
Thông tin chung:
Công trình: Quần thể di tích chạm khắc đá Đại Túc (Dazu Rock Carvings)
Địa điểm: Huyện Đại Túc, thành phố Trùng Khánh (Dazu County, Chongqing Municipality), Trung Quốc (N29 42 3.996 E105 42 18)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 20,41 ha; Vùng bảo vệ 211,12ha
Năm hình thành: Thế kỷ 9 -13
Giá trị: Di sản thế giới (năm 1999; hạng mục i, ii, iii)
Trung Quốc (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) nằm tại Đông Á, là quốc gia đông dân nhất thế giới với khoảng 1,403 tỷ người (năm 2016). Trung Quốc có diện tích 9596961km2, là quốc gia có tổng diện tích lớn hàng đầu thế giới; Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hán. Trung Quốc phân thành 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc và 2 khu hành chính đặc biệt là Hồng Kông và Ma Cao.
Lịch sử Trung Quốc bắt nguồn từ một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới, phát triển tại lưu vực sông Hoàng Hà, bình nguyên Hoa Bắc. Trải qua hơn 5.000 năm, Trung Hoa đã trở thành nền văn minh rực rỡ nhất thế giới trong thời Cổ đại và Trung cổ, được đặc trưng bởi hệ thống triết học thâm sâu (nổi bật nhất là Nho giáo, Đạo giáo và thuyết Âm dương ngũ hành); các thành tựu khoa học kỹ thuật (phát minh ra giấy, la bàn, thuốc súng, địa chấn kế, kỹ thuật in ấn...); hoạt động giao thương xuyên châu Á với nhiều quốc gia (Con đường tơ lụa); những đô thị có quy mô dân số và trình độ kiến trúc đứng đầu thế giới vào thời Trung cổ.
Hệ thống chính trị của Trung Quốc dựa trên các chế độ quân chủ kế tập, được gọi là các triều đại, khởi đầu là triều đại nhà Hạ.
Từ năm 221 trước Công nguyên (TCN), nhà Tần chinh phục các quốc gia khác để hình thành đế quốc Trung Hoa thống nhất;
Triều đại nhà Hán cai trị Trung Quốc từ năm 206 TCN đến năm 220 sau Công nguyên;
Triều đại nhà Đường cai trị từ năm 618–907;
Triều đại nhà Tống cai trị từ năm 960–1279;
Vào thế kỷ thứ 13, Trung Quốc bị Đế quốc Mông Cổ chinh phục. Năm 1271, Đại hãn người Mông Cổ thiết lập triều đại nhà Nguyên.
Triều đại nhà Minh cai trị Trung Quốc từ năm 1368–1644.
Triều đại nhà Thanh do người Mãn Châu thành lập cai trị Trung Quốc từ năm 1636–1912.
Trung Hoa Dân Quốc lật đổ nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc vào năm 1912 và cầm quyền tại Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949. Sau khi Đế quốc Nhật Bản bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Quốc chia thành hai: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) có thủ đô là Bắc Kinh và Trung Hoa Dân quốc tại đảo Đài Loan với thủ đô là Đài Bắc.
Đại Túc (Dazu) là một huyện thuộc thành phố trực thuộc trung ương Trùng Khánh, Trung Quốc. Huyện được thành lập vào năm 758, thời nhà Đường; nằm cách trung tâm Trùng Khánh 80km.
Di tích chạm khắc đá Đại Túc, thuộc huyện Đại Túc, thành phố Trùng Khánh là một tác phẩm điêu khắc tôn giáo thuộc Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo; một số ít tượng là nhân vật lịch sử.
Tượng bắt đầu được tạc vào năm 650, cuối triều đại nhà Đường (năm 618–907). Song giai đoạn chính bắt đầu vào cuối thế kỷ 9 kéo dài đến thế kỷ 13 dưới thời nhà Tống (năm 960–1279).
Bản đồ Trung Quốc và vị trí của huyện Đại Túc, thành phố Trùng Khánh
Các địa điểm chạm khắc đá Đại Túc tập trung thành 5 cụm di tích, là một trong những khu vực bảo tồn tốt nhất của hình thức nghệ thuật chùa, đền hang động Trung Quốc:
Cụm di tích lớn nhất tại núi Bắc Sơn (Beishan) với các tác phẩm điêu khắc có niên đại từ cuối thế kỷ 9 đến giữa thế kỷ 12, gồm hai địa điểm tại phía Bắc và Nam, phân bố dọc theo một vách đá cao 7-10m, kéo dài khoảng 300m với hơn 10.000 hình chạm khắc, mô tả các chủ đề của Phật giáo Mật tông và Đạo giáo. Chữ khắc trên vách đá tại đây cung cấp các dữ liệu về lịch sử, tín ngưỡng tôn giáo và các nhân vật lịch sử.
Cụm di tích tại núi Bảo Đỉnh (Baodingshan) có niên đại cuối thế kỷ 12 đến giữa thế kỷ 13; là đỉnh cao về biểu hiện của Phật giáo Mật tông. Cụm di tích này gồm 2 địa điểm, trong đó địa điểm phía Tây có quy mô lớn nhất kéo dài 500m, bao gồm 31 nhóm hình chạm khắc, mô tả chủ đề về Phật giáo Mật tông, cũng như cảnh những người chăn gia súc và cuộc sống bình thường.
Cụm di tích tại núi Nam Sơn (Nanshan) với các tác phẩm điêu khắc thế kỷ 12 kéo dài trên 86m, mô tả chủ yếu các chủ đề về Đạo giáo.
Cụm di tích tại núi Thạch Triện (Shizhuanshan) với các tác phẩm điêu khắc thế kỷ 11 kéo dài hơn 130m, mô tả các hình ảnh Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo.
Cụm di tích tại núi Thạch Môn (Shimenshan) với các tác phẩm điêu khắc vào nửa đầu thế kỷ 12 kéo dài 72m, thể hiện sự tích hợp giữa Phật giáo và Đạo giáo.
Các di tích chạm khắc tại đây được biết đến với quy mô lớn, chất lượng thẩm mỹ cao, đa dạng phong phú của đối tượng được miêu tả và được bảo quản tốt. Đây là một trong những ví dụ ở mức độ cao nhất của nghệ thuật chùa, đền hang Trung Quốc (gắn với kiến thức về địa chất, sức bền, quang học, bố cục và tạo hình…), có niên đại từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 13, cũng như tín ngưỡng tôn giáo ở Trung Quốc trong thời kỳ này.
Trước năm 1975, chỉ có một con đường nhỏ từ thị trấn Đại Túc đến khu vực di tích. Chính sự cô lập này đã giữ cho di tích không bị tổn hại trong cuộc chiến chống tôn giáo thời Đại Cách mạng Văn hóa tại Trung Quốc (1966-1976).

