Thông tin chung:
Công trình: Khu di tích Gò Tháp, Tháp Mười, Đồng Tháp
Địa điểm: xã Mỹ Hòa và Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp (10,583°B 105,8°Đ)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích khoảng 290ha
Năm thực hiện:
Giá trị: Di tích quốc gia đặc biệt (Di tích kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ, năm 2012).
Xưa kia, nơi này là vùng trũng, chỉ có một khu đất gồm nhiều gò nhỏ không bị ngập vào mùa nước nổi. Tại đây, người dân vương quốc Phù Nam đã xây dựng nơi cư trú, sinh kế và dựng các đền thờ (Hindu giáo, Phật giáo).
Vùng đất này có nhiều tên, vào thời vua Tự Đức (hoàng đế thứ 4 triều Nguyễn, trị vì năm 1847 – 1883), được gọi là “Thập Tháp” (nơi có hàng chục đền tháp). Qua thời gian, người ta gọi vùng đất trũng, phèn mênh mông rừng tràm xen kẽ những cánh đồng rộng lớn bao quanh khu vực “Thập Tháp” là Đồng Tháp Mười. Ngày nay, địa danh Đồng Tháp Mười bao gồm phần lớn tỉnh Đồng Tháp và một phần các tỉnh Long An, Tiền Giang.
Khu di tích Gò Tháp tọa lạc tại địa bàn hai xã Mỹ Hòa và Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, nằm cách Đông Bắc thành phố Cao Lãnh (tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp) khoảng 27 km; phía Bắc thị trấn Mỹ An (huyện lỵ huyện Tháp Mười) khoảng 10 km.
Di tích Gò Tháp được biết đến từ những năm đầu thế kỷ 20, khi một số nhà nghiên cứu người Pháp đến đây khảo sát và công bố những phát hiện quan trọng về một số dấu tích kiến trúc, tượng thờ, bia đá và văn tự cổ…của nền văn hóa Óc Eo, thuộc vương quốc Phù Nam xưa.
Những năm sau này, Di tích Gò Tháp tiếp tục được các nhà khảo cổ học Việt Nam khảo sát, đào thám sát và khai quật nhiều lần nhằm hiểu rõ thêm về nền văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam.
Vương quốc Phù Nam và nền văn hóa Óc Eo
Vương quốc Phù Nam
Phù Nam là tên gọi của một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện vào năm 68 sau Công nguyên tại vùng hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông, ngày nay thuộc một phần Campuchia, Myanma, Thái Lan và Việt Nam.
Theo nhiều thư tịch cổ, trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này, về phía Đông, đã kiểm soát vùng đất phía Nam Trung Bộ, Việt Nam; về phía Tây, đến Thung lũng sông Mê Nam,Thái Lan; về phía Nam, đến phía Bắc bán đảo Mã Lai (gồm một phần của Myanma, Thái Lan và Malaysia).
Vương quốc Phù Nam hưng thịnh đến năm 550, dần bị thu hẹp, đến năm 628 bị vương quốc Chân Lạp tại phía Tây và Dvaravati tại phía Nam thôn tính. (Vương quốc Chân Lạp là nhà nước đầu tiên của người Khmer, tồn tại năm 550 - 802 trên phần phía Nam bán đảo Đông Dương; Vương quốc Dvaravati tồn tại từ thế kỷ thứ 6 - thế kỷ 11, là một tập hợp các thị quốc của người Môn ở dọc sông Chao Phraya, Thái Lan).
Kinh đô của vương quốc Phù Nam, ban đầu là đô thị Vyadhapura (nay là huyện Ba Phnum, tỉnh Prey Veng, Campuchia, hoặc đô thị Angkor Borei (nay là huyện Angkor Borei, tỉnh Takéo, Campuchia); Từ thế kỷ thứ 2 - 7, kinh đô dịch chuyển về đô thị Kottinagar tại phía Đông (nay là thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Việt Nam). Nguyên nhân dời đô được cho là tránh hiểm nguy từ vương quốc Chân Lạp láng giếng, hoặc chuyển tới vùng đất thịnh vượng hơn nhờ kinh tế thương mại gắn với biển. Người Phù Nam có nước da đen, búi tóc, đi chân đất; thích chọi gà…
Ngôn ngữ thông dụng là tiếng Khmer cổ và tiếng Phạn (Sanskrit).
Tôn giáo chính là Ấn Độ giáo (Hindu giáo) và Phật giáo. Shiva là vị thần tối cao được tôn thờ, tiếp đó là thần Vishnu (Shiva là hiện thân của sự hủy diệt; Vishnu là đấng bảo hộ; Brahma là người sáng tạo. Đây là 3 vị thần tối cao trong Hindu giáo) và Đức Phật. Về sau, Hindu giao thay thế hoàn toàn Phật giáo.
