Thông tin chung:
Công trình: Tháp Po Nagar, Nha Trang, Khánh Hòa
Địa điểm: Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa (12°15′55″B 109°11′44″Đ)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm hoàn thành: Thế kỷ 10 -13
Giá trị:
Champa là một quốc gia cổ tồn tại liên tục từ năm 192 đến 1832 với lãnh thổ lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn, Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận ở phía Nam; Từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay, thuộc miền Trung Việt Nam.
Văn hóa Champa tiếp nối từ văn hóa Sa Huỳnh, là văn hóa thuộc giai đoạn Sơ kỳ đồ sắt của cư dân nông nghiệp ven biển miền Trung và miền Nam, có niên đại từ giữa thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên (TCN ) đến đầu Công nguyên, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong việc xây dựng hệ thống thần quyền trị quốc.
Người Chăm ngoài việc thờ các vị thần bản địa còn thờ các vị thần sơ khai của Hindu giáo và Phật giáo.
Dân tộc chính là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở phía Bắc (bộ tộc Dừa) và Chăm ở phía Nam (bộ tộc Cau). Ngôn ngữ là tiếng Champa bản địa và tiếng Phạn, ngôn ngữ tế lễ của Hindu giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo.
Tại đây, văn minh Ấn Độ, du nhập vào theo tôn giáo, được sử dụng rộng rãi: Văn học và điển tích tôn giáo; lịch trong sản xuất nông nghiệp và đời sống; kiến trúc và điêu khắc... Tuy nhiên yếu tố ngoại nhập này đều hòa hợp với yếu tố nội sinh mạnh mẽ của dân tộc Chăm, từ tục thờ mẫu, thờ cúng tổ tiên, chữ viết Champa, kiến trúc và điêu khắc độc đáo, âm nhạc và ca múa sinh động (Thần đạo), đến phong tục cổ truyền như ăn trầu, nhuộm răng đen, hỏa táng và chôn tro xương trong các mộ vò…
Xã hội Champa mang đặc trưng cơ bản của khu vực Đông Nam Á, là xã hội của cư dân nông nghiệp. Quan hệ chủ yếu trong xã hội là quan hệ về ruộng đất, gắn với chế độ sở hữu và các hình thức sử dụng ruộng đất. Trong xã hội, vua có uy quyền tuyệt đối, tiếp đó là tầng lớp quý tộc, lãnh đạo tôn giáo và quan lại trung ương, địa phương. Người dân sống theo từng làng xã, là nơi duy trì mối quan hệ cộng đồng trong đời sống kinh tế và tinh thần.
Champa lần lượt trải qua các vương triều theo cùng một quá trình: Lập nước gắn với các vị vua khởi nghiệp; Xây dựng quốc gia hùng mạnh gắn với chống bành trướng phương Bắc, mở rộng bờ cõi về phía Tây và hội nhập với văn minh từ bên ngoài – Ấn Độ; Nội chiến giành quyền lực giữa các phe phái; Sụp đổ và bị thay thế bởi vương triều kế tiếp:
Vương quốc Lâm Ấp (năm 192- 757): Đây được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Champa độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của Trung Quốc, gắn liền với sự hấp thu văn minh Ấn Độ. Trong thời gian tồn tại, vương quốc Lâm Ấp trải qua 4 triều đại:
Triều đại thứ nhất, từ năm 192-336: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên Khu Liên, lên ngôi năm 192. Trong giai đoạn này, lãnh thổ Việt bị đô hộ bởi các triều đại phương Bắc, được chia thành Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (thuộc giai đoạn Bắc thuộc lần hai, năm 43- 541, dưới sự cai trị của nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, Tấn, Tề và Lương). Năm 192, nhân nhà Đông Hán suy yếu, người dân theo Khu Liên nổi dậy lập ra nước Lâm Ấp. Lãnh thổ Lâm Ấp bao gồm cả khu vực thành phố Huế hiện nay, chạy dài cho tới phía Nam của núi Bạch Mã (giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng). Kinh đô (từ năm 192- 605) là thành Lồi (thuộc thành phố Huế). Thời kỳ đầu, Vương quốc Lâm Ấp chịu ảnh hưởng nhiều của Trung Quốc. Về sau, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc, nhà nước Lâm Ấp đã thông qua các thương gia, tu sĩ mà tiếp thu văn minh Ấn Độ, bao gồm cả cách thức tổ chức xã hội, văn hóa và tôn giáo. Quốc thư trao đổi của Lâm Ấp với Trung Quốc thời đó đã được viết bằng chữ Phạn thay vì chữ Hán.
Triều đại thứ hai, từ năm 336-420: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Phạm Văn. Ông là tể tướng của triều đại trước. Trong giai đoạn này miền Bắc Việt Nam vẫn bị đô hộ bởi các triều đại phương Bắc. Tại đây, văn minh Ấn Độ đã đi vào đời sống như tổ chức hệ thống quan lại, kỹ thuật luyện sắt…; Kinh đô – Thành Lồi tại Huế đã được xây dựng lại.
Với sức mạnh quân sự, nhà vua đã tấn công lên phương Bắc, giết thứ sử nhà Hán, mở rộng lãnh thổ đến tận đèo Ngang (ranh giới của hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay).