Vị trí 5 địa điểm di tích chạm khắc đá Đại Túc, thành phố Trùng Khánh
Các di tích chạm khắc đá Đại Túc, thành phố Trùng Khánh được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1999) với các tiêu chí:
Tiêu chí (i) : Các di tích chạm khắc đá Đại Túc, Trùng Khánh, Trung Quốc là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người trong lĩnh vực nghệ thuật điêu khắc đá với chất lượng thẩm mỹ cao, đa dạng về phong cách và chủ đề.
Tiêu chí (ii) : Phật giáo Mật tông từ Ấn Độ và tín ngưỡng Đạo giáo, Nho giáo Trung Quốc đã giao lưu, kết hợp với nhau tại Đại Túc để tạo ra một hinh mẫu cốt lõi và có ảnh hưởng lan truyền bởi sự hòa hợp đức tin.
Tiêu chí (iii) : Các di sản nghệ thuật tại Khu di tích nghệ thuật đá Đại Túc là một bằng chứng đặc biệt về truyền thống bao dung các niềm tin tôn giáo thời kỳ hậu Phong kiến Trung Quốc.
5 địa điểm chạm khắc đá trong khu vực Di sản được tổng hợp trong bảng sau:
Mã
|
Tên vị trí
|
Tọa độ
|
Diện tích Di sản
|
Diện tích vùng đệm
|
912-00
|
Tượng khắc đá núi Bắc Sơn (Beishan)
|
N29 42
E105 42 0
|
7,62 ha
|
49,97 ha
|
912-001
|
Tượng khắc đá núi Bảo Đỉnh (Baodingshan)
|
N29 45
E105 47
|
7,93 ha
|
87,44 ha
|
912-002
|
Tượng khắc đá núi Nam Sơn (Nanshan)
|
N29 41
E105 42
|
3,59 ha
|
64,26 ha
|
912-003
|
Tượng khắc đá núi Thạch Triện (Shizhuanshan)
|
N29 35
E105 34
|
0,21 ha
|
2,65 ha
|
912-004
|
Tượng khắc đá núi Thạch Môn (Shimenshan)
|
N29 39
E105 51
|
1,06 ha
|
6,80 ha
|
Tượng khắc đá núi Bắc Sơn (Beishan)
Tượng khắc đá trên vách núi Bắc Sơn (Beishan Cliffside Carvings) nằm cách thị trấn Đại Túc khoảng 2km về phía Tây Bắc. Núi có cao độ 545m so với mực nước biển.
Khu di tích Tượng khắc đá núi Bắc Sơn có diện tích 7,62ha; vùng đệm có diện tích 49,97ha.
Các chạm khắc ở đây được hình thành vào năm 892, thời nhà Đường (năm 618-907) và kéo dài liên tục trong 250 năm tiếp theo.
Các di tích điêu khắc đá trải dài khoảng 300m từ Nam ra Bắc, được giới hạn bởi một vách đá cao 7 - 10m ở phía Tây. Khu di tích điêu khắc đá Bắc Sơn chia thành hai phần Nam và Bắc.
Các di tích ở phần phía Nam hầu hết đã được hoàn thành vào năm 907 – 960, cuối thời nhà Đường và thời Ngũ Đại Thập Quốc (bắt đầu từ khi nhà Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc, năm 907- 979).
Các di tích ở phía Bắc được thực hiện vào thời nhà Tống (960- 1279).
Các tác phẩm điêu khắc được thực hiện vào cuối thời nhà Đường có vẻ thanh lịch và tròn trịa; bố cục mạnh mẽ với những đường nét đơn giản, trong khi các bức tượng thời Ngũ Đại Thập Quốc lại được thể hiện khéo léo với nhiều tư thế khác nhau. Các tác phẩm điêu khắc thực hiện vào thời nhà Tống thể hiện giai đoạn mở đầu của một triều đại mới với các nhân vật khác biệt và trang phục nhiều màu sắc.
Quần thể tượng khắc đá trên vách núi Bắc Sơn có khoảng 290 nhóm di tích được đánh mã số. Di tích mã số N1- N100 nằm tại phần phía Bắc quần thể; từ N101 – N290 nằm tại phần phía Nam. Các nhóm di tích này phân bố theo các hang hốc với khoảng 10.000 tác phẩm điêu khắc có kích cỡ khác nhau.
Ban đầu các tác phẩm điêu khắc được thực hiện bởi công tích của các viên quan cai trị khu vực Tứ Xuyên, sau đó được thực hiện từ chi phí của các nhà tài trợ tư nhân.