Về chính thể, chế độ phong kiến tập quyền (chính quyền tập trung ở trung ương do nhà vua nắm giữ) thay thế chế độ phong kiến phân quyền (do các lãnh chúa cát cứ tại các địa phương). Lúc vua ra ngoài thì cưỡi voi thể hiện uy quyền.
Về kinh tế, ngoài nông nghiệp, sản xuất dựa vào khai thác và chế tác đá quý, vàng bạc, đồng, thiếc, trầm hương, mộc hương, ngà voi, lông chim. Người dân dùng vàng, đá quý, hương liệu để nộp thuế. Thời kỳ huy hoàng của vương quốc gắn liền với hoạt động giao thương ven biển, giữa một đầu là bán đảo Mã Lai cùng Ấn Độ và đầu kia là Trung Quốc. Thuyền đi lại trên biển có kích thước khá lớn, dài tới 30m.
Về xây dựng, vua và hoàng gia ở nhà lầu nhiều tầng bằng gỗ, có thành lũy bao quanh; dân dùng lá dừa nước để lợp nhà.
Từ giữa thế kỷ 3 đến đầu thế kỷ 6, Phù Nam khống chế nền thương mại hàng hải ở Đông Nam Á, bành trướng lãnh thổ ra các nước láng giềng, trong đó có cả Lâm Ấp (Chiêm Thành).
Từ cuối thế kỷ 6, Phù Nam dần suy yếu và thường xuyên bị Chân Lạp tấn công; cầm cự một thời gian, đến đầu thế kỷ 7 thì sụp đổ. Sau khi vương quốc Phù Nam tàn lụi, cư dân cổ tại đây vẫn tiếp tục tranh đấu cho đến thế kỷ 12, mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là thời kỳ Hậu Phù Nam.
Sự tan rã vương triều Phù Nam bắt nguồn từ một số nguyên nhân:
- Chế độ phong kiến tập quyền đã hình thành song chưa định hình được văn hóa bản địa, phụ thuộc quá nhiều vào đức tin ngoại nhập (đầu tiên là Phật giáo, tiếp đến là Hindu giáo), dẫn đến không tập trung được sức mạnh dân tộc trong việc bảo vệ nền độc lập;
- Từ thế kỷ thứ 6, do sự phát triển của nghề hàng hải, tuyến vận tải trên biển dần thay thế tuyến vận tải ven bờ; Hải trình qua eo biển Kra (Thái Lan) chuyển dần xuống phía Nam qua eo biển Malacca (Malaysia) và Sunda (Indonesia). Càng về sau, hải trình này càng giữ vai trò chi phối giao thương từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, từ Trung Quốc qua Đông Nam Á sang Ấn Độ. Ngoại thương của Phù Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng, làm suy yếu nền kinh tế của vương quốc;
- Khoảng thế kỷ thứ 7, xuất hiện một đợt biển tiến với mực nước biển dâng cao trung bình là 0,8m, ảnh hưởng lớn đến hoạt động canh tác nông nghiệp của vương quốc.
Vào thế kỷ 17, một phần lãnh thổ được coi là trung tâm của Phù Nam xưa, tách khỏi Chân Lạp, trở thành một phần của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay.
Phù Nam và Chăm Pa khoảng thế kỷ 3 sau Công nguyên.
Nền Văn hóa Ốc Eo và Khu di tích Óc Eo – Ba Thê, An Giang
Khu di tích Óc Eo – Ba Thê, nằm tại thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, cách vịnh Thái Lan 26km, về phía Tây Nam.
Vào năm 1942- 1945, nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret (1901- 1970) đã tiến hành đào các hố khai quật tại Óc Eo và đã phát hiện được nhiều di vật, cổ vật và nền móng của các công trình. Các di tích này trở thành minh chứng cho sự tồn tại của một địa điểm thương mại lớn, rộng chừng 450ha, mà các thư tịch xưa đã từng miêu tả về vương quốc Phù Nam.
Tên gọi Óc Eo ban đầu dùng để chỉ cấu trúc hình chữ nhật bên trong khu vực khai quật, nhưng sau đó được nhà khảo cổ Malleret dùng để chỉ toàn bộ khu vực khai quật.
Sau năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam cũng đã tiến hành nhiều cuộc khai quật, nghiên cứu về Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam. Những di tích và hiện vật tìm được chứng tỏ Óc Eo – Ba Thê là một đô thị cổ, một cảng thị lớn nhất của vương quốc Phù Nam.
