Thông tin chung:
Công trình: Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Ấn Độ (Buddhist Monuments at Sanchi)
Địa điểm: Bang Madhya Pradesh, Ấn Độ (N23 28 45,984 E77 44 22,992)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Hình thành: Thế kỷ thứ 3 TCN
Giá trị: Di sản thế giới (1989); hạng mục i ; ii ; iii ; iv ; vi
Ấn Độ (India) là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích 3.287.263 km3 (đứng thứ 7 trên thế giới); dân số khoảng 1376 triệu người (năm 2022).
Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương tại phía Nam, biển Ả Rập phía Tây Nam, vịnh Bengal phía Đông Nam, giáp Pakistan ở phía Tây; với Trung Quốc, Nepal, Bhutan ở phía Đông Bắc; Myanmar và Bangladesh ở phía Đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilisation) thời Cổ đại, có các tuyến đường buôn bán mang tính lịch sử cùng với những đế quốc rộng lớn, giàu có về thương mại và văn hóa.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), tại đây đã xuất hiện các đô thị lớn với số dân hàng vạn người, được quy hoạch với hệ thống thoát nước, cấp nước phức tạp, nhà gạch nung, các kỹ thuật mới trong hoạt động thủ công mỹ nghệ và luyện kim…
Sự phân tầng xã hội, dựa trên đẳng cấp, xuất hiện trong thiên niên kỷ thứ 1 TCN. Sự tập quyền chính trị sớm nhất diễn ra dưới thời Đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 322 - 187 TCN); Đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại trong giai đoạn 187- 78 TCN) và Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 319 đến 550 sau Công nguyên).
Các vương quốc trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 3 TCN đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên tại Tiểu lục địa Ấn Độ (Middle kingdoms of India) có ảnh hưởng to lớn đến nền văn hóa của khu vực xung quanh, lan truyền đến tận Đông Nam Á.
Đây cũng là nơi bắt nguồn của 4 tôn giáo nội sinh lớn:
Ấn Độ giáo (Hinduism) là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, xuất phát từ khu vực Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), là sự hợp nhất hay đồng bộ hóa các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và không có người sáng lập; hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, sau khi kết thúc thời kỳ Vệ Đà (Vedic period, năm 1500 – 500 TCN), phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ giáo bao gồm các nhóm tôn giáo khác biệt nhau về triết lý, song được liên kết bởi các khái niệm chung, các nghi thức, vũ trụ học, tài nguyên văn bản Hindu (luận về thần học, triết lý, thần thoại, kinh Vệ Đà, Yoga, nghi lễ, cách thức xây dựng đền thờ) và tập tục hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Bốn giáo phái lớn nhất của Ấn Độ giáo là Vaishnavism, Shaivism, Shaktism và Smartism.
Phật giáo (Buddhism) do Đức Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama/ Tất đạt đa Cồ đàm, năm 624 TCN – 544 TCN ; hoặc năm 563 TCN – 483 TCN) sáng lập. Sau này, Phật giáo phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa); Phật giáo Đại thừa (Bắc tông, Đại chúng); Phật giáo Chân ngôn (Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa).
Jaina giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo lâu đời trên thế giới, do Đức Mahavir (năm 599 trước TCN – 527 TCN) sáng lập ra tại Bắc Ấn Độ, gần như là cùng thời với Phật giáo, với triết lý và phương thức thực hành dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn.
Sikh giáo (Sikhism) do Đức Guru Nanak (năm 1469 - 1539) sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, giữa Pakistan và Ấn Độ.
Ngoài ra, tại đây còn xuất hiện các tôn giáo ngoại nhập như: Do Thái giáo (Judaism), Bái Hỏa giáo (là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islamic). Các tôn giáo này được truyền đến Ấn Độ vào thiên niên kỷ thứ 1 sau Công nguyên, bổ sung vào văn hóa đa dạng của khu vực.
Vào thời Trung cổ, phần lớn miền Bắc Ấn Độ thuộc Vương quốc Hồi giáo Delhi (Delhi Sultanate), kéo dài trong khoảng 320 năm (1206- 1526). Trong giai đoạn này, sự kết hợp giữa văn minh Ấn Độ với văn minh Hồi giáo, sự hội nhập giữa tiểu lục địa Ấn Độ với vùng lục địa Phi – Á – Âu (Afro-Eurasia) đã có một tác động to lớn lên văn hóa và xã hội Ấn Độ. Khi Delhi thành thủ đô Hồi giáo vào năm 1193, tại đây đã hình thành được nền kiến trúc Hồi giáo - Ấn Độ (Indo-Islamic architecture, nguồn gốc từ Iran), đạt được sự tăng trưởng dân số và kinh tế cùng với việc xuất hiện ngôn ngữ Hindi-Urdu (Hindustani language). Vương quốc Hồi giáo Delhi cũng có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi các cuộc xâm lăng của Đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ 13, 14.
Vào thời Trung cổ, miền Nam Ấn Độ phân thành nhiều vương quốc nhỏ, ví dụ như:
Vương quốc Vijayanagara (Vijayanagara Empire): nằm trên Cao nguyên Deccan (Deccan Plateau), miền nam Ấn Độ, kinh đô là thành phố Vijayanagara (bang Karnataka hiện tại). Triều đại này được thành lập năm 1336, kéo dài đến năm 1646. Vijayanagara đã trở thành một thành trì của Ấn Độ giáo trong giai đoạn người Hồi giáo làm bá chủ ở miền bắc Ấn Độ, nổi tiếng vì bảo trợ cho việc học chữ Phạn. Đây là vương quốc giàu có nhờ buôn bán gia vị và sản xuất hàng dệt vải bông.
Vương quốc Đông Ganga (Eastern Ganga dynasty): thuộc vùng Kalinga (bao gồm cả bang Odisha hiện tại) là khu vực ven biển phía Đông, giữa sông Mahanadi và sông Godavari với kinh đô là Dantapura, sau đó được chuyển đến Kalinganagara (Mukhalingam) và cuối cùng đến Kataka (Cuttack). Triều đại này tồn tại vào thế kỷ 11- đầu thế kỷ 15, được đánh giá là vương triều bảo trợ tuyệt vời cho tôn giáo và nghệ thuật. Nhiều ngôi đền của thời kỳ Đông Ganga được xếp hạng là những kiệt tác của kiến trúc Ấn Độ giáo. Người cai trị đáng chú ý của triều đại Đông Ganga là vua Narasingha Deva I, giai đoạn năm 1238-1264. Ông là một chiến binh mạnh mẽ, đã tổ chức đánh bại nhiều đợt tấn công của Vương quốc Hồi giáo Delhi và thậm chí còn truy đuổi kẻ thù. Vua Narasingha Deva I cho xây dựng Đền Mặt trời tại Konark để kỷ niệm những chiến thắng của mình đối với người Hồi giáo và nhiều ngôi đền, pháo đài khác.
Vào thế kỷ 16, Đế quốc Mughal (Mughal Empire, năm 1526 – 1857) hình thành, chinh phục các vương quốc nhỏ, mở rộng lãnh thổ ra gần như toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần của Afghanistan với số dân vào giai đoạn cực thịnh lên đến 150 triệu người. Đế quốc Mughal đạt đến đỉnh cao vinh quang trong triều đại của Shah Jahan (trị vì năm 1628 đến 1658) và ông được coi là một trong những hoàng đế Mughal vĩ đại nhất. Trong giai đoạn này, kiến trúc Mughal đạt đến đỉnh cao với các công trinh nổi tiếng như: Taj Mahal và Moti Masjid tại Agra, Pháo đài Đỏ (Red Fort), Jama Masjid, Delhi và Pháo đài Lahore (Lahore Fort).
Tiểu lục địa Ấn Độ dần bị Anh thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh từ giữa thế kỷ 19.
Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947, sau cuộc đấu tranh giành độc lập do Mahatma Gandhi (năm 1869 – 1948) lãnh đạo.
Ngày nay, Ấn Độ là một liên bang bao gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ thuộc liên bang. Dưới bang là các đơn vị hành chính: quận (huyện, khu); phân khu và làng xã.