Vị vua thứ 3 của triều đại thứ hai, vị vua Lâm Ấp đầu tiên được mô tả trong văn bia, là Phạm Hồ Đạt/ Dharmamaharaja (hiệu là Bhadravarman I), cai trị từ năm 380 đến 413. Dưới thời vua Phạm Hồ Đạt, nhiều nhà tu hành Hindu giáo, Phật giáo (Tiểu thừa) từ Ấn Độ sang truyền đạo. Thành Lồi (Huế) vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên là Kandapurpura, nghĩa là Phật Bảo Thành. Vua còn cho xây dựng thêm một trung tâm tôn giáo mới tại Amavarati, (thánh địa Mỹ Sơn, một thung lũng cách Đà Nẵng 69 km về phía Tây, thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Tại đây, nhiều đền Hindu giáo được xây dựng. Đền thờ thần Shiva (là một trong ba vị thần tối cao: Brahma là Đấng tạo hóa; Vishnu là Đấng bảo hộ; Shiva là Đấng hủy diệt) và linh vật Lingam (là một khối trụ tròn, đặt ở trung tâm một vật thể hình đĩa – Yoni; tổ hợp linh vật Lingam và Yoni tượng trưng cho sự kết hợp sức mạnh nam, nữ và toàn bộ sự tồn tại).
Triều đại thứ ba, từ năm 420-529: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Văn Địch, xưng hiệu là Phạm Dương Mại I, xuất thân là một người trong hoàng tộc. Năm 443, quân nhà Lưu Tống Trung Quốc (tồn tại 420- 479) đánh Lâm Ấp, phá hủy nhiều đền đài, cướp phá nhiều tượng vàng. Vua Lâm Ấp phải chạy về phía Nam.
Triều đại thứ tư, từ năm 529-757: Vị vua đầu tiên của triều đại có tên là Luật Đa La Bật Ma, hiệu là Rudravarman I, xuất thân là một người trong hoàng tộc. Năm 577, Luật Đa La Bật Ma mất, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi (Sambhuvarman).
Tại miền Bắc Việt Nam, Lý Bí (Lý Nam Đế, trị vì năm 544- 548), khởi binh chống nhà Lương (tồn tại năm 502- 557) và chính thức thành lập nhà Tiền Lý cùng nước Vạn Xuân vào năm 544. Năm 602, nhà Tùy Trung Quốc (tồn tại năm 581- 619) quay trở lại đánh chiếm miền Bắc Việt Nam (bắt đầu thời Bắc thuộc lấn thứ 3, từ năm 602- 905, dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường).
Nhà Tùy cũng tấn công Lâm Ấp vào năm 598, phá hủy kinh thành Kandapurpura vào năm 605. Vua Phạm Phạn Chi dời kinh đô vào phía Nam, đặt tại Simhapura (làng Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam ngày nay), đặt tên cho vương quốc là Champa, theo một tên một loài hoa đẹp mọc nhiều ở Nam Trung Bộ với ngỏ ý khai sáng thời đại mới (người Việt gọi là hoa sứ hay hoa đại).
Vào khoảng thời gian này, vua Phạm Phạn Chi bắt đầu cho dựng lại thánh địa Mỹ Sơn (đền Bhadresvara) bằng gạch kiên cố, thay thế ngôi đền gỗ đã bị hủy hoại trong chiến tranh.
Sau khoảng 10 năm từ khi mất cố đô Kandapurpura, thừa thế nhà Tùy suy yếu, vua Phạm Phạn Chi phát động một chiến dịch nhằm thu hồi các lãnh địa phương Bắc và thành công. Các vua nối nghiệp vua Phạm Phạn Chi tiếp tục mở rộng lãnh thổ về phía Tây Nam, thuộc vùng đất của vương quốc Khmer.
Thời vua Phạm Phạn Chi được coi là là thời kỳ quá độ giữa vương quốc Lâm Ấp và vương quốc Champa. Văn minh Lâm Ấp giai đoạn này đạt tới đỉnh cao, bắt đầu lan tỏa khắp Đông Nam Á.
Trong giai đoạn này, văn hóa Ấn Độ trở thành văn hóa chính của vương quốc. Hindu giáo và Phật giáo cùng được truyền bá. Người Chăm đã bắt đầu có các văn bản bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.
Vương quốc Hoàn Vương (Panduranga, năm 757 – 875): ban đầu là một tiểu quốc phía Nam Lâm Ấp, hình thành từ sự phân rã của vương triều Lâm Ấp, sau đó nổi lên lật đổ vương triều cũ, thành lập vương triều mới.
Miền Bắc Việt Nam giai đoạn này nằm dưới sự thống trị của nhà Tùy và nhà Đường (tồn tại từ năm 618 – 907).
Vương quốc Hoàn Vương trải qua 5 triều đại :
Triều đại thứ nhất, từ năm 757- 774
Vị vua của triều đại có tên là Prithi Indravarman, trị vì một tiểu vương nằm tại phía Nam Lâm Ấp. Sau khi dành quyền lãnh đạo từ vương triều Lâm Ấp, vua là dời kinh đô Simhapura (thành Trà Kiệu) về Virapura (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận ngày nay).