Theo thời gian, không gian khảo cổ ban đầu mở rộng thêm ra thành khu Óc Eo – Ba Thê, (An Giang) và xuất hiện nhiều khu vực khảo cổ mới như: khu Gò Tháp (Đồng Tháp); khu Nền Chùa (Kiên Giang); khu Đá Nổi (An Giang); khu Cây Gáo (Đồng Nai); khu Lưu Cừ (Trà Vinh); Gò Thành (Tiền Giang)…Trong đó, Khu di tích Óc Eo – Ba Thê (An Giang), Khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp) và Khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang) là 3 khu di tích tiêu biểu của nền Văn hóa Óc Eo.
Khu di tích Óc Eo – Ba Thê là địa điểm khảo cổ có quy mô rộng lớn nhất, tập trung nhiều di tích nhất, di tích đa dạng nhất về chủng loại, cao nhất về trình độ kỹ thuật và nghệ thuật tại vương quốc Phù Nam xưa. Những hiện vật khảo cổ tìm được không chỉ giúp xác định niên đại của vương quốc Phù Nam, mà còn cho thấy, nơi đây không chỉ là chốn đô hội lớn, một cảng thị, mà còn là một trung tâm chính trị, kinh tế - văn hóa của vương quốc Phù Nam; khẳng định vị trí và vai trò cảng thị Óc Eo trong quan hệ giao lưu rộng rãi với Đông Á, Nam Á và Tây Á.
Những di vật khai quật được tại di tích Óc Eo – Ba Thê có thể phân thành các nhóm: Cổ vật tôn giáo; Di vật liên quan đến nghề tiểu thủ công nghiệp; Di vật điêu khắc; Di vật xây dựng; Di vật liên quan đến thương mại và giao lưu văn hóa.
Những cổ vật tôn giáo quan trọng được phát hiện tại Óc Eo – Ba Thê là các linh vật Mukha – Linga (tượng Linga có gắn mặt vua) và Yoni; tượng thần Mặt Trời Surya bằng đồng; tượng thần Vishnu bằng đá…
Di vật liên quan đến nghề tiểu thủ công nghiệp tại đây hết sức đa dạng, phong phú về đề tài trang trí, về kỹ thuật và số lượng hơn hẳn so các hiện vật phát hiện tại Angkor Borei và các nơi khác. Các đồ trang sức bằng vàng ở đây là minh chứng về một nền văn minh vật chất khá cao, là cơ sở cho phát triển kinh tế cũng như văn hóa và nghệ thuật. Các di vật khảo cổ cũng cũng cho thấy nhiều ngành nghề đã được phát triển như: Chế tác đồ kim khí như đồng, sắt; thiếc; nghề kim hoàn và đúc tiền bằng bạc; nghề làm đá quý và thủy tinh (trong đó có nhẫn và các hạt chuỗi luôn được đánh giá cao về thẩm mỹ); nghề chạm khắc đá; nghề đồ gốm (gốm gia dụng, gốm xây dựng và trang trí kiến trúc). Các nhà khảo cổ cũng tìm thấy nhiều di vật liên quan đền nghề làm muối.
Di vật điêu khắc tìm thấy khu vực văn hóa Óc Eo – Ba Thê gồm tượng, chạm khắc trên đá và kim loại quý; những con dấu, nhẫn bằng vàng, bạc, lá vàng… bề mặt khắc hình người, động vật. Ngoài ra, còn phát hiện được một số bia đá chạm khắc dạng chữ Phạn cổ (Sanskrit). Các di vật điêu khắc tại đây thể hiện giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật điêu khắc Phù Nam là từ thế kỷ 5- 7, xu hướng bản địa hóa các hình tượng thánh thần, linh thú, mặc dù vẫn còn chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ.
Di vật xây dựng tại đây rất đa dạng. Một kênh đào dài 90km, nối Óc Eo với thành phố cổ Angkor Borei (Takéo, Campuchia) đã được phát hiện. Từ đường nước chính này hình thành một mạng lưới nhánh đan xen, lan tỏa, nối liền khu vực này với biển (vịnh Thái Lan), với khu vực núi và giữa các khu vực cư trú với nhau. Mạng lưới đường nước, ngoài chức năng giao thông, còn mang chức năng thủy lợi tiêu thóat nước. Trong thành phố cổ, hệ thống kênh đào nhánh tạo thành các ô đất hình chữ nhật đều đặn. Bên trong các ô đất này, ngoài di tích sản xuất tiểu thủ công nghiệp, còn phát hiện các di tích cư trú, kiến trúc đền tháp, giếng và mộ táng.
Di tích cư trú được làm bằng gỗ hay bằng gạch trên một nền móng vững chắc. Các toà nhà rộng thường xây bằng gạch. Tại khu vực đất thấp, sử dụng kiểu nhà sàn bằng gỗ đặt trên hệ thống cọc.
