài nhỏ bằng đá đựng xương cốt các vị thánh.
Ngoài ra, trên bề mặt quan tài và lan can của Bảo tháp số 2 có những chữ khắc bằng văn tự Brahmi (hệ thống chữ viết của Nam Á cổ đại, phát triển hoàn chỉnh vào thế kỷ 3 TCN), theo phong cách tương tự như Bảo tháp Bharhut (Bharhut stupa, tồn tại năm 300–200 TCN) tại bang Madhya Pradesh, Ấn Độ, cùng là một trong những ví dụ sớm nhất của Nghệ thuật Ấn Độ và Phật giáo. 


Phối cảnh Bảo tháp 2,
Sanchi, Ấn Độ


Mặt bằng, mặt đứng và di vật quan tài đá tìm thấy trong Bảo tháp 2, Sanchi, Ấn Độ. Trên bề mặt quan tài có các hàng chữ Brahmi


Trang trí trên lan can tại Bảo tháp 2, Sanchi, Ấn Độ


Chạm khắc hình tròn thể hiện người đàn ông cưỡi nhân mã, Bảo tháp 2,
Sanchi, Ấn Độ


Chạm khắc hình tròn thể hiện hoa sen, Bảo tháp 2,
Sanchi, Ấn Độ 

Bảo tháp số 3
Bảo tháp số 3 (Stupa No. 3) được xây dựng tại phía bắc Đại bảo tháp (số 1), dưới thời Đế chế Shungas (Shunga Empire, tồn tại năm 185 TCN – 73 TCN) và Đế chế Satavahanas (Satavahana Dynasty, tồn tại cuối thế kỷ 2 TCN – đầu thế kỷ 3 sau Công nguyên).
Bảo tháp cũng có lan can xung quanh.
Bên trong Bảo tháp đặt các hộp bằng đá đựng xá lợi của Sariputra (Xá Lợi Tử) và Maudgalyayana (Mục Kiền Liên).
Phù điêu trên lan can bảo tháp được cho xuất hiện muộn hơn so với phù điêu của Bảo tháp số 2.
Bảo tháp có một cổng duy nhất tại phía nam, được xây dựng dưới thời Satavahanas (Satavahana Dynasty, tồn tại thế kỷ 2 TCN – thế kỷ 3 sau Công nguyên), vào khoảng năm 50 TCN. 


Phối cảnh Bảo tháp số 3, Sanchi, Ấn Độ


Mặt bằng, mặt đứng và di vật quan tài chứa xá lợi của Sariputra và Maudgalyayana
 


Trang trí trên lan can tại Bảo tháp 3, Sanchi, Ấn Độ

Các di tích khác 

Chùa số 17
Chùa 17 (Temple 17) là một ngôi ngôi đền độc lập ban đầu, tiếp sau thế hệ những ngôi đền hang động cắt vào đá của kiến trúc Ấn Độ (Indian rock-cut architecture). Ngôi chùa được xây dựng thời Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên).
Chúa số 17 nằm tại phía nam Đại bảo tháp số 1, gồm một thánh đường hình vuông, mái bằng với một hàng hiên và 4 cột trụ. 4 cột mang phong cách truyền thống. Đế cột có tiết diện hình vuông. Thân cột có tiết diện hình bát giác. Đầu cột là một khối hình chuông đỡ một tấm hình vuông lớn, bên trên cùng là khối trang trí hình các con sư tử. 


Phối cảnh Chùa số 17, Sanchi, Ấn Độ
 

Chùa số 18
Chùa số 18 (Temple 18) nằm bên cạnh Chùa số 17. Công trình được xây dựng vào thời của Hoàng đế Ấn Độ Harsha (cai trị năm 606- 647 sau Công nguyên).
Sảnh của Chùa có mái vòm dạng bán cầu (apse) thời Maurya (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN – 184 TCN).
Chùa có mặt bằng hình chữ nhật, một đầu dạng bán tròn.
Bên trong Chùa có hàng 14 cột đỡ mái nhà dạng vòm thùng. Cột có hình thức đơn giản. Cuối của Chùa là một không gian dạng bán vòm. Bên trong Chùa có một bảo tháp (chaitya -hall). 
Công trình hiện chỉ còn lại tàn tích cột. 


Tàn tích các hàng cột bên trong Chùa số 18,
Sanchi, Ấn Độ  

Trụ cột Sunga - Cột số 25
Trụ cột Sunga (Sunga Pilar) hay Cột số 25 được dựng vào thời Đế chế Sungas (Shunga Empire, tồn tại năm 184 TCN – 72 TCN). Cột có chiều cao 4,57m, đường kính ở chân 0,32m. Từ chiều cao 1,2m, cột trụ có tiết diện hình bát giác, tiếp đó là 16 mặt. Trên đỉnh cột có phần mộng để liên kết với phần đầu cột.
Đầu cột hình chuông thông thường. Bên trên là một tấm đỡ hình vuông. Trên tấm đỡ có thể là một con sư tử, hiện đã không còn. 


Tàn tích cột Sunga – Cột số 25, Sanchi, Ấn Độ
 

Trụ cột Sư tử - Cột số 26
Trụ cột Sư tử (Lion pillar) hay Cột số 26 nằm tại phía bắc của Trụ cột 25, được xây dựng vào thời kỳ đầu của Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên). Ngoài hình dáng bên ngoài, Trụ cột được phân biệt với các trụ cột khác trên địa điểm bởi chất lượng đá cứng hơn và màu sắc với vệt vàng nhạt kết hợp tím thạch anh. Tại Sanchi, loại đá đặc biệt này chỉ được sử dụng trong các di tích của thời kỳ Gupta. 
Trụ cột số 26 có chiều cao khoảng 6,7m và chỉ bao gồm hai phần : Phần dưới là đế trụ hình vuông kích thước 0,3m x 0,3m và cột tròn ; Phần trên là đầu cột với khối hình chuông, tấm bệ đầu cột, tượng 4 sư tử đỡ vương miện hình Luân xa. Trên bề mặt của đế trụ còn lưu giữ các ký tự Gupta ghi lại công tích của gia chủ cúng tiến Trụ cột. 