Thánh địa tôn giáo của vương quốc cũng dịch chuyển từ Mỹ Sơn về thánh địa Po Nagar (Nha Trang ngày nay) để thờ nữ thần Yan Po Nagar, là thần mẫu của người Chăm.
Năm 774, quân Nam Đảo (người Java và Malaysia) từ ngoài khơi đổ bộ vào chiếm kinh đô Virapura, cướp phá đền Po Nagar. Vua bị chết trong đám loạn quân.
Triều đại thứ hai, từ năm 774 - 786
Vị vua của triều đại có tên là Satyavarman, thuộc dòng tộc của vương triều trước. Vua tổ chức quân đội tấn công quân Nam Đảo và đánh bại giặc trong một trận thủy chiến. Năm 781, vua cho dựng bia kỷ niệm chiến thắng và xây dựng lại thánh địa Po Nagar bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay.
Triều đại thứ ba, từ năm 786 - 801
Năm 786, vua Satyavarman qua đời, em trai ông có tên là Indravarman I (Nhân Đà La Bạt Ma) lên ngôi.
Năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào kinh đô Virapura, cướp phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara (tại phía Tây thành Virapura, gần Phan Rang ngày nay). Đến năm 799, vua mới đuổi được quân xâm lược, xây lại tháp Hòa Lai với ba tháp mới gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Hindu giáo.
Triều đại thứ tư, từ năm 801 - 817
Năm 801, vua Indravarman I mất, em rể lên ngôi có tên là Deva Rajadhiraja, hiệu là Harivarman I (Kha Lê Bạt Ma). Năm 817, vua cho trùng tu lại tháp Po Nagar và xây dựng thêm hai tháp cạnh tháp chính. Tượng nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương. Dưới triều vua Deva Rajadhiraja, vương quốc Hoàn Vương hưng thịnh trở lại. Vua tổ chức nhiều cuộc tấn công ra các quốc gia xung quanh, trong đó có các cuộc tấn công lên phía Bắc (châu Ái, châu Hoan – Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) vào các năm 803, 808 và 809.
Triều đại thứ năm, từ năm 817 - 875
Năm 817, con trai vua Harivarman I, có hiệu là Vikrantavarman III (Thích Lợi Tì Kiên Đà Bạt Ma) lên kế vị. Vì vua còn nhỏ tuổi nên bên cạnh vua có phụ chính tên là Senapati Par. Ông cho tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Khmer và cho xây dựng thêm một số tháp xung quanh tháp chính trong khuôn viên tháp Po Nagar. Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo của vương quốc vẫn là kinh đô Virapura. Dưới thời Vikrantavarman III, vương quốc Hoàn Vương là một đất nước phồn thịnh với quân đội hùng mạnh.
Vương quốc Chiêm Thành (năm 875 - 1471): là triều đại tiếp nối vương quốc Hoàn Vương với kinh đô đặt tại Indrapura (từ năm 875 – 982, làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay).
Tại miền Bắc Việt Nam, năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam. Từ đây, nhà nước phong kiến độc lập của Việt Nam trải qua các quốc hiệu và vương triều : Đại Cồ Việt: thời nhà Đinh – nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý (từ năm 968–1054); Đại Việt: thời nhà Lý – nhà Trần (từ năm 1054–1400); Đại Ngu: thời nhà Hồ (từ năm 1400–1407) ; Đại Việt: thời nhà Hậu Lê- Nhà Tây Sơn và 3 năm đầu thời nhà Nguyễn (từ năm 1428–1804; Việt Nam: thời nhà Nguyễn (từ năm 1804–1839); Đại Nam: thời Nhà Nguyễn (từ năm 1839–1945).
Vương quốc Chiêm Thành trải qua 9 triều đại, kế tục Vương quốc Hoàn Vương, nên được gọi là triều đại thứ 6 đến triều đại thứ 14. Các vị vua đầu tiên của vương quốc Chiêm Thành theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của kinh đô Indrapura (Đồng Dương), một thiền viện Phật giáo (Vihara), bên trong thờ Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara) đã được xây dựng.
Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Champa kết thúc vào đầu thế kỷ thứ 10 (năm 925) với sự phục hồi của Hindu giáo, thờ thần Shiva. Trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở lại về Mỹ Sơn. Đây là thời kỳ văn minh Champa đạt đến đỉnh cao. Dân số của vương quốc lên đến 0,6 triệu người.
Vương quốc Chiêm Thành dần suy yếu dưới sức ép của vương quốc Đại Cồ Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với vương quốc Khmer từ phía Tây.
Vào khoảng cuối thế kỷ 10, do kinh đô Indrapura (Đồng Dương) bị quân đội Đại Cồ Việt tấn công phá hủy (năm 982), Chiêm Thành chuyển kinh đô xuống Vijaya ở phía Nam (từ năm 982- 1471, thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định ngày nay, còn có tên là Chà Bàn/Trà Bàn).
Trong 5 thế kỷ tiếp theo, giữa Chiêm Thành và Đại Việt đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh.
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Chế Bồng Nga (Che Bonguar, năm 1360 – 1389, lên ngôi từ năm 1360). Ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra kinh đô Thăng Long và đã chết trong lần tấn công cuối cùng vào năm 1389.