Bản đồ Ấn Độ và vị trí thành phố Bhopal, thủ phủ của bang Madhya Pradesh
Tại thị trấn Sanchi thuộc quận Raisen của bang Madhya Pradesh, Ấn Độ có một quần thể di tích Phật giáo, nằm cách thị trấn Raisen, trụ sở chính của quận khoảng 23 km và cách Bhopal, thủ phủ của bang Madhya Pradesh, 46 km về phía đông bắc.
Quần thể di tích Phật giáo ở Sanchi, nằm trên một gò đồi, trên cao nguyên rừng thanh bình và đẹp như tranh vẽ, được coi là một cái gì đó (Cetiyagiri) bất khả xâm phạm trong biên niên sử Phật giáo, nơi tu sĩ Mahindra (năm 270 TCN – 204 TCN), con trai của Hoàng đế Aśoka (trị vì năm 268 TCN – 232 TCN) cai trị Đế chế Mauryan (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN - 184 TCN), đã dừng chân trước khi tiến hành cuộc hành trình truyền giáo đến Sri Lanka (đảo quốc, tại phía nam Ấn Độ).
Tại đây lưu giữ các hộp chứa mảnh xương và đồ vật của Sariputra (Xá Lợi Phất/ Xá Lợi Tử, một nhà lãnh đạo tâm linh ở Ấn Độ cổ đại, năm 586 TCN– 484 TCN) và Maudgalyayana (Mục Kiền Liên, đệ tử chính của Đức Phật) ở Sanchi được Theravadins (Phật giáo Theravada/ Phật giáo Thượng tọa bộ, là một nhánh của Phật giáo Nguyên thủy) tôn kính và tiếp tục được tôn thờ cho đến ngày nay.
Sự ra đời của Sanchi như một trung tâm linh thiêng là do hoàng đế Aśoka của Đế chế Mauryan thực hiện. Triều đại của ông vào thế kỷ thứ 3 TCN được coi là công cụ truyền bá Phật giáo khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Với việc xây dựng Trụ biểu tượng Aśoka (Aśoka Stambha) nguyên khối công phu, Hoàng đế Aśoka đã xác định Sanchi là một địa điểm có tầm quan trọng đặc biệt.
Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi ngày nay là một loạt các di tích bắt đầu từ thời kỳ Đế chế Mauryan (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN - 184 TCN), tiếp tục với thời kỳ Đế chế Gupta (Gupta Empire, thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên) và kết thúc vào khoảng thế kỷ 12 sau Công nguyên. Đây có lẽ là nhóm di tích Phật giáo được bảo tồn tốt nhất ở Ấn Độ. Đồng thời, nhiều cấu trúc đền thờ khác nhau cũng được xây dựng, từ thời Đế chế Gupta trở về sau.
Quần thể di tích Phật giáo Sanchi có nhiều bảo tháp (Stupa).
Bảo tháp là một cấu trúc giống như gò đất hoặc hình bán cầu chứa xá lợi (Śarīra, chỉ các thánh tích Phật giáo, các vật thể hình hạt giống như ngọc trai, được cho là được tìm thấy trong số tro hỏa táng của các bậc thầy tâm linh Phật giáo). Bảo tháp được sử dụng như một nơi thiền định, một thuật ngữ có liên quan đến Chaitya (chaitya hall, chaitya-griha) là một phòng cầu nguyện hoặc một ngôi đền có chứa một bảo tháp.
Trong Phật giáo, đi vòng xung quanh (circumambulation/ pradakhshina) các thực thể thiêng liêng theo chiều kim đồng hồ là một nghi lễ và thực hành sùng kính quan trọng kể từ thời sơ khai. Vì vậy, cấu trúc xây dựng của một bảo tháp luôn có một lối đi (pradakhshina) xung quanh.
Lâu đời nhất, lớn nhất tại Sanchi là Đại bảo tháp (Great Stupa, còn được gọi là Bảo tháp số 1) và là một di tích quan trọng của kiến trúc Ấn Độ ; được coi là một ví dụ không thể so sánh được về giai đoạn trưởng thành của các bảo tháp Ấn Độ.
Kể từ thời hoàng đế Aśokan, các đế chế hùng mạnh tiếp theo trị vì vùng này - chẳng hạn như các triều đại Sunga (Shunga Empire, tồn tại năm 184 TCN – 72 TCN), Kushana (Kushan Empire, tồn tại năm 30–375 sau Công nguyên), Kshatrapa (Western Kshatrapas, tồn tại năm 35–415 sau Công nguyên) và cuối cùng là Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên) - tiếp tục đóng góp vào việc mở rộng Sanchi với việc xây dựng các đền, chùa (temples), bảo tháp (stupas) nhỏ hơn (Bảo tháp 2 và 3) và nhiều tịnh xá (viharas).
Sanchi luôn là một trung tâm quan trọng của Phật giáo cho đến thế kỷ 13 sau Công nguyên.
Các bảo tháp, đền chùa, tịnh xá và trụ biểu tượng (stambha) ở Quần thể di tích Phật giáo Sanchi là một trong những ví dụ lâu đời nhất và trưởng thành nhất về nghệ thuật biểu tượng và kiến trúc độc lập, ghi lại toàn diện lịch sử của Phật giáo từ thế kỷ 3 TCN đến thế kỷ 12 sau Công nguyên.
Đại bảo tháp và các di tích xung quanh được khảo sát và khai quật chính thức vào năm 1851. Từ năm 1912 – 1919, các cấu trúc di tích đã được khôi phục lại sau sự tàn phá của các kẻ săn tìm kho báu. Hộp chứa thánh tích tích xương (asthi avashingh) của hai bậc thầy Phật giáo (Sariputra/ Xá Lợi Tử và Maudgalyayana/ Mục Kiền Liên) cùng với một số di vật khác (mà các nhà thuộc địa Anh mang về Anh như một chiến tích cá nhân) đã được mang trở lại Sri Lanka vào năm 1947 và trả lại cho Ấn Độ vào năm 1952. Các Phật tích này đã được lưu giữ tại một ngôi chùa mới xây dựng Chetiyagiri Vihara. Sự kiện này được cho là đánh dấu sự tái lập chính thức truyền thống Phật giáo tại Ấn Độ.
Di tích Phật giáo tại Sanchi chứa đựng sự tập trung đáng kể của các kỹ thuật nghệ thuật Ấn Độ thời kỳ đầu và nghệ thuật Phật giáo, được gọi là trường phái hoặc giai đoạn mang tính biểu tượng (Anionic). Các biểu tượng cho thấy sự tiến hóa trong kỹ thuật điêu khắc và sự công phu, đặc biệt là khắc họa Đức Phật. Những câu chuyện và sự kiện có ý nghĩa lịch sử và tôn giáo to lớn đã được làm sống động với các kỹ thuật chạm nổi và phù điêu đắp cao. Chất lượng của nghề thủ công, thể hiện qua các các gam màu tại các biểu tượng thực vật, động vật, con người và những câu chuyện về sự tích của Đức Phật (Jataka) cho thấy sự phát triển của nghệ thuật thông qua sự tích hợp truyền thống điêu khắc bản địa và phi bản địa.