Sơ đồ phạm vi Di sản Quần thể tượng khắc đá trên vánh núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh

Lối vào từ phía Nam của Quần thể tượng khắc đá trên vánh núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Quần thể tượng khắc đá trên vách núi Bắc Sơn có một số di tích nổi bật sau:
Di tích N5 – Hang tượng Đa Văn Thiên vương
Di tích hang tượng Đa Văn Thiên vương (Vaisravana) là một trong những tác phẩm điêu khắc đầu tiên tại vách núi Bắc Sơn, được hình thành vào năm 892, thời nhà Đường (năm 618–907).
Nhân vật trung tâm ở đây là tượng thần Đa Văn Thiên vương, một trong Tứ đại Thiên vương, vị thần trấn giữ phương Bắc và là vị thần Kubera trong Hindu giáo.
Thần Vaishravna được tạc vào trong vách đá trong tư thế đứng, bao quanh bởi các chiến binh; dưới chân của thần là hai Quỷ dạ xoa (Yaksha).
Bức tượng này nổi tiếng với các hình chạm khắc trên áo giáp của thần Vaisravana.

Di tích hang tượng Đa Văn Thiên vươn, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N9 – Hang tượng Quán Thế Âm ngàn tay
Tượng Quán Thế Âm ngàn tay (Avalokiteshvara) là hình thức phổ biến của vị Bồ Tát đầy lòng thương xót và từ bi.
Bức tượng có tổng cộng 42 tay. Hầu hết những bàn tay của tượng đều bị hư hại.
Bồ Tát không ngồi trên ngai mà như ngồi lên một cái ghế dài, mỗi chân đặt lên một bông sen. Trên vương miện của Bồ Tát có hình tượng Đức Phật A Di Đà.
Trên vòm của hốc hang bên phải và bên trái của tượng Quán Thế Âm là tượng của hai con khỉ và các chư vị thánh tăng.

Di tích hang tượng Quán Thế Âm ngàn tay, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N10 – Hang tượng Tam Thế Phật
Tượng Tam Thế Phật (Shakyamuni Pentad) được tạc vào năm 892, trong một hang hình chữ nhật. Đây là một tác phẩm điêu khắc đá Phật giáo truyền thống Trung Quốc. Cụm tượng gồm 3 tượng Phật chính: Phật Nhiên Đăng đại diện cho chư Phật trong quá khứ, Phật Thích Ca là vị Phật thời hiện tại và Phật Di Lặc là vị Phật thời vị lai. Tượng Phật Thích Ca ngồi trên đài sen, còn hai vị Phật quá khứ và vị lai đứng trên tòa sen.
Hai bên tượng Phật Thích Ca Mâu Ni là hai đệ tử của Ngài khi còn ở thế gian; bên phải là tượng A Nan-Đà Tôn giả, bên trái là Ca Diếp Tôn giả. Ngoài ra, trong hang còn có nhiều bức tượng của các chư vị thánh tăng khác với kích cỡ nhỏ hơn bao quanh.
Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni gây được sự chú ý bởi cách thức đặt bàn tay trong lúc tu tập.

Di tích hang tượng Tam Thế Phật, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N51 – Hang tượng Phật quá khứ, hiện tại và tương lai
Tượng Phật quá khứ, hiện tại và tương lai (Buddhas of the Past, Present, and Future) là chủ đề phổ biến trong điêu khắc Phật giáo. Tượng trong hang tương tự như tượng Phật Tam Thế Phật tại hang N10. Song chỉ khác biệt là tại đây cả 3 vị Phật đều ngồi trên đài sen.

Di tích hang tượng Phật quá khứ, hiện tại và tương lai, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N58- Hang tượng Quán Thế Âm bế trẻ em
Tượng Quán Thế Âm bế trẻ em (Guanyin Holding a Child) đặt trong một hang vòm.
Tượng Bồ tát Quán Thế Âm mặc áo choàng hoàng gia, ngồi trên ngai vàng bế một em bé. Hai bên có tượng hai chư thần đứng chầu.
Tượng xuất phát từ thời kỳ tiền Phật giáo thờ nữ thần. Trong thời kỳ này, Quán Thế Âm có vai trò là vị mẫu thần bảo trợ phụ nữ.
Di tích hang tượng Quán Thế Âm bế trẻ em, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N104 – Bia Hiếu Kinh
Phần phía Nam và phía Bắc của Quần thể di tích cách biệt nhau vài chục mét.
Lối vào khu vực phía Bắc được trang trí theo hình thức một ngôi bảo tháp 2 tầng. Tháp trưng bày một khối đá; bên trong có một hốc đá chạm khắc tấm bia Hiếu Kinh (thuộc Thập tam kinh, là bộ 13 tác phẩm kinh điển được Nho học đề cao. Văn bản này có thể được viết vào năm 400 trước Công nguyên. Nội dung thuật lại cuộc trò chuyện giữa Khổng Tử và một đệ tử tên là Tăng Tử về đạo Hiếu.)
Tấm bia được dựng từ năm 1163-1189. Trước đây nằm bên trong một ngôi chùa ở lối vào khu vực phía Nam, trong một hốc đá với chiều rộng 8,9 m và chiều cao 2,8 m. Văn bản chứa 22 chương này là một phiên bản cổ của cuốn Hiếu Kinh.

Lối vào từ phía Bắc của Quần thể tượng khắc đá trên vánh núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh

Di tích bia đá cổ Hiếu Kinh đặt tại cổng vào phía Bắc của Quần thể tượng khắc đá trên vánh núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N112 – Hang tượng Phật đôi
Tượng Phật đôi (Twin Buddhas) được chạm khắc trong hang, gồm 2 vị Phật, Phật Nhiên Đăng đại diện cho chư Phật trong quá khứ (trái) và Phật Thích Ca là vị Phật thời hiện tại (phải). Các tượng chạm khắc trong hang miêu tả sự tích về một vị bồ tát (Prabhutaratna) đến nghe Đức Phật Thích Ca thuyết giảng Kinh Pháp Hoa.