Sau thời kỳ Chế Bồng Nga, Chiêm Thành liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công. Năm 1471, Champa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ phía Bắc. Phần lãnh thổ còn lại bị chia nhỏ thành các tiểu quốc, và tiếp tục dần bị các chúa Nguyễn thôn tính. Đến năm 1832, toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam dưới triều vua Minh Mạng (vị hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn, trị vì năm 1820 – 1841).
Vương quốc Champa vào khoảng năm 1100.
Màu xanh: Phạm vi vương quốc Đại Việt (kinh đô Đại La - Hà Nội) ; Màu vàng : Vương quốc Champa (kinh đô Indrapura – Đồng Dương); Màu đỏ : Vương quốc Khmer (kinh đô Angkor)
Đền tháp Champa
Nhóm tháp theo niên đại
Đền tháp Champa theo niên đại được phân thành 23 nhóm tháp. Đền tháp Mỹ Sơn là nhóm đầu tiên với niên đại sớm nhất từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13.
TT
|
Tên di tích
|
Địa điểm
|
Niên đại
|
1
|
Nhóm tháp Mỹ Sơn
|
xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ IV - XIII
|
2
|
Nhóm tháp Po Sah Inư
|
phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận
|
thế kỷ VIII
|
3
|
Nhóm tháp Mỹ Khánh
|
xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế
|
thế kỷ VIII
|
4
|
Nhóm tháp Hòa Lai
|
làng Tam Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ IX
|
5
|
Nhóm tháp Po Dam
|
làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận
|
thế kỷ IX
|
6
|
Nhóm tháp Đồng Dương
|
Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình. tỉnh Quảng nam
|
thế kỷ IX
|
7
|
Nhóm tháp Bằng An
|
làng Bằng An, xã Điện An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ IX - X
|
8
|
Nhóm tháp Khương Mỹ
|
làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ X
|
9
|
Nhóm tháp Po Nagar
|
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà
|
thế kỷ X - XIII
|
10
|
Nhóm tháp Chiên Đàn
|
làng Chiên Đàn, xã Tam An, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
|
thế kỷ XI - XII
|
11
|
Nhóm tháp Bánh Ít
|
thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XI - XII
|
12
|
Nhóm tháp Bình Lâm
|
xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
13
|
Nhóm tháp Đôi
|
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
14
|
Nhóm tháp Nhạn
|
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
|
thế kỷ XII
|
15
|
Nhóm tháp Phú Lốc
|
xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII
|
16
|
Nhóm tháp Cánh Tiên
|
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
17
|
Nhóm tháp Thủ Thiện
|
xã Bình nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
18
|
Nhóm tháp Dương Long
|
xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XII - XIII
|
19
|
Nhóm tháp Liễu Cốc
|
xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế
|
thế kỷ XIII
|
20
|
Nhóm tháp Mẫm
|
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định
|
thế kỷ XIII
|
21
|
Nhóm tháp Yang Praong
|
Bản Đôn, huyện Ea Sup, tỉnh Đắk Lắk
|
thế kỷ XIII
|
22
|
Nhóm tháp Po Klong Garai
|
phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ XIII - XIV
|
23
|
Nhóm tháp Po Rome
|
làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận
|
thế kỷ XVII
|
Đặc trưng chung của các ngôi đền tháp Champa
Đền Champa thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi, không gần nơi dân cư sinh sống, xây dựng thành cụm, theo trục Đông – Tây, được thiết kế bằng sự kết hợp các hình thức trừu tượng và hình học cụ thế. Trong ngôi đền Champa có nhiều công trình dạng tháp.
Tháp Champa là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch hoặc có bổ sung một số cấu trúc đá, phía trên dật cấp hoặc thu nhỏ dần vào tạo thành hình tháp.
Mặt bằng tháp đa số là hình vuông. Không gian bên trong hẹp thường có cửa mở về hướng Đông - Tây, các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đối xứng với cửa chính. Trần được cấu tạo vòm cuốn.
Gạch xây tháp có màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương. Gạch được nung, vừa đạt được độ cứng nhất định vừa tạo điều kiện cho việc chạm khắc, tương tự như đá sa thạch (là một loại đá được hình thành nhờ sự tích tụ của những đá cát, đá trầm tích, tương đối mềm và dễ gia công). Nghệ nhân chạm khắc trực tiếp lên các bức tường gạch thành phẩm.
Gạch xây không có mạch vữa, được liên kết với nhau bằng một loại keo đặc biệt. Có giả thuyết cho rằng đó là loại keo được tinh chế từ một loại thực vật tại địa phương. Giả thuyết khác là vữa xây làm từ đất sét tạo ra chính viên gạch. Giả thuyết này được củng cố sau khi thí nghiệm hóa học đã không tìm ra dấu vết của bất kỳ chất hữu cơ nào từ giữa các viên gach, mà tìm thấy các khoáng chất tương tự như các chất có trong lõi viên gạch.
Nghệ thuật chạm khắc của các ngôi đền tháp Champa là tiêu biểu cho Di sản nghệ thuật Champa. Các tác phẩm điêu khắc bằng gạch, đá sa thạch rất công phu với các trang trí hình hoa lá, chim, thú, vũ nữ, thần thánh (Hindu giáo, Phật giáo, tôn giáo bản địa) thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các vũ nữ (apsara, là một dạng tiên nữ múa hát trong các nghi lễ Hindu giáo và thần thoại Phật giáo).