Hình ảnh trên cao tại Khu phức hợp di tích Phật giáo tại Sanchi, Madhya Pradesh, Ấn Độ

Chùa Chetiyagiri Vihara, lưu giữ nhiều Phật tích giá trị của Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Ấn Độ
Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Madhya Pradesh, Ấn Độ được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1989) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Sự hoàn hảo về tỷ lệ và sự phong phú của các tác phẩm trang trí điêu khắc trên 4 cổng làm cho Đại bảo tháp số 1 trở thành một thành tựu nghệ thuật có một không hai, một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người. Nhóm các di tích Phật giáo tại Sanchi - bảo tháp, đền chùa và tu viện - là duy nhất ở Ấn Độ vì tuổi đời và chất lượng của nó.
Tiêu chí (ii): Kể từ thời điểm đài tưởng niệm lâu đời nhất được dựng lên, cột Aśoka với đầu cột hình những con sư tử lấy cảm hứng từ nghệ thuật Achaemenid (Achaemenid Art, nghệ thuật Ba Tư hoặc Iran vào thời Đế chế Achaemenid, tồn tại năm 550 TCN – 330 TCN), Sanchi có vai trò là trung gian truyền bá các nền văn hóa và nghệ thuật trên khắp Đế chế Mauryan và sau đó là ở Ấn Độ vào thời các triều đại Sunga, Shatavahana, Kushan và Gupta.
Tiêu chí (iii): Vẫn là trung tâm chính của Phật giáo cho đến đầu thời Trung cổ của Ấn Độ sau sự truyền bá của Ấn Độ giáo, Sanchi là một bằng chứng độc đáo về một thánh địa Phật giáo lớn trong giai đoạn từ thế kỷ 3 TCN đến thế kỷ 1 sau Công nguyên.
Tiêu chí (iv): Bảo tháp tại Sanchi, đặc biệt là Bảo tháp 1 và Bảo tháp 3, là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoàn thiện nhất của loại hình di tích này: Bảo tháp có mái vòm hình bán cầu (anda), trên cùng là một khối lan can bằng đá (harmika), được xây dựng trên một sân thượng hình tròn (medhi); Có một hoặc hai hành lang bao quanh cho tín đồ sử dụng (pradakshina patha); Một số cấu trúc của bảo tháp được chuyển đổi từ cấu trúc bằng gỗ sang đá như lan can (vedika) và cổng (torana); Bảo tháp được bao phủ bởi một lớp bên đá bên ngoài cho thấy việc tiếp tục sử dụng các hình thức nguyên thủy của cấu trúc đền thờ tạc vào trong đá; Toàn bộ bảo tháp được bao quanh bởi một hàng rào.
Tiêu chí (vi): Sanchi là một trong những thánh địa Phật giáo lâu đời nhất còn tồn tại. Mặc dù Đức Phật chưa bao giờ đến thăm địa điểm này trong bất kỳ cuộc sống nào trước đây hoặc trong thời gian tồn tại trên trần thế của mình, nhưng bản chất tôn giáo của thánh địa này là hiển nhiên. Phòng chứa xá lợi của Bảo tháp 3 chứa hài cốt của Sariputra (Xá Lợi Tử, năm 586 TCN – 484 TCN), một đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đã chết trước sư phụ của ông 6 tháng; Ngài đặc biệt được tôn kính bởi những người theo giáo phái Tiểu thừa (Hinayana, tồn tại ở Sri Lanka và lan truyền đến các khu vực khác tại Đông Nam Á).