Di tích hang tượng Phật đôi, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N123 – Hang tượng Phật với một chiếc cốc trên tay
Trong một hang vòm chạm khắc một tượng Phật hầu như không đâu có bởi tư thế ngồi trên đài sen, tay trái cầm một chiếc cốc. Hai bên tượng Phật là tượng hai vị Bồ Tát và tượng các vị thánh tăng có kích thước nhỏ.

Di tích hang tượng Phật với một chiếc cốc trong tay, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N125- Hang tượng Bồ Tát cầm tràng hạt
Tượng Bồ Tát hay Nữ thần tay cầm tràng hạt được dựng vào năm 1127- 1162 (thời nhà Tống).
Đây là một tác phẩm điêu khắc nhỏ, chỉ cao 1,1 m, song hay được nhắc đến bởi là biểu tượng cho sự duyên dáng và là một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất tại núi Bắc Sơn.
Thay vì sự mạnh mẽ, tượng Bồ Tát thể hiện sự lãng mạn và đầy nữ tính bởi bố cục mềm mại của hình dáng, sự uốn lượn của các dải áo. Phía sau tượng là một hình elip, như một tấm gương soi…

Di tích tượng Bồ Tát cầm tràng hạt, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N130 – Hang tượng Bồ Tát giận dữ.
Cụm tượng Bồ Tát giận dữ (Fierce Buddhist Goddess) được bảo tồn tốt này miêu tả Bồ tát Quán Thế Âm đang hóa thân tức giận, mặc dù hình thức này không phải là đặc trưng của Phật giáo Trung Quốc và do đó rất hiếm.
Nhiều khả năng, nguyên mẫu cho bức tượng này là hình ảnh của nữ thần Ấn Độ Durga (nữ thần Bất khả chiến bại, vợ của thần Shiva trong Hindu giáo).
Vị thần có 8 tay, 6 tay cầm vũ khí (cây đinh ba Shiva, cây cung và mũi tên Vayu, luân xa Vishnu…). Dưới chân của vị thần là cái đầu bị cắt đứt của quỷ Mahisha.
Xung quanh nữ thần là các vị thiên tướng cũng trong trạng thái giận dữ.

Di tích hang tượng Bồ Tát giận dữ, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N133 – Hang tượng Bồ Tát ngắm trăng soi bóng nước
Tượng Bồ Tát ngắm trăng soi bóng nước (Guanyin Gazing at the Moon in Water) có niên đại từ năm 1131-1162, nằm trong một hang rộng 2,7m, sâu 3,1m và cao 3,9m.
Người ta cho rằng dạng thức này của tượng được khởi nguồn từ Đạo giáo (Đạo chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên). Ngồi chiêm ngưỡng cảnh trăng soi bóng nước trên nền bối cảnh của những ngọn núi phía xa là một trong những hình ảnh phổ biến nhất của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bồ Tát ngồi trên một bệ cao, sau lưng là hình chạm khắc các dãy núi. Sát cạnh Bồ Tát là hai tiểu đồng hầu cận, Long Nữ và Thiện tài đồng tử. Đứng thành hàng hai bên Bồ Tát là tượng của các chư thần hậu vệ với hình dạng hung dữ bảo vệ sự tĩnh lặng cho Bồ Tát.

Di tích hang tượng Bồ Tát ngắm trăng soi bóng nước, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N136 - Hang Bánh xe cầu nguyện
Hang Bánh xe cầu nguyện (Stone Prayer Wheel/Sutra Storage Case) rộng 5m, sâu 6,8m, cao 4m và có niên đại từ năm 1142-1146 (thời Nam Tống).
Ngay ở lối vào trung tâm của hang đá có tạc một Bánh xe cầu nguyện, được bao phủ bởi những con rồng và đặt trên một con rồng cuộn thành vòng.
Hai bên vách hang, bao quanh Bánh xe cầu nguyện là các bức chạm khắc tượng chư Phật.

Di tích hang Bánh xe cầu nguyện, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N147 và N148 – Hai hang chồng lên nhau.
Tại di tích Tượng khắc đá trên vách núi Bắc Sơn có nhiều hốc hang nhỏ dạng chữ nhật hoặc dạng vòm, bố cục dày, đan xen và chồng lên nhau như tổ ong. Hang N147 và N148 là một trong ví dụ.
Tại hang 147, bên trong tạc một cụm tượng Tam thế Phật.
Tại hang 148, đặt ngay bên dưới hang N147, bên trong tạc tượng Quán Thế Âm có 6 tay, trong đó 2 tay trên cùng cầm Mặt trăng và Mặt trời giơ cao.

Một trong những di tích với các hang chồng lên nhau, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N155 – Hang tượng Khổng Tước Minh Vương
Hang động này có từ năm 1126 (thời Bắc Tống).
Khổng Tước Minh Vương (Mahamayuri) là một vị thần bí truyền bảo vệ các vị Phật, là một vị bồ tát và nữ vua trí tuệ trong Phật giáo Đại thừa. Trong hang động này Khổng Tước Minh Vương được miêu tả trong hình tượng một con công, là vật cưỡi của Phật Mẫu Chuẩn Đề có 4 tay.
Cả ba bức tường của hang đều được chạm khắc hàng ngàn tượng Phật nhỏ, bố cục thành các hàng từ nền lên đến đỉnh hang.