Đền tháp được xây dựng bằng gỗ, đá và gạch. Gỗ và đá là nguyên vật liệu có từ thời tiền sử, còn gạch là vật liệu mới do tiếp thu kỹ thuật của Ấn Độ từ đầu Công nguyên. Vật liệu đá có kích thước lớn, là cấu trúc xây dựng chứ không chỉ là các chi tiết để trang trí, được lắp ghép bằng kỹ thuật chốt mộng. Nền móng dày đến hơn 1m, xây bằng đất sét nện chặt, gia cố bằng đá và gạch, để có thể chịu lực của công trình đồ sộ bên trên.
Tại đây đã phát hiện được loại hình mộ táng mà trước đây các học giả Pháp chưa biết đến. Đó là các huyệt mộ hình vuông, hình chữ nhật hay hình phễu, bên trên ốp gạch hay lát đá tạo thành bề mặt khá bằng phẳng. Trong các huyệt mộ có cát trắng lẫn nhiều hiện vật quý giá như các mảnh vàng chạm khắc những biểu tượng của Hindu giáo hay Phật giáo, đồ trang sức, một số đồ tùy táng khác.
Tại Óc Eo – Ba Thê cũng đã phát hiện các loại tiền nước ngoài, thể hiện mối quan hệ giao thương của vương quốc Phù Nam với các quốc gia bên ngoài. Qua kiến trúc, hệ thống tượng thờ, đồ trang sức, chạm khắc hoa văn, chữ viết, cho thấy nền văn hóa Óc Eo chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa, tôn giáo Ấn Độ (Hinhdu giáo, Phật giáo). Tại đây cũng tìm thấy các di vật huy chương, tượng đồng, chuỗi hạt …đến từ La Mã, Ba Tư, Trung Hoa…
Khu Di tích Gò Tháp, Tháp Mười, Đồng Tháp
Khu di tích Gò Tháp cách phía Tây Bắc Khu di tích Óc Eo – Ba Thê khoảng 85km; có cao độ so với mực nước biển là 5,0m, cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 3,8m, với diện tích khoảng 290ha, nằm trên địa bàn 2 xã Mỹ Hòa, Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Ngay từ khi tiến hành các đợt khai quật khu vực Gò Tháp vào những năm 1984, 1993, 1996, 1998 và gần đây nhất vào năm 2013, các nhà khảo cổ đã phát hiện 14 di tích đền đài, miếu mạo cổ xưa của người Phù Nam. Nổi bật nhất là các tàn tích đền thần Vishnu ở gò Tháp Mười; đền thờ thần Shiva ở Gò Minh Sư; đền thờ thần Mặt Trời ở gò miếu bà Chúa Xứ và Tháp Linh cổ tự…
Cũng tương tự như nhưng di vật khai quật được tại di tích Óc Eo – Ba Thê, di vật khai quật tại Di tích Gò Tháp, Tháp Mười, Đồng Tháp cũng có thể phân thành các nhóm: Cổ vật tôn giáo; Di vật liên quan đến nghề tiểu thủ công nghiệp; Di vật điêu khắc; Di vật xây dựng (đường nước, cư trú, mộ táng); Di vật liên quan đến thương mại và giao lưu văn hóa.
Tại đây, việc xây dựng đền tháp được thực hiện trên cơ sở phối hợp giữa công nghệ xây dựng đền tháp Ấn Độ với công nghệ xây dựng bản địa, ví dụ như sử dụng gỗ để gia cố móng chống lún và đắp thêm đất mở rộng gò; kỹ thuật xây dựng gạch không dùng vữa (tương tự như việc xây dựng các ngôi đền tháp Champa)…
Ngoài ra, Khu di tích Gò Tháp còn có các thiết chế tôn giáo và tín ngưỡng với nhiều giai thoại dân gian mang màu sắc huyền bí, tâm linh; đền thờ những người có công tích với dân với nước trong các giai đoạn lịch sử sau này.
Quần thể di tích Gò Tháp gồm 2 nhóm di tích: i) Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ: Khu di tích gò Tháp Mười, Khu di tích gò Minh Sư, Khu di tích gò miếu Bà Chúa Xứ…; ii) Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật: Miếu Bà Chúa Xứ; Tháp Linh Cổ Tự; Đền thờ Đốc Binh Nguyễn Tấn Kiều; Đền thờ Thiên Hộ Võ Duy Dương…
Sơ đồ vị trí một số di tích chính tại Khu di tích Gò Tháp, Tháp Mười, Đồng Tháp
Cổng vào Khu di tích Gò Tháp, Tháp Mười, Đồng Tháp
Các cổ vật bằng vàng tại Khu di tích Gò Tháp, Tháp Mười, Đồng Tháp
Khu di tích gò Tháp Mười
Di tích lịch sử và khảo cổ Gò Tháp Mười là khu di tích khởi nguồn và quan trọng nhất trong Khu di tích Gò Tháp.