Phạm vi Di sản Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Ấn Độ

Sơ đồ vị trí các di tích chính tại Quần thể di tích Phật giáo Sanchi, Ấn Độ ; được đánh số từ 1 đến 50
Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi, Ấn Độ nằm trong một bức tường đá bao quanh. Chỉ có di tích Bảo tháp số 2 nằm bên ngoài bức tường. Các hạng mục chính trong Khu vực Di sản gồm :
Đại bảo tháp số 1
Đại bảo tháp số 1 là một phức hợp có nhiều di tích :
Đại bảo tháp số 1
Đại bảo tháp số 1 (Great Stupa No 1; hình vẽ ký hiệu 1) nằm tại phía tây Khu vực Di sản. Công trình được xây dựng bởi Ashoka Đại đế (Ashoka the Great, trị vì năm 268- 232 TCN) của Đế chế Mauryan (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN - 184 TCN).
Hạt nhân của Đại bảo tháp là một cấu trúc hình bán cầu đơn giản, như chiếc mũ che nắng (Chhatra, là một biểu tượng tốt lành trong Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo và Phật giáo), nhằm mục đích tôn vinh và bảo vệ các thánh tích. Đại bảo tháp ban đầu chỉ có đường kính bằng một nửa so với bảo tháp ngày nay, được bao phủ bởi gạch.
Vào thời kỳ Đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại năm 185 TCN – 73 TCN), Đại bảo tháp được mở rộng gần gấp đôi kích thước ban đầu, ốp đá, bổ sung cổng, lan can và là hình dạng của Đại bảo tháp ngày nay.
Các thời kỳ tiếp theo, từ Satavahana (Satavahana Dynasty, tồn tại cuối thế kỷ 2 TCN – đầu thế kỷ 3 sau Công nguyên) đến Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên) - tiếp tục đóng góp vào việc hoàn thiện Đại bảo tháp. Lần bổ sung cuối cùng cho Đại bảo tháp là trong triều đại Gupta (thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên), khi 4 điện thờ với tượng Phật ngồi được thêm vào phía trước 4 cổng.
Đại bảo tháp ngày nay là một mái vòm hình bán cầu (anda), đường kính 36,6 m, cao 16,46 m, nằm trên một bệ nền với một buồng chứa thánh tích nằm sâu bên trong. Mái vòm được bao phủ bởi một lớp đá veneer (đá mỏng tự nhiên).
Trên đỉnh mái vòm có một lan can hình vuông (harmika) bằng đá, tượng trưng cho ngọn núi thế giới, bao quanh một trụ trung tâm (yashti) tượng trưng cho trục vũ trụ. Trụ nâng đỡ một cấu trúc hình tượng 3 cái ô chồng lên nhau (chhatra), đại diện cho Tam bảo của Phật giáo là Phật pháp (Buddha), Giáo pháp (Dharma /Doctrine) và Tăng đoàn (Sangha / Community).
Bảo tháp đặt trên một sân thượng hình tròn (medhi), được bao bọc bởi lan can trang trí công phu bao quanh, để các tín đồ đi vòng quanh theo chiều kim đồng hồ.
Toàn bộ Đại bảo tháp số 1 được bao bọc bởi một bức tường thấp (vedika), đánh dấu ở 4 điểm chính bằng 4 Cổng nghi lễ (toranas). Mỗi cổng vào đều có một bức tượng Phật ngồi, đặt sát cạnh chân Đại bảo tháp. Các Cổng nghi lễ của Đại bảo tháp là thành tựu đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Sanchi.
Bảo tháp 1 có một số lượng lớn các bản khắc bằng chữ Brahmi (Brahmi Script, là một hệ thống chữ viết của Nam Á cổ đại, xuất hiện như một hệ thống chữ viết phát triển hoàn chỉnh vào thế kỷ 3 TCN. Hậu duệ của nó, chữ viết Brahmic, tiếp tục được sử dụng ngày nay trên khắp Nam và Đông Nam Á). Mặc dù các chữ này nhỏ và đề cập đến các khoản quyên góp, song có ý nghĩa lịch sử to lớn trong việc giải mã các văn tự Brahmi.