Di tích hang tượng Khổng Tước Minh Vương, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N176 – Hang tượng Phật Di Lặc
Hang động khá nhỏ, rộng 2m, sâu 2,2m và cao 2,7m, chứa 173 tác phẩm điêu khắc.
Hang có niên đại từ năm 1126 (thời Bắc Tống).
Chính giữa hang là tượng Đức Phật Di Lặc, vị Phật thời vị lai, ngồi trên đài sen.
3 bức tường xung quanh hang chạm khắc những cảnh trong sự tích Phật giáo dự báo về sự xuất hiện của Phật Di Lặc.

Di tích hang tượng Đức Phật Di Lặc, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N180 – Hang tượng 13 hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm
Tượng 13 hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm (Thirteen Manifestations of Guanyin) có niên đại từ năm 1116 - 1122. (thời Bắc Tống).
Một vị Bồ tát ngồi ngồi trên ngai vàng tại trung tâm hang, 6 vị đứng ở mỗi bên.
Phía trên đầu mỗi bức tượng Bồ Tát đứng là một bức tượng Bồ Tát nhỏ ngồi trên đài sen.

Di tích hang tượng 13 hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N245 – Hang tượng Phật giáo Tịnh Độ Tông
Tượng Phật giáo Tịnh Độ Tây phương (Western Pure Land) nằm trong một hốc cao 4,7m và rộng 3,6m, chứa 578 tác phẩm điêu khắc với nhiều kích cỡ khác nhau; có niên đại vào cuối thế kỷ thứ 9 (thời nhà Đường).
Phật giáo Tịnh Độ Tây phương là một nhánh của Phật giáo Đại thừa và là một trong những tông phái được thực hành rộng rãi nhất của Phật giáo tại Đông Á.
Ở trung tâm của vách hang là tượng Phật A Di Đà, hai bên là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara) và Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahasthamaprapta). Bên trên và bên dưới cụm 3 tượng là bức chạm khắc các tòa nhà và cung điện tại Tây phương Cực lạc
Các bức tường hai bên hốc đá là các chạm khắc nhỏ, được cho là hình ảnh linh hồn đang tái sinh của các tín đồ.

Di tích hang tượng Phật giáo Tịnh Độ Tông, núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh

Hình ảnh các hang tượng kết thúc Khu vực di tích Tượng khắc đá trên vách núi Bắc Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Tượng khắc đá núi Bảo Đỉnh (Baodingshan)
Tượng khắc đá trên vách núi Bảo Đỉnh (Baodingshan Cliffside Carvings) nằm cách thị trấn Đại Túc khoảng 15 km về phía Đông Bắc.
Núi Bảo Định có cao độ 516,5m so với mực nước biển.
Khu di tích Tượng khắc đá núi Bảo Đỉnh có diện tích 7,93ha; vùng đệm có diện tích 87,44ha.
Khu di tích Tượng khắc đá núi Bảo Đỉnh có niên đại vào thời Nam Tống (năm 1127 – 1279).
Các chạm khắc của Bảo Đỉnh Sơn nằm tập trung tại vịnh Đại Phật (Great Buddha Bend) và vịnh Tiểu Phật (Little Buddha Bend), trong đó vịnh Đại Phật là thắng cảnh lớn nhất, có giá trị nghệ thuật cao nhất và được bảo tồn hoàn chỉnh nhất trong quần thể tượng khắc đá Bảo Sơn.
Vịnh Đại Phật là một vách núi cong hình chữ U, dài khoảng 500m, rộng 15 - 30m với hơn 1 vạn pho tượng lớn nhỏ và tấm bia ghi lại lịch sử tạc tượng trên núi Bảo Đỉnh và lịch sử hình thành Phật giáo. Các pho tượng ở đây đều được chạm khắc trên vách núi với diện tích chạm khắc 3600m2. Nghệ thuật chạm khắc ở đây rất tinh xảo; đề tài phản ánh trong các bức phù điêu rất phong phú, bố cục chặt chẽ, địa thế hoành tráng, cấu tứ nghệ thuật độc đáo mang đậm bản sắc Phật giáo.
Vịnh Đại Phật được chia thành hai khu vực: Xiaofawan (Bảo Đỉnh Sơn nhỏ) tại phía Đông và Dafowan (Bảo Đỉnh Sơn lớn) tại phía Tây.
Bảo Đỉnh Sơn lớn như một thiền viện, nơi thiền sư Zhao Zhifeng (Triệu Trí Phụng) giảng dạy, truyền bá Phật giáo cho công chúng và ông cũng chính là người khởi xướng việc xây dựng chùa, đền hang tại núi Bảo Đỉnh.
Bảo Đỉnh Sơn nhỏ là nơi tu tập của thiền sư Zhao và môn đồ.
Khu di tích núi Bảo Đỉnh tập trung chủ yếu tại Bảo Đỉnh Sơn lớn (Dafowan) hay vịnh Đại Phật, gồm 31 nhóm di tích, đánh số từ N1 đến N31.
Các nhóm này di tích này còn được phân loại theo các chủ đề miêu tả: Phật giáo Đại Thừa; Phật giáo Mật Tông, các tông phái Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng địa phương. Phật tử đi hành hương có câu: Thượng bái Nga Mi (cao 3.099m, một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn Trung Quốc), hạ triều Bảo Đỉnh.

Sơ đồ phạm vi Di sản Quần thể tượng khắc đá trên vánh núi Bảo Đỉnh, Đại Túc, Trùng Khánh

Hình ảnh nhóm di tích tại Bảo Đỉnh Sơn lớn (Dafowan), Đại Túc, Trùng Khánh
Sơ đồ vị trí 31 nhóm di tích tại Bảo Đỉnh Sơn lớn (Dafowan), Đại Túc, Trùng Khánh
Quần thể Tượng khắc đá tại Bảo Đỉnh Sơn lớn có một số di tích nổi bật sau:
Di tích N1 – Tượng Ngọa hổ
Bức tượng Ngọa hổ (Prowling Tiger) miêu tả hình ảnh một con hổ rình mồi, tại cổng vào cụm di tích Bảo Đỉnh Sơn lớn (Dafovan).
Bức tượng là tượng trưng cho những thách thức đang chờ đợi một người trên con đường đời tự nâng cao đức tính tốt đẹp của mình.