Phong cách nghệ thuật của các đền tháp Champa
Người ta cho rằng, di tích đền tháp Champa tại Việt Nam có tới 7 phong cách nghệ thuật :
Phong cách Mỹ Sơn E11 (Style of Mỹ Sơn E1) hay phong cách Cổ đại : có niên đại thế kỷ 7 – 8, được khái quát hóa từ đền tháp Mỹ Sơn E1 tại Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này được thể hiện đầy đủ nhất tai ngôi tháp Mỹ Sơn E1.
Phong cách Hoà Lai (Style of Hoa Lai) : có niên đại cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, được khái quát hoá từ đền tháp Hoà Lai.
Phong cách Đồng Dương (Đồng Dương style): có niên đại cuối thế kỷ 9 - đầu thế kỷ 10, được khái quát hoá từ đền tháp Đồng Dương.
Phong cách Mỹ Sơn A1 (Mỹ Sơn A1 style): có niên đại thế kỷ 10, được khái quát hoá từ tháp Mỹ Sơn A1, thuộc Di sản Thánh địa Mỹ Sơn. Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1.
Phong cách chuyển tiếp Mỹ Sơn A1- Bình Định: có niên đại đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12.
Phong cách Bình Định (style of Bình Định): có niên đại cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14.
Phong cách muộn : có niên đại từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 17.
Tháp Po Nagar
Trong 23 nhóm tháp của Đền tháp Champa, nhóm tháp Po Nagar đứng thứ 9.
Tháp Po Nagar (Yang Po Inư Nagar hay Yang Pô Ana Gar) là ngôi đền Champa nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 10-12m so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Inư, Ana trong tiếng Chăm có nghĩa là Mẹ.
Tháp Po Nagar là một trong những thánh đường trung tâm của các vương triều Champa từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 15). Công trình được xây dựng từ khi hình thành Vương quốc Hoàn Vương (Panduranga, năm 757 – 875, tồn tại qua 5 triều đại). Ngay từ triều đại thứ nhất (757- 774), khi Thánh địa tôn giáo của vương quốc dịch chuyển từ Mỹ Sơn về thánh địa Po Nagar (Nha Trang ngày nay), tháp Po Nagar đã được xây dựng để thờ nữ vương Jagadharma (Prakasadharma, vị vua thuộc triều đại thứ 4 của Vương Quốc Lâm Ấp, trị vì từ năm 646- 653). Tháp được dựng bằng gỗ.
Năm 774, quân Nam Đảo (người Java và Malaysia) từ ngoài khơi đổ bộ vào chiếm kinh đô Virapura, phá hủy đền Po Nagar.
Năm 784, sau khi đánh thắng giặc Nam Đảo, vua triều đại thứ hai (774- 786) Vương quốc Hoàn Vương đã cho xây dựng lại thánh địa Po Nagar bằng gạch, tồn tại cho tới ngày nay.
Năm 817, dưới thời của vua Hoàn Vương triều đại thứ tư (801 - 817) và thứ năm (817 - 875), tháp Po Nagar được trung tu lại và xây dựng thêm các tháp khác cạnh tháp chính trong khuôn viên tháp. Đến thế thế kỷ thứ 10, quần thể tháp Po Nagar vẫn tiếp tục được xây dựng bổ sung một số tháp nhỏ khác. Tháp chính được xây dựng lại vào thế kỷ 11.
Về nữ thần Yan Po Nagar có nhiều truyền thuyết.
Theo Hindu giáo, nữ thần được thờ trong đền là Parvati, hiện thân của nữ thần sáng thế tối cao và là vợ của thần Shiva. Tượng thờ được bố cục và tạc theo Hindu giáo gắn với linh vật Linga - Yoni. Về sau, nữ thần Hindu giáo được chuyển hóa thành nữ thần bản địa Yan Po Nagar.
Theo tín ngưỡng của người Chăm, nữ thần Yan Po Nagar là nữ thần biển với nhiều phép thuật. Bà giáng trần, dùng phép biến hóa ra cung điện nguy nga, lúa gạo, trầm hương. Trong kiếp trần thế bà trở thành nữ vương Jagadharma, có nhiều hầu nam trong hậu cung và sinh ra nhiều con. Các con bà sau này đều thành thần, được người dân tôn thờ.
Người Việt sau khi chinh phục Champa cũng đã Việt hóa sự tích về bà Yan Po Nagar gắn liền với linh vật trầm hương, thể hiện sự giao lưu và bồi đắp văn hóa của hai dân tộc Việt và Champa.
Nhà Nguyễn xếp bà Yan Po Nagar vào bậc Thượng đẳng thần (Thần hoàng hay Phúc thần theo Thần đạo Việt Nam được phân thành ba hạng: Thượng đẳng thần, gồm thiên thần như Tứ bất tử...,nhân thần như Trần Hưng Đạo..; Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần). Việc thờ cúng Thiên Y A Na có nhiều yếu tố hòa hợp với đạo Mẫu Tam phủ. Nữ thần Yan Po Nagar trở thành Thiên Y A Na hay Bà Thánh Mẫu Chúa Ngọc (Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Xứ), được người Chăm và cả người Việt tôn thờ.