Phối cảnh tổng thể Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ
.jpg)
Phối cảnh nhìn từ phía tây Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ


Sơ đồ cấu trúc Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Lối vào tại cổng phía đông với tượng Phật thờ, Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Lan can và cầu thang đá tại Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ
Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1
Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1 (Stupa 1 Southern Gateway) được cho là lâu đời nhất và là lối vào chính của bảo tháp.
Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1 (cũng như các cổng khác) thuộc loại cổng Torana (còn được gọi là Vandanamalikas).
Toran là một dạng cổng vòm hoặc cổng trang trí, đứng độc lập, dành cho các mục đích nghi lễ được thấy trong kiến trúc Ấn Độ giáo, Phật giáo và Jain giáo ở tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á và một số vùng của Đông Á. Người ta cho rằng, Cổng Shanmen (Sơn Môn, cổng chính của một ngôi chùa thường dựng trên núi) của Trung Quốc; Cổng Torii (cổng chính tại lối vào hoặc bên trong một ngôi đền Thần đạo, biểu tượng đánh dấu cho sự chuyển đổi từ trần tục sang linh thiêng) của Nhật Bản; Cổng Iljumun (cổng đầu tiên tại lối vào ngôi chùa) của Triều Tiên, cổng Tam quan của Việt Nam và Sao Chingcha (Giant Swing, như một xích đu khổng lồ) của Thái Lan có thể bắt nguồn từ cổng Torana của Ấn Độ.
Mặc dù được làm bằng đá, các cổng Torana của Đại Bảo tháp số 1 được chạm khắc và xây dựng theo cách thức bằng gỗ và được bao phủ bởi những tác phẩm điêu khắc tinh xảo, được cho làm bởi các nghệ nhân chạm khắc ngà voi tại Vidisha.
Mỗi cổng được tạo thành từ hai trụ hình vuông. Trên đỉnh trụ là những khối điêu khắc về con vật hoặc những chú lùn, được nối với nhau bởi 3 dầm ngang (architraves).
Tất cả bề mặt cổng, trụ và dầm ngang, được bao phủ bởi các điêu khắc mô tả các sự kiện trong cuộc đời của Đức Phật, các câu chuyện Jataka (tiền kiếp của Đức Phật), cảnh của Phật giáo thời kỳ đầu và các biểu tượng tốt lành. Tên của những người hiến tặng cũng được khắc trên đó.
Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1 là một trong hai cổng được xây dựng lại vào năm 1882–1883.

Phối cảnh Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Trang trí phía trên Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Chi tiết trang trí mặt dầm phía nam tại Cổng phía nam của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ ; miêu tả Vua Ashoka (phải) đến Bảo tháp Ramagrama (giữa), để rước xá lợi của Đức Phật
Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1
Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1 (Stupa 1 Northern Gateway) là cổng được bảo tồn tốt nhất trong số các cổng của Đại bảo tháp số 1 và là cổng thứ hai được phục dựng lại vào năm 1882–1883.
Trên bề mặt cổng có các bức phù điêu kể lại những sự kiện khác nhau trong cuộc đời của Đức Phật, đặc biệt là phép màu hay phép lạ của Đức Phật. Các bức phù điêu nghệ thuật này (theo một khái niệm gọi là Aniconism) không miêu tả trực tiếp Đức Phật mà chỉ miêu tả những biểu tượng có liên quan như: Chỗ ngồi, cây bồ đề, dấu chân, bánh xe pháp luân... Tuy nhiên, những người khác và môi trường xung quanh biểu tượng được miêu tả rất nhiều và chi tiết.
Trên bề mặt cổng còn có bức phù điêu miêu tả người nước ngoài, trong trang phục Hy Lạp chơi nhạc, trong đó có kèn (carnyxes) và sáo đôi (aolus).
Giống như các cổng khác, Cổng phía bắc bao gồm hai cột trụ vuông được ghép lại bởi các khối đầu cột đỡ 3 dầm ngang với hai đầu uốn cong.

Phối cảnh Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Trang trí phần trên Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Chi tiết trang trí mặt dầm tại Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Chi tiết miêu tả Đức Phật lên trời, song không có hình ảnh Ngài mà chỉ miêu tả con đường lên trời – phiến đá nằm ngang ; Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Chi tiết miêu tả tín đồ và nhạc sĩ nước ngoài ; Cổng phía bắc của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ
Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1
Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1 (Stupa 1 Eastern Gateway) là một trong 4 cổng bao quanh Đại Bảo tháp số 1.
Giống như các cổng khác, Cổng phía đông bao gồm hai cột trụ vuông được ghép lại bởi các khối đầu cột và 3 dầm ngang với hai đầu uốn cong. Trên bề mặt của cổng có các bức chạm khắc miêu tả sự tích về Đức Phật ; các vị thần thánh, chuyến viếng thăm của hoàng gia Ashoka đến cây bồ đề, nơi Đức Phật đã đắc đạo…

Phối cảnh Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Trang trí phần trên Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Điêu khắc miêu tả một nữ thần (Salabjanjika, liên quan đến sinh sản) trên một góc Cổng phía đông của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ
Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1
Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1 (Stupa 1 Western Gateway) là một trong 4 cổng xung quanh Đai bảo tháp số 1.
Tương tự như các cổng khác, Cổng phía tây bao gồm hai cột trụ vuông. Trên mỗi đỉnh cột là một khối trang trí gồm 4 vị thần Dạ xoa (Yaksha) đứng và đỡ 3 dầm ngang với đầu dầm được làm cong. Bề mặt của dầm được chạm khắc tinh xảo.