Bức tượng Ngọa hổ tại Bảo Đỉnh Sơn lớn (Dafowan), Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N2 – Hang tượng 9 vị Hộ Pháp
Mở đầu cho các bức tượng tạc vào vách núi là dãy 9 tượng Hộ Pháp (Nine Dharmapalas). Các vị Hộ Pháp có vai trò truyền niềm tin cho tín đồ rằng họ đang được bảo vệ bởi một lực lượng hùng mạnh. Các vị Hộ Pháp mặc giáp trụ, song lại đi chân không (thể hiện các vị không đi mà bay) và được trang bị nhiều đồ vật khác nhau, trong đó có kiếm…

Di tích hang 9 tượng Hộ Pháp tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N3 - Hang Bánh xe Luân hồi
Bức chạm khắc Bánh xe Luân hồi (Wheel of Reincarnation) minh họa cho thuyết về Nghiệp: là một chu kỳ biến đổi vô tận cuộc sống thành những dạng sống cao hơn hoặc thấp hơn theo những việc làm trong quá khứ.
Bánh xe Luân hồi được ngậm trong miệng của Ma vương, tượng trưng cho sự tồn tại của trần gian.
Mặt bánh xe được trang trí bởi các hình tượng về niềm đam mê của con người.
Bên trái bánh xe là các biểu tượng về: Lòng tham (hình tượng của một quan chức), Ác quỷ (hình tượng binh lính), Ngu ngốc (hình tượng con khỉ) và Dục vọng (hình tượng phụ nữ).
Từ bánh xe phát ra 6 tia, tượng trưng cho sự giác ngộ, cho phép người ta thoát khỏi vòng luân hồi vĩnh cửu.
Các tia phân vòng tròn thành 6 thế giới: Thế giới của các vị thần (devaloka); Thế giới của con người; Thế giới của những ma quỷ; Thế giới của những cư dân địa ngục; Thế giới của động vật; Thế giới của các hào quang.
Vòng giữa minh họa cho một chuỗi các nguyên nhân có liên quan: sự thờ ơ, bệnh tật, cái chết, tuổi già, ham muốn….Vòng ngoài minh họa các dạng biến đổi.

Di tích hang Bánh xe Luân Hồi, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N5 - Hang 3 tượng Phật tổ tông phái Hoa Nghiêm
3 tượng Phật cùa tông phái Hoa Nghiêm (Three Worthies of Huayan) được tạc từ trong một hốc đá có kích thước rộng 15,5m, cao 8,2m và sâu 2m; gồm tượng Phật Như Lai ở chính giữa, hai bên là Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền Bồ Tát. Tay Văn Thù Bồ Tát nâng một ngôi chùa bằng đá nặng khoảng 500 kg.

Di tích hang 3 tượng Phật cùa tông phái Hoa Nghiê, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N8 – Hang tượng Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt
Tượng Bồ Tát ngàn tay (1000-Armed Avalokiteshvara) là một trong tác phẩm điêu khắc đá ấn tượng tại Bảo Đỉnh Sơn lớn (Dafovan).
Quán Thế Âm Bồ Tát được mô tả trong hình ảnh phổ biến với ngàn tay. Trên mỗi lòng bàn tay có một con mắt. Tượng Bồ Tát ngàn tay, ngàn mắt tượng trưng cho khả năng của Bồ Tát, nhìn thấy sự đau khổ của mọi sinh vật và khả năng cứu rỗi chúng sinh của thế giới này ở bất cứ đâu.
Tượng đá cao 7,2m, rộng 12,5m. Số bàn tay thực tế là 1007.

Di tích hang tượng Bồ Tát ngàn tay, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N11 – Hang tượng Phật nhập Niết bàn
Tượng Phật nhập Niết bàn (Parinirvana) miêu tả Phật nằm ngả, dài 31m, chiếm toàn bộ phần phía Đông của Bảo Đỉnh Sơn lớn (Dafowan).
Một phần của tượng chìm vào trong vách đá (thân dưới, vai trái, vai và cánh tay phải).
Tổng chiều dai của tổ hợp tượng khoảng 42-44m.
Phía trên và dưới thân tượng được trang trí bằng nhiều các pho tượng nhỏ của các vị bồ tát chứng kiến và hộ pháp bảo vệ Phật nhập Niết Bàn. Ngoài ra, dãy tượng nhỏ phía dưới còn có cả các vị thiền sư nổi tiếng Trung Quốc thời bấy giờ (như Zhao Zhifeng, Liu Benzun…).
Một phần các pho tượng nhỏ cũng chìm vào trong vách đá.

Di tích hang tượng Phật nhập Niết bàn, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N13 – Hang tượng Phật tắm
Bức tượng Phật tắm (Nagas Bathe Shakyamuni) miêu tả cảnh Đức Phật khi còn trẻ tắm dưới dòng nước phun ra từ miệng thần rắn Naga nhiều đầu. Tượng Phật tắm nằm bên cạnh tượng Phật nhập Niết Bàn, thể hiện chuỗi sinh tử.

Di tích hang tượng Phật tắm, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N14- Hang tượng Khổng Tước Minh Vương
Sự sùng bái Mahamayuri (Khổng Tước Minh Vương) đã lan rộng ở Tứ Xuyên. Tương tự như tại di tích N155 của Khu di tích Tượng khắc đá núi Bắc Sơn (Beishan), tượng thể hiện vị thần dưới dạng hình tượng là một con công, vật cưỡi của Phật Mẫu Chuẩn đề. Khổng Tước Minh Vương là biểu tượng tượng trưng cho sức mạnh, chống lại hạn hán và nhiều kiếp nạn khác.