Tháp Po Nagar được xây dựng theo Phong cách Hoà Lai (Style of Hoa Lai), có niên đại cuối thế kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, được khái quát hoá từ đền tháp Hoà Lai (Ninh Hải, Ninh Thuận).
Tháp Po Nagar cũng tương tự như các quần thể đền tháp Champar điển khác (có thể thấy ngay tại nhóm tháp Mỹ Sơn, Quảng Nam, là tháp Champa được xây dựng sớm nhất, vào thế kỷ 4 – 8) với đặc điểm: bố cục theo hướng Đông Tây, có tường bao quanh tạo thành một khu vực hình vuông; có một Tháp cổng ra vào (đặt tại giữa của đoạn tường phía Đông hoặc Tây, phụ thuộc vào hướng đền); tiếp đến là tòa Bái đường, là một ngôi nhà dài, nơi chuẩn bị nghi lễ (trong một số trường hợp nhà lại nằm bên ngoài khu vực đền, song vẫn trên trục chính của đền); trung tâm của quần thể là Tháp chính, nơi đặt linh vật thờ thần chính; nhiều quần thể đền có hai Tháp chính; xung quanh các Tháp chính có các Tháp phụ là nơi thờ hoặc làm kho đồ lễ, bếp nấu đồ cúng tế, kho sách…
Quần thể đền Po Nagar nằm trên đồi thấp, theo hướng từ Đông sang Tây gồm:
Bái đường, Tháp cổng, Tháp chính phía Bắc, Tháp chính phía Nam và các tháp phụ trợ khác.
Các công trình trong quần thể được phân bố theo 3 bậc nền : Bậc nền dưới cùng, Bậc nền giữa, Bậc nền trên cùng.
Tháp Po Nagar, Nha Trang, Khánh Hòa
Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt ngang Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Phối cảnh mặt phía Đông Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Phối cảnh mặt phía Bắc Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Phối cảnh mặt phía Tây Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Tòa Bái đường
Bái đường (Meditation hall) được phục dựng lại vào thế kỷ 11, nằm trên bậc nền giữa. Bậc nền dưới cùng là khoảng sân, phía trước đền. Từ đây có bậc thang bằng đá lên bậc nền giữa.
Bái đường là nơi sắp xếp lễ vật và thực hiện các nghi thức hành lễ (nhảy múa, chơi nhạc).
Công trình dạng nhà dài với mặt bằng hình chữ nhật, nằm trên một nền bằng gạch cao hơn 1m, hiện chỉ còn tàn tích nền với hai dãy cột chính bằng gạch hình bát giác, mỗi bên 5 cột có đường kính hơn 1m và cao hơn 3m. Ở hai bên các dãy cột lớn có 12 cột nhỏ và thấp hơn. Dựa vào cấu trúc cột này, người ta cho rằng đây vốn là một tòa nhà rộng lớn.
Từ bậc nền giữa, có một dãy bậc thang bằng gạch dẫn lên bậc nền trên cùng nơi bố trí khu vực đền.
Tàn tích cột còn lại của tòa Bái đường, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Tháp cổng và hệ thống tường bao quanh
Toàn bộ khu vực đền đặt tại bậc nền trên cùng, có mặt bằng hình vuông được giới hạn bởi các bức tường đá. Hiện chỉ còn tàn tích một số đoạn tường phía Tây và Nam.
Chính giữa đoạn tường phía Đông là Tháp cổng (gopura/ gatehouse), hiện cũng chỉ còn tàn tích nền.
Tháp chính phía Bắc
Tháp chính (kalan/sanctuarya) tại quần thể đền Po Nagar gồm hai tháp: Tháp chính phía Bắc và Tháp chính phía Nam.
Tháp chính phía Bắc là tháp lớn nhất, cao khoảng 23m, đặt tại trung tâm của quần thể, nằm trên trục chính với tòa Bái đường.
Ban đầu, theo Hindu giáo, đây là đền thờ nữ thần thần Parvati. Sau này, theo tín ngưỡng địa phương, đây là nơi thờ là nữ thần Yan Po Nagar hay Thiên Y A Na/Bà thánh mẫu Chúa Ngọc.
Tương tự như các ngôi đền Champa khác, tháp có mặt bằng hình vuông gồm 3 phần: đế tháp, thân tháp và mái tháp.
Đế Tháp chính phía Bắc được phân chia bởi các trụ, kết hợp với các vòm cong, tạo thành hình tượng hoa sen đỡ thân tháp.
Thân Tháp chính phía Bắc là một khối lập phương. Bề mặt tháp không phẳng mà có các trụ áp tường, dạng trụ kép, phân bố 1 trụ đôi tại góc tháp và 4 trụ đôi tại mặt tháp. Phía trên các trụ là các gờ tường nhô dần ra tạo thành diềm mái.
3 mặt Tây, Bắc, Nam của thân tháp có các cửa giả tạo bởi các mặt tường đắp nhô dần ra với dạng hình tháp. Bên trong mỗi ô cửa giả có những hình tam giác nhỏ khoét sâu vào tường. Đây là nơi đặt lễ vật, đèn dầu để thờ (sau này do thắp hương nên khói đã làm đen các bức tường).