Phối cảnh Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Đầu cột với các vị thần Dạ xoa; Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ

Trang trí bề mặt dầm ngang tại Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1, Sanchi, Ấn Độ; Cảnh người Mallas mang xá lợi Đức Phật đến Kushinagara. Nhà vua, ngồi trên một con voi, giữ xá lợi trên đầu

Trang trí bề mặt trụ Cổng phía tây của Đại bảo tháp số 1, Sanchi Ấn Độ; Cảnh cuộc sống thường nhật
Trụ cột Ashoka
Trụ cột Ashoka (Ashoka Pillar) là một loại cột đá sa thạnh nguyên khối nằm rải rác khắp tiểu lục địa Ấn Độ, được dựng lên theo các sắc lệnh của Hoàng đế Ashoka Mauryan trong thời gian trị vì của ông từ năm 268 đến 232 TCN. Những cột trụ này tạo nên những di tích quan trọng của kiến trúc Ấn Độ, hầu hết chúng đều thể hiện nét đặc trưng của người Mauryan.
Tất cả các trụ cột của Ashoka đều được xây dựng tại các tu viện Phật giáo, nhiều địa điểm quan trọng từ cuộc đời của Đức Phật và những nơi hành hương.
Cột có chiều cao trung bình từ 12 đến 15 m và nặng tới 50 tấn mỗi cây. Các trụ cột được vận chuyển hàng trăm km từ các mỏ đá đến vị trí để dựng lên.
Trong số những trụ cột do Hoàng đế Ashoka dựng lên, có tới 20 trụ cột vẫn tồn tại, bao gồm cả những trụ cột có khắc các sắc lệnh của ông.
Một hình ảnh đại diện cho đầu cột hình sư tử thời Ashoka đã được sử dụng làm Quốc huy chính thức của Ấn Độ vào năm 1950.
Các Trụ cột Ashoka đều được đánh bóng tinh xảo, thành một đặc trưng của kỹ thuật tạc tượng thời Mauryan (Mauryan polish). Kỹ thuật đánh bóng trên mặt đá sa thạch có mặt tại các hang động (tạc vào đá), trụ cột biểu tượng và trên bề mặt tượng.
Người ta tin rằng kỹ thuật đánh bóng đá mà người Mauryas sử dụng có thể bắt nguồn từ kỹ thuật điêu khắc thời Đế chế Achaemenid (Achaemenid Empire / Đế chế Ba Tư, tồn tại năm 550 TCN – 330 TCN). Kỹ thuật đánh bóng đá sa thạch đã lan sang Ấn Độ cùng với sự nhập cư của các nghệ sĩ và kỹ thuật viên người người Ba Tư và Ba Tư-Hy Lạp.
Sau thời kỳ Đế chế Mauryan, xu hướng điêu khắc chung là từ bỏ hoàn toàn kỹ thuật đánh bóng. Điều này có thể là do chi phí đánh bóng cao. Sự kết thúc của thời kỳ Mauryan cũng đánh dấu kết thúc xu hướng bảo trợ của chính quyền đối với nghệ thuật, mà sau đó có chỉ còn được tài trợ bởi người dân hoặc tầng lớp thương gia giàu có.
Các Trụ cột Ashoka thường chia thành hai phần : Đầu trụ và thân trụ.
Thân trụ được tạo bởi đá nguyên khối, mặt cắt ngang hình tròn, hơi thuôn nhỏ lên trên và luôn được đánh bóng. Thân trụ không có bệ đỡ.
Đầu trụ được tạo bởi đá nguyên khối, gắn với trụ cột bằng một chốt kim loại lớn. Đầu trụ chia thành 3 phần: Phần dưới của đầu trụ có dạng như hình chiếc chuông hay hình cánh sen; Phần tấm đầu trụ (Abaci/ Abacus) dạng vuông hoặc tròn với tỷ lệ khác nhau. Tấm có chiều cao dày, được trang trí xung quanh; Phần trên tấm đầu trụ đặt những con vật đội vương miện, ngồi hoặc đứng, luôn ở dạng khối tròn và được chế tác cùng với tấm đầu trụ.
Trụ cột Ashoka tại Sanchi dựng bên cạnh Cổng phía nam Đại bảo tháp số 1. Khi còn nguyên vẹn, cột có chiều cao khoảng 12m. Đá sa thạch làm trụ được chuyển đến từ mỏ đá ở Chunar cách đó vài trăm dặm, bằng phương tiện giao thông thủy.
Phần thân trụ vẫn còn lại một phần. Các phần của đầu trụ được lưu giữ tại Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi (Sanchi Archaeological Museum) gần đó.
Phần dưới của đầu trụ hình quả chuông, đỡ tấm đầu trụ hình tròn, xung quanh viền có trang trí. Trên tấm đầu trụ là hình tượng 4 con sư tử (có thể phía trên cùng là biểu tượng bánh xe Pháp Luân hay Luân Xa). Những con sư tử đá này là minh chứng cho tay nghề điêu luyện của các nghệ nhân Sanchi.
Trên bề mặt thân trụ được đánh bóng có các dòng chữ, gọi là Sắc lệnh Ashokan (Edicts of Ashoka, là một bộ sưu tập của hơn 30 bộ chữ khắc trên các cột trụ, tảng đá và tường hang động, được cho là của Hoàng đế Ashoka của Đế chế Mauryan). Ngoài ra, tại đây còn có các dòng chữ Sankha Lipi trang trí từ thời Gupta.

Tàn tích một phần thân Trụ cột Ashokan bằng đá mài nhẵn, bố trí bên phải cổng phía Nam Đại bảo tháp, Sanchi, Ấn Độ