Từ những cuộc khảo sát (năm 1944), nhà khảo cổ học người Pháp L.Malleret đã phát hiện trên Gò Tháp có nhiều tàn tích gạch và hàng chục khối đá lớn, cột, biểu tượng yoni, (như 3 cột lớn bằng đá hoa cương mặt cắt ngang hình vuông cạnh 0,48 m, dài 1,56m, 1,10m và 1,42m, một đầu có chốt, đầu kia có mộng để ghép nối theo chiều cao).
Ngoài những phát hiện của các học giả người Pháp, sau năm 1975 các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và phát hiện thêm nhiều hiện vật khảo cổ có giá trị về lịch sử và văn hóa của nền văn hóa Óc Eo.
Điển hình nhất là tàn tích gạch của một đền thờ thần Vishnu, dài 17,30 m (theo hướng Đông - Tây), rộng 12m (Bắc - Nam), dật cấp tại góc, đối xứng qua trục Đông - Tây. Kiến trúc khá quy mô và là trung tâm của nhiều kiến trúc khác xung quanh. Di vật bên trong gồm những mảnh gốm bình ấm có vòi, một số mảnh vỡ của Yoni, tượng Visnu, các hiện vật bằng vàng chạm khắc hình bánh xe Chakra, chim thần Garuda…gắn với thần Vishnu.
Tại đây cũng tìm thấy một tấm bia đá có niên đại vào thế kỷ 5. Nội dung văn bia liên quan đến việc thờ thần Vishnu. Văn bia cũng cho biết, vùng này trước đây là đầm lầy, vua Phù Nam có tên Jayavarman và phong cho con trai là Gunavarman cai quản.
Quy mô tàn tích kiến trúc, hệ thống đường nước và di vật mới phát hiện trong khu di tích Gò Tháp Mười thêm khẳng định khu vực này từng là một trung tâm tôn giáo - văn hóa từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8 không chỉ của vùng Đồng Tháp Mười mà còn cả của vương quốc Phù Nam.
Trên gò Tháp Mười hiện có nhiều cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Trong đó có cây Trôm đã dược công nhận là cây di sản Việt Nam.
Di vật bia đá phát hiện được tại Khu Di tích gò Tháp Mười, Đồng Tháp
Mái che hố khai quật Di tích đền thần Vishnu, Khu Di tích Gò Tháp Mười, Đồng Tháp
Bên trong hố khai quật Di tích đền thần Vishnu, Khu Di tích Gò Tháp Mười, Đồng Tháp
Tượng thần Vishnu, khai quật năm 1998 tại Khu Di tích Gò Tháp Mười, Đồng Tháp
|
Tượng thần Vishnu, khai quật năm 2018 tại Khu Di tích Gò Tháp Mười, Đồng Tháp |
Khu di tích gò Minh Sư
Khu di tích gò Minh Sư nằm về phía Tây Bắc Khu di tích gò Tháp Mười, cách khoảng 343m.
Gò cao 3,96m so với mặt ruộng xung quanh, rộng 1200m2, dạng gần vuông.
Trong 2 đợt khai quật khảo cổ vào các năm 1984 và 1993, lúc đầu đã phát hiện 9 phế tích nghi là mộ cổ. Những phế tích này được xây dựng với quy mô khá lớn, có khuôn viên bao quanh, vật liệu chủ yếu là gạch. Những di vật khai quật giai đoạn tiếp theo cho thấy nơi đây là đền thờ thần Shiva với các hiện vật có liên quan như đinh ba Vajra, bò thần Nandin, đồng thời cũng là nơi cư trú và an táng trong một thời gian rất dài, khoảng từ thế kỷ thứ 1 đến thể kỷ 8 sau Công nguyên.
Tại đây đã diễn ra nhiều cuộc khai quật khảo cổ.
Tháng 1/2001 đã phát hiện một khu cư trú cùng mộ táng cách chân gò Minh Sư chừng 120 m về phía Đông Nam với địa tầng còn nguyên vẹn. Trong di chỉ tìm thấy nhiều di vật đá nhưng hiện vật chiếm tỷ lệ nhỏ, song đồ đất nung gồm mảnh ngói, tượng khỉ, dấu ấn, mảnh phù điêu, vòi yoni…và đồ gốm khá phong phú, có tới hơn 18.000 mảnh của các loại bình, vò, nồi. Một số lượng lớn bình vò, nồi lớn không chỉ dùng cho mục đích sinh hoạt mà còn dùng để đựng tro hỏa táng. Tại đây, các mộ táng với các bình đựng tro được xây dựng khá tập trung.