Di tích hang tượng Khổng Tước Minh Vương, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N15- Hang trụ cột Vairocana
Di tích trụ cột Vairocana (Vairocana Pillar) đại diện cho nơi ở linh thiêng của Phật Thích Ca Mâu Ni (Vairocana). Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật Thích Ca Mâu Ni là vị thần tối cao, người chủ trì vô số vũ trụ, trong đó mỗi vũ trụ có mỗi vị Phật Thích Ca Mâu Ni được sinh ra để thuyết pháp. Ý tưởng về nhiều vũ trụ có nguồn gốc sâu xa trong tư tưởng Ấn Độ giáo và được quan tâm cả trong vũ trụ học đương đại.

Di tích hang trụ cột Vairocana tượng, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N 15 – Hang tượng miêu tả Kinh tình yêu của cha mẹ
Kinh về tình yêu thương của cha mẹ (Parents Bestowing Kindness on Their Children) được tạo ra ở Trung Quốc, là sự kết hợp giữa một số nội dung Nho giáo và Phật giáo, theo hướng bản địa hóa Phật giáo tại Trung Quốc.
Cụm tượng được tạc trong một hốc đá rộng 14,5m, cao 7m và sâu 2,5m, chia thành hai phần.
Phần trên là các bức tượng của 7 vị Phật tổ: Vipashin, Shikhin, Vishvabhu, Krakuchchanda, Kanakamuni, Kashama.
Phần dưới là các nhóm tượng miêu tả câu truyện về tình yêu thương của cha mẹ với con cái và con cái chăm sóc cha mẹ, ví dụ như: Cảnh cha mẹ cầu xin Đức Phật ban cho họ con cái; Câu chuyện người mẹ mang thai; Câu chuyện cha mẹ nuôi và chăm sóc con.

Di tích hang miêu tả Kinh tình yêu thương của cha mẹ,, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N21 – Hang tượng Miêu tả địa ngục
Cụm tượng miêu tả cảnh xét xử nơi địa ngục (Judges Of Hell) thuộc cụm tượng lớn nhất tại Bảo Đỉnh Sơn lớn (Dafowan), nằm trong một hốc đá rộng 19,5m và cao khoảng 14m.
Cụm tượng được phân thành 4 tầng.
Tầng thứ tư, cao nhất nằm dưới vòm mái, bao gồm 10 hốc tròn, mỗi hốc chạm khắc một hình tượng Phật.
Tầng thứ ba là những hình ảnh điêu khắc của 10 vị thẩm phán Phật giáo với vị Địa Tạng bồ tát (Ksitigarbha) ở chính giữa.
Tầng thứ thứ nhất và thứ hai, chứa đầy các nhóm tượng thể hiện các hình ảnh trừng phạt kinh hoàng dưới địa ngục theo từng loại tội lỗi.

Di tích hang tượng Miêu tả địa ngục, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N 28 – Hang tượng Sư tử gầm
Hang Sư tử gầm (Lion Roared Lion) thể hiện một con sử tử, được lắp đặt ở lối vào Hang động Khai sáng (N29) và đại diện cho sức mạnh của một bài giảng Phật giáo; theo truyền thống Phật giáo, bài giảng của Phật Gautama được so sánh với tiếng gầm của một con sư tử.

Di tích hang tượng Sư tử gầm, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích N 29 - Hang tượng Khai sáng
Hang động khai sáng (Grotto of Complete Enlightenment) rộng 9m, sâu 12m và cao 6m, hành lang lối vào rộng 3,9m. Các bức tượng chạm khắc trong hang miêu tả một cảnh giác ngộ trong kinh điển Phật giáo.
Bồ tát quỳ gối trước bộ ba Tam Thế Phật (Phật Thích Ca Mâu Ni (trái), Đại Phật Như Lai (Vairochana, ở giữa), Phật A Di Đà (phải) để tiếp nhận các giáo lý.
Dọc theo các bức tường hai bên là tượng của 12 vị bồ tát.

Di tích hang tượng Khai sáng, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Kết thúc các di tích tại vịnh Đại Phật tại núi Bảo Đỉnh là di tích N31 – Ngụ ngôn về sự Giác ngộ (Oxherding Parable) minh họa quá trình giác ngộ thông qua hình tượng người chăn gia súc dần thuần hóa con bò của mình.

Di tích hang tượng Ngụ ngôn về sự Giác ngộ, tại Bảo Đỉnh Sơn lớn, Đại Túc, Trùng Khánh
Tượng khắc đá núi Nam Sơn (Nanshan)
Tượng khắc đá trên vách núi Nam Sơn (Nanshan Cliffside Carvings) nằm cách thị trấn Đại Túc khoảng 2km về phía Nam. Núi có cao độ 514m so với mực nước biển.
Khu di tích Tượng khắc đá núi Nam Sơn có diện tích 3,59ha; vùng đệm có diện tích 64,26ha.
Tượng khắc đá trên vách núi Nam Sơn (Nanshan, trước đây còn có tên là Guanghuashan) có niên đại trong khoảng năm 1131 – 1162, thời Nam Tống (1127-1279), được chạm khắc trên một vách đá dài 86m, với chiều cao từ 3,5m đến 10,2m.
Di tích Tượng khắc đá Nam Sơn theo chủ đề Đạo giáo, phản ánh sinh động quá trình thay đổi đức tin vào thế kỷ thứ 12. Tại đây có 15 nhóm di tích hang tượng với 421 bức tượng, trong đó nổi bật nhất là hang Đạo giáo Tam Thanh.