Dòng chữ sắc lệnh Ashokan trên bề mặt Trụ cột Ashokan, Sanchi, Ấn Độ

Một phần đầu trụ, lưu giữ tại Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi, Ấn Độ.
Bảo tháp số 2
Bảo tháp số 2 (Stupa No. 2) nằm bên ngoài khu phức hợp chính của Sanchi, khoảng 300 mét về phía tây, trên sườn đồi Sanchi. Bảo tháp số 2 nằm ở vị trí thấp hơn Đại bảo tháp số 1, được cho là do chỉ chứa xá lợi của những vị chức sắc Phật giáo có vị trí thấp.
Bảo tháp được dựng dưới thời Đế chế Shungas (Shunga Empire, tồn tại năm 185 TCN – 73 TCN) và Đế chế Satavahanas (Satavahana Dynasty, tồn tại cuối thế kỷ 2 TCN – đầu thế kỷ 3 sau Công nguyên).
Bảo tháp số 2 được thành lập muộn hơn Đại bảo tháp số 1, nhưng được quan tâm đặc biệt vì có những bức phù điêu trang trí quan trọng, sớm nhất ở Ấn Độ, được coi là nơi sinh của các bức tranh minh họa cho truyện Jataka (Jataka tales, là một bộ văn học đồ sộ có nguồn gốc Ấn Độ có nội dung liên quan đến các kiếp đời của Đức Phật ở cả dạng người và động vật).
Tại đây có những chạm khắc hình tròn như các huy chương, khoảng 455 cái, đa phần miêu tả hoa sen.
Bên trong Bảo tháp chứa các quan tài nhỏ bằng đá đựng xương cốt các vị thánh.
Ngoài ra, trên bề mặt quan tài và lan can của Bảo tháp số 2 có những chữ khắc bằng văn tự Brahmi (hệ thống chữ viết của Nam Á cổ đại, phát triển hoàn chỉnh vào thế kỷ 3 TCN), theo phong cách tương tự như Bảo tháp Bharhut (Bharhut stupa, tồn tại năm 300–200 TCN) tại bang Madhya Pradesh, Ấn Độ, cùng là một trong những ví dụ sớm nhất của Nghệ thuật Ấn Độ và Phật giáo.

Phối cảnh Bảo tháp 2, Sanchi, Ấn Độ

Mặt bằng, mặt đứng và di vật quan tài đá tìm thấy trong Bảo tháp 2, Sanchi, Ấn Độ. Trên bề mặt quan tài có các hàng chữ Brahmi

Trang trí trên lan can tại Bảo tháp 2, Sanchi, Ấn Độ

Chạm khắc hình tròn thể hiện người đàn ông cưỡi nhân mã, Bảo tháp 2, Sanchi, Ấn Độ

Chạm khắc hình tròn thể hiện hoa sen, Bảo tháp 2, Sanchi, Ấn Độ
Bảo tháp số 3
Bảo tháp số 3 (Stupa No. 3) được xây dựng tại phía bắc Đại bảo tháp (số 1), dưới thời Đế chế Shungas (Shunga Empire, tồn tại năm 185 TCN – 73 TCN) và Đế chế Satavahanas (Satavahana Dynasty, tồn tại cuối thế kỷ 2 TCN – đầu thế kỷ 3 sau Công nguyên).
Bảo tháp cũng có lan can xung quanh.
Bên trong Bảo tháp đặt các hộp bằng đá đựng xá lợi của Sariputra (Xá Lợi Tử) và Maudgalyayana (Mục Kiền Liên).
Phù điêu trên lan can bảo tháp được cho xuất hiện muộn hơn so với phù điêu của Bảo tháp số 2.
Bảo tháp có một cổng duy nhất tại phía nam, được xây dựng dưới thời Satavahanas (Satavahana Dynasty, tồn tại thế kỷ 2 TCN – thế kỷ 3 sau Công nguyên), vào khoảng năm 50 TCN.

Phối cảnh Bảo tháp số 3, Sanchi, Ấn Độ

Mặt bằng, mặt đứng và di vật quan tài chứa xá lợi của Sariputra và Maudgalyayana

Trang trí trên lan can tại Bảo tháp 3, Sanchi, Ấn Độ
Các di tích khác
Chùa số 17
Chùa 17 (Temple 17) là một ngôi ngôi đền độc lập ban đầu, tiếp sau thế hệ những ngôi đền hang động cắt vào đá của kiến trúc Ấn Độ (Indian rock-cut architecture). Ngôi chùa được xây dựng thời Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên).
Chúa số 17 nằm tại phía nam Đại bảo tháp số 1, gồm một thánh đường hình vuông, mái bằng với một hàng hiên và 4 cột trụ. 4 cột mang phong cách truyền thống. Đế cột có tiết diện hình vuông. Thân cột có tiết diện hình bát giác. Đầu cột là một khối hình chuông đỡ một tấm hình vuông lớn, bên trên cùng là khối trang trí hình các con sư tử.

Phối cảnh Chùa số 17, Sanchi, Ấn Độ
Chùa số 18
Chùa số 18 (Temple 18) nằm bên cạnh Chùa số 17. Công trình được xây dựng vào thời của Hoàng đế Ấn Độ Harsha (cai trị năm 606- 647 sau Công nguyên).
Sảnh của Chùa có mái vòm dạng bán cầu (apse) thời Maurya (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN – 184 TCN).
Chùa có mặt bằng hình chữ nhật, một đầu dạng bán tròn.
Bên trong Chùa có hàng 14 cột đỡ mái nhà dạng vòm thùng. Cột có hình thức đơn giản. Cuối của Chùa là một không gian dạng bán vòm. Bên trong Chùa có một bảo tháp (chaitya -hall).
Công trình hiện chỉ còn lại tàn tích cột.

Tàn tích các hàng cột bên trong Chùa số 18, Sanchi, Ấn Độ
Trụ cột Sunga - Cột số 25
Trụ cột Sunga (Sunga Pilar) hay Cột số 25 được dựng vào thời Đế chế Sungas (Shunga Empire, tồn tại năm 184 TCN – 72 TCN). Cột có chiều cao 4,57m, đường kính ở chân 0,32m. Từ chiều cao 1,2m, cột trụ có tiết diện hình bát giác, tiếp đó là 16 mặt. Trên đỉnh cột có phần mộng để liên kết với phần đầu cột.
Đầu cột hình chuông thông thường. Bên trên là một tấm đỡ hình vuông. Trên tấm đỡ có thể là một con sư tử, hiện đã không còn.