Tàn tích đầu cột của Trụ cột số 26, Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi, Ấn Độ
 

Trụ cột số 35
Trụ cột số 35 (Pillar 35) nằm gần Cổng bắc của Đại bảo tháp số 1, được dựng lên trong thời kỳ của Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên).  
Hầu hết trụ cột đã bị phá hủy, chỉ còn bệ cột. Tàn tích phần đầu cột được bảo quản tốt. Kề liền tàn tích cột có một bức tượng, được cho thuộc về Trụ cột số 35, thể hiện một vị bồ tát Vajrapani trong Phật giáo Đại thừa. Tượng được đặt trên đỉnh Trụ cột. Bức tượng hiện nằm trong Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi. 


Tàn tích Trụ cột số 35, Sanchi, Ấn Độ


Bức tượng Vajrapani, Trụ cột 35, Sanchi, Ấn Độ ; Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi
 

Chùa số 40
Chùa số 40 (Sanchi Temple 40) nằm tại phía nam Khu vực Di sản. Chùa có dấu tích của 3 thời kỳ khác nhau. Sớm nhất có niên đại thời kỳ Đế chế Mauryan (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN - 184 TCN), có lẽ cùng thời với việc tạo ra Đại bảo tháp số 1.
Ngôi chùa ban đầu được xây dựng trên một bệ đá hình chữ nhật 26,5m × 14m, cao 3,3m, với hai bậc thang ở phía đông và phía tây. Ngôi chùa bằng gỗ này bị thiêu rụi vào khoảng thế kỷ thứ 2 TCN.
Chùa đã được xây dựng lại vào thế kỷ 2 TCN. Bệ nền được mở rộng lên 41,8m × 27,7m. Bên trên là một ngôi chùa có hàng cột bao xung quanh. Các hàng cột hiện chỉ còn lại một số đoạn thân cột.
Vào thế kỷ thứ 7 hoặc thứ 8, một ngôi đền nhỏ được thành lập ở một góc của quần thể chùa, sử dụng lại một số cột của ngôi chùa xưa. 


Tàn tích Chùa số 40,
Sanchi, Ấn Độ


Sơ đồ mô phỏng Chùa số 40,
Sanchi, Ấn Độ, được xây dựng bằng gỗ thời kỳ đầu 

Chùa số 45
Chùa số 45 (Temple 45) nằm tại rìa phía đông Khu vực Di sản.
Sau sự tàn phá vương quốc Gupta của người Alchon Huns (một dân tộc du mục đã thành lập các quốc gia tại Trung Á và Nam Á vào thế kỷ 4 – 6, góp phần làm sụp đổ Đế chế Gupta, kết thúc thời Ấn Độ Cổ điển) và với sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ, sáng tạo nghệ thuật Phật giáo ở Sanchi chậm lại. Tại Sanchi, một số di tích đã không còn được sử dụng và rơi vào tình trạng hư hỏng.
Chùa số 45 là ngôi chùa Phật giáo cuối cùng được xây dựng từ giữa thế kỷ thứ 9 - thế kỷ 10.
Chùa số 45 bị hỏa hoạn, hiện chỉ còn lại tàn tích móng và tường.
Công trình có mặt bằng hình vuông, hướng về phía tây. 4 phía là 4 dãy phòng nhỏ. Bên trong Chùa có một điện thờ (garbha-griha).
Các tác phẩm điêu khắc trên lối vào cửa ra vào rất phong phú và công phu. 
Trong ngách phía đông của chùa vẫn còn lại tàn tích một bức tượng Đức Phật ngồi thiền định trên một tòa sen. 


Tàn tích Chùa số 45,
Sanchi, Ấn Độ


Tàn tích bức tượng Phật bên trong Chùa
số 45, Sanchi, Ấn Độ

Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi (Bảo tháp Sanchi), Madhya Pradesh, Ấn Độ là một trong những nhóm di tích Phật giáo được bảo tồn tốt nhất ở Ấn Độ, thể hiện tầm quan trọng đặc biệt đối với di sản văn hóa Ấn Độ. Quần thể là một minh chứng về sự phát triển của nghệ thuật và kiến ​​trúc Phật giáo Cổ đại Ấn Độ, từ giai đoạn đầu của Phật giáo cho đến khi suy tàn của tôn giáo này ở tiểu lục địa Ấn Độ.  

Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/524/
https://en.wikipedia.org/wiki/India
https://en.wikipedia.org/wiki/Sanchi
https://en.wikipedia.org/wiki/Stupa
https://en.wikipedia.org/wiki/Brahmi_script
https://en.wikipedia.org/wiki/Pillars_of_Ashoka
https://en.wikipedia.org/wiki/Mauryan_polish
https://en.wikipedia.org/wiki/Sanchi_Stupa_No._2
https://www.indianetzone.com/61/temple_45_at_sanchi.htm

Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương     

Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu

Danh sách và bài viết  về Di sản thế giới tại châu Mỹ           

Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi



 

Cập nhật ( 24/10/2022 )
 
Tin mới đưa:
“ Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận.”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com