Sơ đồ phạm vi Di sản Quần thể tượng khắc đá trên vánh núi Nam Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Di tích hang Đạo giáo Tam Thanh
Di tích hang Đạo giáo Tam Thanh (Cave of Taoist Trinity) gồm một khối trụ đặt tại trung tâm.
Trong hốc của khối trụ chạm khắc 3 vị thần tiên tối cao trong Đạo giáo Trung Quốc (Three Pure Ones), gồm: Ngọc Thanh Nguyên Thuỷ Thiên Tôn; Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn; Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn, cũng chính là Thái Thượng Lão Quân, giáng thân Lão Tử là Tổ Đạo Giáo, cùng các vị hầu cận.
Xung quanh 3 mặt hang, bao quanh khối trụ là chạm khắc tượng 360 vị thần tiên Đạo giáo.
Di tích Tượng khắc đá Nam Sơn là nơi có số lượng lớn nhất và tập trung nhất các bức tượng Đạo giáo tại Trung Quốc. Vì vậy, đây là nơi thu hút những người quan tâm nghiên cứu các nhân vật và triết lý Đạo giáo.

Di tích hang Đạo giáo Tam Thanh, núi Nam Sơn, Đại Túc, Trùng Khánh
Tượng khắc đá núi Thạch Triện (Shizhuanshan)
Tượng khắc đá núi Thạch Triện (Shizhuanshan Cliffside Carvings) nằm tại thị trấn Sanqu, cách thị trấn Đại Túc 25km về phía Tây Nam.
Núi Thạnh Triện có cao độ 444,6m so với mực nước biển.
Khu di tích Tượng khắc đá núi Thạch Triện có diện tích 0,21ha; vùng đệm có diện tích 2,65ha.
Khu di tích có niên đại vào năm 1082 – 1096 (thời Bắc Tống, 960- 1127) trên một vách đá dài khoảng 130m và rộng 3 - 8m.
Đây là khu vực khắc đá sớm nhất, thể hiện sự kết hợp Tam giáo: Nho giáo (Confucianism), Phật giáo (Buddhism) và Đạo giáo (Taoism).
Tại đây có 10 nhóm di tích, trong đó có di tích hang tượng N6 chạm khắc tượng Khổng Tử và 10 học trò ưu tú nhất của ông. Đây là điều hiếm có trong chạm khắc đá tại Trung Quốc.

Sơ đồ phạm vi Di sản Quần thể tượng khắc đá trên vánh núi Thạch Triện, Đại Túc, Trùng Khánh

Hình ảnh Di tích hang tượng Khổng Tử và 10 học trò, núi Thạch Triện, Đại Túc, Trùng Khánh
Tượng khắc đá núi Thạch Môn (Shimenshan)
Tượng khắc đá núi Thạch Môn (Shimenshan Cliffside Carvings) nằm tại thị trấn Shima, cách thị trấn Đại Túc khoảng 20km về phía Đông Nam. Núi Thạch Môn có cao độ 374m so với mực nước biển.
Khu di tích Tượng khắc đá núi Thạch Môn có diện tích 1,06ha; vùng đệm có diện tích 6,80ha.
Di tích hang tượng núi Thạch môn có niên đại từ năm 1094- 1151 (thời Bắc Tống, 960- 1127). Toàn bộ di tích được chạm khắc trên một vách đá dài 71,8m, với chiều cao 3,4 - 5m.
Chạm khắc đá tại núi Thạch môn chủ yếu miêu tả câu chuyện của các nhân vật trong Phật giáo và Đạo giáo, thể hiện sự bao dung giữa Phật giáo và Đạo giáo.
Các chạm khắc đá về sự tích Đạo giáo là phần mang tính nghệ thuật nhất, thể hiện những nội dung cô đọng và trang nghiêm của cuộc sống; cũng như thể hiện các kỹ năng bậc cao của nghệ thuật điêu khắc đá Trung Quốc. Tại đây có tổng cộng 16 nhóm di tích hang tượng.

Sơ đồ phạm vi Di sản Quần thể tượng khắc đá trên vánh núi Thạch Môn, Đại Túc, Trùng Khánh

Một trong những hình ảnh Di tích hang tượng khắc đá núi Thạch Môn, Đại Túc, Trùng Khánh
Các di tích chạm khắc đá Đại Túc, Trùng Khánh, Trung Quốc như một bảo tàng mở, lưu giữ một loại hình nghệ thuật tôn giáo với những tác phẩm điêu khắc đá đặc biệt về chất lượng thẩm mỹ, đa dạng phong phú về chủ đề thế tục và tôn giáo; góp phần làm sáng tỏ đời sống xã hội thường ngày ở Trung quốc vào thế kỷ 9 – 13 và là minh chứng nổi bật về sự tổng hợp hài hòa giữa Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo thời bấy giờ.
Các di tích chạm khắc đá Đại Túc, Trùng Khánh như một trường học mở với vai trò định hình niềm tin, truyền tải văn hóa và giáo dục xã hội. Đông đảo người Trung Hoa đến đây tự học hỏi các bài học sinh động từ những sự tích Tam giáo, để mà cố gắng làm những điều tốt đẹp nhất.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
http://whc.unesco.org/pg.cfm?cid=31&id_site=912
https://en.wikipedia.org/wiki/Dazu_Rock_Carvings
https://sites.google.com/a/brandeis.edu/dazu/5-mountains
https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Beishan_(Dazu)
https://webshus.ru/3345
http://www.art-and-archaeology.com/china/beishan/be01.html
https://en.wikipedia.org/wiki/Baodingshan
http://www.art-and-archaeology.com/china/baoding/ba06.html
https://sites.google.com/a/brandeis.edu/dazu/5-mountains/nanshan
https://sites.google.com/a/brandeis.edu/dazu/5-mountains/shizhuanshan
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|