Tàn tích cột Sunga – Cột số 25, Sanchi, Ấn Độ
Trụ cột Sư tử - Cột số 26
Trụ cột Sư tử (Lion pillar) hay Cột số 26 nằm tại phía bắc của Trụ cột 25, được xây dựng vào thời kỳ đầu của Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên). Ngoài hình dáng bên ngoài, Trụ cột được phân biệt với các trụ cột khác trên địa điểm bởi chất lượng đá cứng hơn và màu sắc với vệt vàng nhạt kết hợp tím thạch anh. Tại Sanchi, loại đá đặc biệt này chỉ được sử dụng trong các di tích của thời kỳ Gupta.
Trụ cột số 26 có chiều cao khoảng 6,7m và chỉ bao gồm hai phần : Phần dưới là đế trụ hình vuông kích thước 0,3m x 0,3m và cột tròn ; Phần trên là đầu cột với khối hình chuông, tấm bệ đầu cột, tượng 4 sư tử đỡ vương miện hình Luân xa. Trên bề mặt của đế trụ còn lưu giữ các ký tự Gupta ghi lại công tích của gia chủ cúng tiến Trụ cột.

Tàn tích đầu cột của Trụ cột số 26, Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi, Ấn Độ
Trụ cột số 35
Trụ cột số 35 (Pillar 35) nằm gần Cổng bắc của Đại bảo tháp số 1, được dựng lên trong thời kỳ của Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại thế kỷ 4 – cuối thế kỷ 6 sau Công nguyên).
Hầu hết trụ cột đã bị phá hủy, chỉ còn bệ cột. Tàn tích phần đầu cột được bảo quản tốt. Kề liền tàn tích cột có một bức tượng, được cho thuộc về Trụ cột số 35, thể hiện một vị bồ tát Vajrapani trong Phật giáo Đại thừa. Tượng được đặt trên đỉnh Trụ cột. Bức tượng hiện nằm trong Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi.

Tàn tích Trụ cột số 35, Sanchi, Ấn Độ

Bức tượng Vajrapani, Trụ cột 35, Sanchi, Ấn Độ ; Bảo tàng Khảo cổ học Sanchi
Chùa số 40
Chùa số 40 (Sanchi Temple 40) nằm tại phía nam Khu vực Di sản. Chùa có dấu tích của 3 thời kỳ khác nhau. Sớm nhất có niên đại thời kỳ Đế chế Mauryan (Maurya Empire, tồn tại năm 322 TCN - 184 TCN), có lẽ cùng thời với việc tạo ra Đại bảo tháp số 1.
Ngôi chùa ban đầu được xây dựng trên một bệ đá hình chữ nhật 26,5m × 14m, cao 3,3m, với hai bậc thang ở phía đông và phía tây. Ngôi chùa bằng gỗ này bị thiêu rụi vào khoảng thế kỷ thứ 2 TCN.
Chùa đã được xây dựng lại vào thế kỷ 2 TCN. Bệ nền được mở rộng lên 41,8m × 27,7m. Bên trên là một ngôi chùa có hàng cột bao xung quanh. Các hàng cột hiện chỉ còn lại một số đoạn thân cột.
Vào thế kỷ thứ 7 hoặc thứ 8, một ngôi đền nhỏ được thành lập ở một góc của quần thể chùa, sử dụng lại một số cột của ngôi chùa xưa.

Tàn tích Chùa số 40, Sanchi, Ấn Độ

Sơ đồ mô phỏng Chùa số 40, Sanchi, Ấn Độ, được xây dựng bằng gỗ thời kỳ đầu
Chùa số 45
Chùa số 45 (Temple 45) nằm tại rìa phía đông Khu vực Di sản.
Sau sự tàn phá vương quốc Gupta của người Alchon Huns (một dân tộc du mục đã thành lập các quốc gia tại Trung Á và Nam Á vào thế kỷ 4 – 6, góp phần làm sụp đổ Đế chế Gupta, kết thúc thời Ấn Độ Cổ điển) và với sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ, sáng tạo nghệ thuật Phật giáo ở Sanchi chậm lại. Tại Sanchi, một số di tích đã không còn được sử dụng và rơi vào tình trạng hư hỏng.
Chùa số 45 là ngôi chùa Phật giáo cuối cùng được xây dựng từ giữa thế kỷ thứ 9 - thế kỷ 10.
Chùa số 45 bị hỏa hoạn, hiện chỉ còn lại tàn tích móng và tường.
Công trình có mặt bằng hình vuông, hướng về phía tây. 4 phía là 4 dãy phòng nhỏ. Bên trong Chùa có một điện thờ (garbha-griha).
Các tác phẩm điêu khắc trên lối vào cửa ra vào rất phong phú và công phu.
Trong ngách phía đông của chùa vẫn còn lại tàn tích một bức tượng Đức Phật ngồi thiền định trên một tòa sen.

Tàn tích Chùa số 45, Sanchi, Ấn Độ

Tàn tích bức tượng Phật bên trong Chùa số 45, Sanchi, Ấn Độ
Quần thể di tích Phật giáo tại Sanchi (Bảo tháp Sanchi), Madhya Pradesh, Ấn Độ là một trong những nhóm di tích Phật giáo được bảo tồn tốt nhất ở Ấn Độ, thể hiện tầm quan trọng đặc biệt đối với di sản văn hóa Ấn Độ. Quần thể là một minh chứng về sự phát triển của nghệ thuật và kiến trúc Phật giáo Cổ đại Ấn Độ, từ giai đoạn đầu của Phật giáo cho đến khi suy tàn của tôn giáo này ở tiểu lục địa Ấn Độ.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/524/
https://en.wikipedia.org/wiki/India
https://en.wikipedia.org/wiki/Sanchi
https://en.wikipedia.org/wiki/Stupa
https://en.wikipedia.org/wiki/Brahmi_script
https://en.wikipedia.org/wiki/Pillars_of_Ashoka
https://en.wikipedia.org/wiki/Mauryan_polish
https://en.wikipedia.org/wiki/Sanchi_Stupa_No._2
https://www.indianetzone.com/61/temple_45_at_sanchi.htm
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|