Tháng 3/2002, các nhà khảo cổ đã phát hiện thêm nhiều hố mộ có dạng lòng chảo hoặc hình phễu, đáy lót cát hoặc có thêm lớp đất sét xám xanh bên dưới. Bên trên có các đồ gốm vỡ, xương thú, than tro, sỏi nhỏ và nhiều hiện vật khác…Bên cạnh hiện tượng hỏa táng có thể đã tồn tại hiện tượng hung táng. Ngoài số lượng lớn di vật gốm, đá, xương, thủy tinh, kim loại, gỗ…còn phát hiện xỉ thủy tinh, xỉ kim loại, cốc rót kim loại, mảnh vỡ của các tấm đá…cho thấy sự phát triển của nhiều ngành nghề thủ công ở đây.
Tháng 4/2003, di tích gò Minh Sư được khai quật lần thứ ba, đã làm rõ thêm các đặc điểm của di chỉ cư trú kiêm mộ táng.
Năm 2009, tại đây đã phát hiện những khối gạch được xây theo kiểu hình trụ đứng; cho thấy đây là một kiến trúc đền thờ thần Shiva thuộc nền văn hóa Óc Eo. Từ trung tâm tàn tích tỏa đi các hướng là các khối gạch được xếp theo hình chữ nhật với chiều dài khoảng 12 m. Ngoài ra, trong đợt khai quật lần này đã phát hiện nhiều hiện vật như khuyên tai bằng vàng, vòng đeo tai bằng đồng, điêu khắc hình đầu ngựa, hình bánh xe và một số đĩa nhỏ...
Đặc biệt là tìm thấy ở bờ tường khu vực phía Nam Khu di tích một chiếc nhẫn vàng khắc hình con ốc Sankha, biểu tượng của thần Vishnu, xung quanh có chạm dây lá cách điệu.
Năm 2013, tại phía Tây di tích gò Minh Sư đã tìm thấy tượng thần Vishnu bị mất tay và khoảng 80 hiện vật bằng vàng, có chạm khắc hình con bò, hình bánh xe và một số đồ trang trí mỹ nghệ khác...Đây được cho là đồ tế lễ các vị thần Hindu giáo.
Công trình mái che hố khai quật Khu di tích gò Minh Sư, Tháp Mười, Đồng Tháp
Bên trong hố khai quật Khu di tích gò Minh Sư, Tháp Mười, Đồng Tháp
Khu di tích phía Nam chùa Tháp Linh – đền thờ thần Mặt Trời 1
Khu di tích phía Nam chùa Tháp Linh nằm cách chùa khoảng 120m.
Khu di tích được phát hiện và khai quật vào năm 2010.
Toàn bộ nền và móng kiến trúc là khối đặc xây bằng gạch, gồm các loại gạch màu đỏ, nâu đỏ, vàng nhạt, kích thước trung bình 30cm x 15cm x 8cm.
Ở trung tâm của đền, ngay dưới độ sâu 0,2m đã tìm thấy các viên đá xếp thành hình tròn. Bên dưới vòng tròn thu hẹp dần tạo dạng hình phễu và dưới cùng, ở độ sâu 1,37m tìm được hai mảnh vàng, trong đó có một mảnh có vòng tròn hình mặt trời với 8 tia hoặc là bánh xe có 8 nan và một mảnh có hình tia mặt trời. Di tích này có niên đại khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 3, được cho là ngôi đền thờ thần Mặt Trời (Surya, thường được mô tả cưỡi một cỗ xe 7 ngựa kéo). Tại khu di tích Gò Tháp, di tích này được gọi là di tích đền thờ thần Mặt trời 1.
Công trình mái che hố khai quật Khu di tích phía Nam chùa Tháp Linh, Tháp Mười, Đồng Tháp
Bên trong hố khai quật Khu di tích phía Nam chùa Tháp Linh, Tháp Mười, Đồng Tháp
Khu di tích gò Bà Chúa Xứ - đền thờ thần Mặt Trời 2
Khu di tích gò Bà Chúa Xứ nằm về phía Đông Bắc miếu Bà Chúa Xứ, cách khoảng 50m.
Năm 1984, các nhà khảo cổ đã phát hiện một kiến trúc khá lớn nằm trong lòng gò với kích thước 20,90m x 13,40m, dật cấp tại góc; phần nền và móng có những ô vuông xây gạch, có chỗ dày đến 1,4m; niên đại vào thế kỷ 4- 12.
Tại đây tìm thấy các hiện vật bằng gạch xếp hình mặt trời nên cho rằng đây là phế tích của một đền thờ thần Mặt Trời, gọi là Di tích đền thờ thần Mặt trời 2.