Tại mặt phía Đông của thân tháp có một cửa ra vào, kéo dài như một khối tiền sảnh với hình dáng một ngôi tháp nhỏ mô phỏng theo hình dáng tháp chính. Cửa vào khối tiền sảnh được xây dựng bằng đá, gồm 2 trụ đứng và một dầm ngang. 2 trụ đứng còn là hai tấm bia ký khắ chữ Sancrit (Phạn) và chữ Chăm cổ. Phía trên cửa có một bức phù điêu đá hình lá đề miêu tả nữ thần Durga (vợ thần Shiva) 4 tay đang nhảy múa; chân đặt trên lưng bò thần Nandin (vật cưỡi của thần Shiva). Đây được đánh giá là một trong những bức phù điêu đẹp nhất của nghệ thuật Champa còn lưu giữ được tại Việt Nam.
Mái Tháp chính phía Bắc có bố cục tương tự như mái tháp Hòa Lai (Ninh Hải, Ninh Thuận): Nằm trong một khối lập phương với 3 tầng mái, nhỏ dần về phía trên; trang trí tầng mái trên được mô phỏng theo tầng mái dưới ; mỗi góc của mỗi tầng mái đặt một tháp có hình dáng như của tháp chính thu nhỏ; tại các diềm phân cách thân và các tầng mái, khối tháp đều hơi choãi ra phía ngoài, là không gian để đặt các tượng trang trí ; trên đỉnh mái tháp là một khối chóp.
Phối cảnh mặt phía Tây Tháp chính phía Bắc (bên trái ảnh) và Tháp chính phía Nam (bên phải ảnh),
Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Trang trí trên bệ Tháp chính phía Bắc, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Trang trí trụ đôi tại thân Tháp chính phía Bắc, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Lối vào Tháp chính phía Bắc, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Phù điêu bên trên lối vào Tháp chính phía Bắc, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Phối cảnh phần mái Tháp chính phía Bắc, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Bên trong Tháp chính phía Bắc đặt tượng thờ nữ thần Yan Po Nagar hay thánh mẫu Thiên Y A Na/ Bà Thánh Mẫu Chúa Ngọc. Tượng nữ thần cao 2,6m, được tạc bằng đá hoa cương màu đen (ban đầu được tạc bằng vàng) ngồi trên bệ đá hình đài sen, lưng tựa vào phiến đá lớn hình lá bồ đề. Tượng có 4 đôi tay cầm các linh vật khác nhau và đôi tay thứ 5 để xuôi trên đầu gối, bàn tay trái úp, bàn tay phải mở rộng. Tượng được cho thể hiện hình ảnh của một người mẹ đã nhiều lần sinh nở, người Mẹ của xứ sở. Đây được cho là một trong những kiệt tác về điêu khắc Champa, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Người Pháp đã lấy mất đầu tượng đá, nay chỉ còn đầu tượng phục chế lại bằng xi măng. Trên thân và mái Tháp chính phía Bắc còn có nhiều tượng và phù điêu bằng đất nung và đá, trong đó có hình tượng thần Po Nagar và một số vị thần Hinhdu giáo khác, các tiên nữ, vũ công, người chèo thuyền, đi săn, loài chim như thiên nga, các loài thú như voi, sư tử, dê, nai…
Tượng nữ thần Yan Po Nagar hay thánh mẫu Thiên Y A Na, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Tháp chính phía Nam
Tháp chính phía Nam, nhỏ hơn so với Tháp chính phía Bắc, cao 18m, được xây dựng vào thế kỷ 13.
Ban đầu, theo Hindu giáo, đây là nơi thờ thần Shiva. Sau này, theo tính ngưỡng địa phương, đây là nơi thờ Đức ông.
Tháp chính phía Nam có cấu trúc mặt bằng, lối vào, đế và thân tháp tương tự như Tháp chính phía Bắc. Riêng phần mái không theo tầng mái mà là dạng chóp. Hiện phần mái Tháp chính phía Nam mới phục dựng lại được phần thô, không có trang trí trên bề mặt mái. Trên đỉnh mái đặt một trụ linga.
Cửa ra vào của Tháp chính phía Nam có quy mô nhỏ hơn và không có bức phù điêu trang trí trên cửa.
Mặt phía Đông Tháp chính phía Nam (bên trái ảnh) và Tháp chính phía Bắc (bên phải ảnh), Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Tháp phụ phía Tây
Trong các ngôi đền Hindu giáo, xung quanh tháp chính thường có tháp phụ nhỏ xung quanh. Có tháp là đền thờ các vị thần Hindu giáo, có tháp là nơi để chứa các vật có giá trị thuộc về vị thần hoặc để nấu ăn cúng tế. Quần thể đền Po Nagar hiện còn lưu giữ được 2 Tháp phụ (Tháp phụ phía Tây và Tháp phụ phía Nam) cùng tàn tích móng của các tháp phụ khác.
Tháp phụ phía Tây cao 9m, là ngôi tháp còn khá nguyên vẹn về kiến trúc và trang trí. Tháp được xây dựng vào năm 817, song được trùng tu nhiều lần với lần trùng tu cuối vào khoảng thế kỷ 13.