Mái che hố khai quật Khu di tích gò Bà Chúa Xứ , Tháp Mười, Đồng Tháp
Bên trong hố khai quật Khu di tích gò Bà Chúa Xứ , Tháp Mười, Đồng Tháp
Các công trình lịch sử, kiến trúc nghệ thuật khác
Miếu Bà Chúa Xứ
Bà Chúa Xứ (Linh Miếu Bà) được nhân dân tôn thờ là người có công khai phá vùng đất này. Đây cũng chính là một dạng thần đạo Việt Nam - Thờ Mẫu, là tôn giáo, tín ngưỡng bản địa (tôn giáo nội sinh) ngoài Hindu giáo và Phật giáo (tôn giáo ngoại nhập).
Miếu Bà Chúa Xứ được dựng lại năm 1973, quay hướng Đông Nam, gồm 3 gian, gian giữa thờ Bà Chúa Xứ, hai gian bên đặt khám thờ.
Tại đây, vào ngày 15 tháng 3 Âm lịch hàng năm, tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của Bà Chúa Xứ.
Phía trước Chính điện miếu Bà Chúa Xứ , Tháp Mười, Đồng Tháp
Ban thờ Bà Chúa Xứ tại Chính điện miếu Bà Chúa Xứ, Tháp Mười, Đồng Tháp
Tháp Linh Cổ Tự
Tháp Linh Cổ Tự (Chùa Tháp Linh) nằm cách phía Bắc gò Tháp Mười chừng 150 m.
Tương truyền chùa có từ cuối thế kỷ 19, gắn liền với việc người dân đến khai hoang, lập làng.
Ngôi chùa trước đây được xây trên gò Tháp. Đến năm 1956, chùa bị dời đi 100m để xây tháp 10 tầng, cao 42m. Tháp bị phá hủy hoàn toàn trong chiến tranh.
Chùa Tháp Linh ngày nay mới được phục dựng lại.
Ngay cạnh chùa là một ngôi miếu, có tên là miếu Hoàng Cô, tương truyền thờ em gái (bà Nguyễn Phúc Hồng Nga) của vua Gia Long (Nguyễn Ánh, hoàng đế sáng lập nhà Nguyễn, trị vì năm 1802 – 1820).
Phía trước Chính điện chùa Tháp Linh, Tháp Mười, Đồng Tháp
Đền thờ Thiên hộ Võ Duy Dương
Thiên hộ Võ Duy Dương (1827-1866) là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở vùng Đồng Tháp Mười. Tổ tiên của Võ Duy Dương từ miền Bắc vào lập nghiệp. Thuở nhỏ ông là người sáng trí, khỏe mạnh, giỏi võ nghệ. Năm 1857, hưởng ứng chính sách lập đồn điền của triều vua Tự Đức (hoàng đế thứ 4 triều Nguyễn, trị vì 1847-1883), Võ Duy Dương tìm đến đất Ba Giồng, ven Đồng Tháp Mười chiêu mộ dân chúng khẩn hoang lập ấp và trở thành một hào phú ở địa phương.
Tháng 2/1859, Pháp đánh chiếm Gia Định rồi đánh chiếm thành Mỹ Tho (tháng 4/1861), Võ Duy Dương cùng Thủ khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân, 1830-1875, lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ), kéo lực lượng về Gia Định đánh trả.
Thành Gia Định vỡ, ông vượt biển về Kinh đô Huế, bái yết vua Tự Đức hiến kế đánh đuổi Pháp và được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.
Tháng 5/1861, ông được cử vào Nam Kỳ với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dũng chống ngoại xâm và được phong chức Quản cơ.
Võ Duy Dương đóng quân ở Bình Cách (huyện Chợ Gạo, Tiền Giang), liên kết với Trương Định ở Gò Công và các nghĩa sĩ khác. Giương cao khẩu hiệu "Cần Vương" (giúp vua) chống Pháp, nghĩa quân lấy Đồng Tháp Mười làm căn cứ, dùng chiến thuật du kích tấn công trên cả một vùng rộng lớn, từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp, gây cho quân Pháp nhiều tổn thất.
Ngày 5/6/1862, triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất, nhượng lại vùng lãnh thổ Nam Kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định và Định Tường lại cho thực dân Pháp. Ngay sau đó, triều đình Huế buộc các tổ chức nghĩa quân phải hạ khí giới. Không tuân lệnh, ông bị triều đình tước binh quyền và sai người lùng bắt.
Sau khi Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Trương Định lần lượt hy sinh, Võ Duy Dương cùng với các nghĩa sĩ khác vẫn không hạ vũ khí, tiếp tục chống giặc Pháp.