Theo Hindu giáo đây là tháp thờ thần Ganesha, vị thần đầu voi mình người, con của thần Shiva, biểu tượng của tài trí, hạnh phúc và thành công. Linh vật thờ trong tháp là biểu tượng Linga và Yoni;
Theo tín ngưỡng của người dân địa phương, tháp thờ Cô, Cậu con của thánh Mẫu Thiên Y A Na.
Tháp có mặt bằng hình vuông.
Bệ tháp có cấu trúc như Tháp chính phía Bắc.
Thân tháp là một khối lập phương. Bề mặt tháp không phẳng mà có các trụ áp tường, dạng trụ kép, phân bố 1 trụ đôi tại góc tháp và 4 trụ đôi tại mặt tháp. Phía trên các trụ là các gờ tường nhô dần ra tạo thành diềm mái.Trên tường của thân tháp có hình điêu khắc thần chim, thần rắn, tiên nữ, sư tử.Thân tháp cũng có 3 ô cửa giả tại 3 mặt Bắc, Nam và Tây. Trên mỗi ô cửa giả đều có hoa văn trang trí hình các linh vật, được chạm trổ tinh xảo trên nền gạch nung. Trên ô cửa giả phía Nam là hình ảnh chim thần Garuda; ô cửa giả phía Bắc là hình ảnh thần Kala – vị thần thời gian; ô cửa giả phía Tây là hình tượng nữ thần cưỡi voi. Cửa vào đặt tại phía Đông của thân tháp.
Mái của tháp phụ có hình dáng như một khối tháp nhỏ đặt lên trên khối tháp to phía dưới với phần thân gồm các trụ tường và các gờ tường nhô dần ra phía ngoài để đỡ mái hình yên ngựa. 4 góc của mái tháp là 4 tháp nhỏ.
Phối cảnh Tháp phụ phía Tây, Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Tháp phụ phía Nam:
Đây là ngôi tháp có quy mô nhỏ nhất, cao 7,1m. Hình dáng bên ngoài tháp đã bị hư hại nhiều, chưa được phục dựng lại.
Tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ 11 – 12.
Theo Hindu giáo, đây là tháp thờ thần Skandha, con của thần Shiva, tượng trưng cho sức mạnh, chiến tranh.
Theo tín ngưỡng địa phương, đây là tháp thờ ông bà là cha mẹ nuôi của thánh Mẫu Thiên Y A Na.
Đế và thân tháp đơn giản. Thân tháp thu nhỏ dần lại để đỡ mái dạng hình mui thuyền hay hình yên ngựa.
Phối cảnh Tháp phụ phía Nam (bên phải ảnh) Quần thể đền Po Nagar, Nhà Trang, Khánh Hòa
Ngoài ra, tại Quần thể đền Po Nagar còn có các tháp phụ khác, hiện chỉ còn tàn tích nền móng. Người ta cho rằng, khi khảo sát Quần thể đền vào đầu thế kỷ 20, người Pháp đã phát hiện một kho chứa đồ của một tháp phụ và đã mang đi hết các đồ tế lễ bằng vàng và bạc trong đó.
Tháp Po Nagar còn là nơi lưu giữ nhiều bia ký cổ của người Champa, từ thế kỷ thứ 8 - 13. Trên mặt các bia ghi lại các sự kiện tháp bị giặc biển đốt phá năm 774 và việc xây dựng tượng Sri Satya Mukhalinga (linh vật linga có điêu khắc mặt thần hay mặt vua Champa); ghi lại công lao xây dựng tháp của các tiên vương; ghi việc dựng pho tượng Po Nagar bằng vàng vào năm 918 và pho tượng này bị người Khmer cướp đi, sau đó được thay thế bằng tượng đá vào năm 905; bia đá ở hai bên cửa Tháp chính phía Bắc ghi lại các lễ vật dâng cúng chư thần như: cúng ruộng; 55 nô lệ; sách vàng và bạc; bình vàng và bạc; bia dựng năm 1064 ghi lại việc xây dựng tháp cổng rất tốn kém…Ngoài ra tại đây cũng có một số bia vào thế kỷ 19, thời Nguyễn, trong đó có ghi lại truyền thuyết Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt.
Lễ hội Tháp Bà diễn ra từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Tháp Po Nagar, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa được đánh giá là một trong những di tích tháp Champa cổ và đẹp nhất còn tồn tại, là một trong công trình kiến trúc, nghệ thuật và văn hóa tiêu biểu của các đền tháp Champa, Việt Nam vào thế kỷ 10- 13.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1p_Po_Nagar
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn_Y_A_Na
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0n_V%C6%B0%C6%A1ng
https://ditichkhanhhoa.org.vn/index.php/2018/04/08/thap-ba-ponagar-nha-trang/
- Di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn (My Son Sanctuary), Duy Xuyên, Quảng Nam xem tại đây
- Xem bài viết về Tháp Hòa Lai, Thuận Bắc, Ninh Thuận tại đây
- Xem bài viết về Tháp Nhạn, Tuy Hòa, Phú Yên tại đây
- Xem bài viết về Tháp Po Klong Garai, Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận tại đây
- Xem bài viết về Tháp Dương Long, Tây Sơn, Bình Định
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|