Ngày 14/4/1866, Pháp huy động một lực lượng gồm 1.000 quân thủy bộ cùng nhiều tàu chiến, đại bác tấn công.
Nghĩa quân phải rút khỏi căn cứ. Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều, phó tướng của Võ Duy Dương ở lại chặn địch và đã hy sinh.
Sau khi rút khỏi Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đem quân phối hợp với con của Trương Định là Trương Quyền và thủ lãnh người Khmer là Acha Xoa, tiếp tục đánh Pháp ở vùng biên giới giáp với Tây Ninh.
Tháng 10/1866, Võ Duy Dương dùng thuyền theo đường biển ra Bình Thuận liên lạc với nghĩa sĩ miền Trung. Ông và các thuộc hạ tâm phúc đã bị cướp biển sát hại ở mũi Thị Khiết (Thuần Mẫu) thuộc vùng biển Cần Giờ. Lúc mất, ống mới 39 tuổi.
Thiên hộ Võ Duy Dương được người dân vùng Đồng Tháp Mười lập đền thờ tưởng nhớ công tích tại nhiều nơi.
Đền thờ Thiên hộ Võ Duy Dương tại Gò Tháp (xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp) được xây dựng vào năm 1958.
Ngày 14 tháng 11 Âm lịch hằng năm, là ngày giỗ chung của 2 ông: Thiên hộ Võ Duy Dương và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều.
Đền thờ Thiên hộ Võ Duy Dương mới xây dựng, Tháp Mười, Đồng Tháp
Ban thờ Thiên hộ Võ Duy Dương bên tronc chính điện
Đền thờ Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều
Nguyễn Tấn Kiều (? - 1866) là Phó tướng của Võ Duy Dương trong cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Đồng Tháp Mười vào nửa cuối thế kỷ 19.
Tương truyền, Nguyễn Tấn Kiều là người miền Trung di cư vào miền Nam lập nghiệp ở huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (Tiền Giang ngày nay). Sau khi thành Gia Định thất thủ (1859), ông đến Gia Định đầu quân chống thực dân Pháp. Nhờ giỏi võ nghệ, ông được cử chỉ huy một đội dân dũng. Khi hay tin, Thiên hộ Võ Duy Dương lập căn cứ, ông đem quân về hợp tác với chủ tướng Dương, được phong chức Đốc binh và rồi trở thành Phó tướng. Khi Đốc binh Kiều hy sinh trong cuộc chống trả cuộc tấn công Gò Tháp của quân Pháp, nghĩa quân mang thi hài ông về chôn cất tại nền đồn Trung ở Gò Tháp.
Người dân xây dựng mộ và lập đền thờ để tưởng nhớ công tích của ngài Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều.
Đền thờ Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều, trước đây từng thờ cả Thiên hộ Võ Duy Dương, Tháp Mười, Đồng Tháp
Ban thờ Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều bên tronc chính điện
Khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp) cùng với Khu di tích Óc Eo – Ba Thê (An Giang), Khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang)…là minh chứng về hệ thống giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc Phù Nam. Hệ thống văn hóa này được sáng tạo và tích lũy qua hoạt động thực tiễn, qua tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội trong quá trình hình thành và phát triển của vương quốc Phù Nam, từ thế kỷ 1- thế kỷ 7. Đây là những địa điểm có giá trị nổi bật về kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ quan trọng tại Việt Nam, trở thành biểu tượng cho Văn hóa Óc Eo, là một trong những nền văn hóa tiêu biểu của Thời kỳ đồ sắt tại Việt Nam, cùng với Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Đồng Nai.
Khu di tích Khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp) cùng với Khu di tích Óc Eo – Ba Thê (An Giang), Khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang) đang được nghiên cứu, hướng tới lập hồ sơ đề cử Di sản thế giới Khu vực Văn hóa Óc Eo với tiêu chí: Thể hiện sự giao lưu quan trọng giữa các giá trị của nhân loại (kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật tạo hình, quy hoạch đô thị, thiết kế cảnh quan), trong khoảng thời gian từ thế kỷ 1- 7, tại khu vực Đông Nam Á (Tiêu chí ii); Là một bằng chứng đặc biệt về một truyền thống văn hoá hay một nền văn minh đa phần đã biến mất (iii); một sự định cư của con người mang tính truyền thống (trung tâm chính trị, cư trú, tôn giáo, cảng thị) và tiêu biểu cho nền văn hóa của vương quốc Phù Nam (v).
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_
%C4%91%E1%BA%B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%B2_Th%C3%A1p
https://sites.google.com/site/vungdongthap10/home/khu-di-tich-go-thap
http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3127/68470/khu-di-tich-go-thap-djong-
thap-trong-boi-canh-van-hoa-oc-eo.html
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|