Thông tin chung:
Công trình: Kênh đào Midi (Canal du Midi)
Địa điểm: Vùng Midi-Pyrénées (các tỉnh Haute-Garonne và Tarn); Vùng Languedoc-Roussillon (các tỉnh l'Aude và l'Herault), Pháp (N43 36 41 E1 24 59)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 2007ha; diện tích Vùng đệm 195836ha
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (1996; hạng mục i, ii, iv, v)
Pháp (France) là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại.
Pháp có tổng diện tích 643.801 km2, dân số gần 67,3 triệu người (năm 2018), thủ đô là thành phố Paris.
Trong thời đại đồ sắt (Iron Age), bắt đầu vào thế kỷ 12 trước Công nguyên (TCN), nước Pháp (không kể phần lãnh thổ hải ngoại) là nơi cư trú của bộ tộc người Gaulois thuộc Celt, là nhóm các bộ tộc đa dạng ở châu Âu.
Người La Mã (Roma) thống trị khu vực từ năm 51 TCN đến năm 476 sau Công nguyên. Từ năm 476, người Frank thuộc nhóm bộ tộc Germain, sống tại hạ lưu và trung lưu sông Rhine đã chinh phục vùng đất, thành lập Vương quốc Pháp (Kingdom of Francia).
Pháp nổi lên thành một đế chế hùng mạnh tại châu Âu vào cuối thời Trung cổ, thế kỷ 14 và 15. Việc giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Trăm năm (1337-1453, giữa Anh và Pháp) giúp Pháp củng cố quốc gia và tập trung hóa chính trị.
Trong thời kỳ Phục Hưng (thế kỷ 15 đến 17) văn hóa Pháp phát triển mạnh mẽ và nước Pháp dần trở thành một trong những đế quốc thực dân toàn cầu (Grande France).
Dưới thời vua Louis XIV (trị vì 1643 – 1715, còn gọi là Vua Mặt trời) Pháp trở thành thế lực chi phối văn hoá, chính trị và quân sự tại châu Âu.
Đến cuối thế kỷ 18, Cách mạng Pháp lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên một trong các nền cộng hoà sớm nhất trong lịch sử hiện đại. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, nền tảng của cuộc Cách mạng và biểu thị ý thức hệ của nước Pháp thời bấy giờ vẫn tiếp tục là đức tin mãnh liệt cho đến ngày nay.
Trong thế kỷ 19, Hoàng đế Napoléon Bonaparte (trị vì năm 1804- 1814) lập ra Đệ nhất Đế chế Pháp (First French Empire) và tiến hành các cuộc chiến tranh tại châu Âu. Sau khi Đế chế Pháp sụp đổ, Pháp trải qua giai đoạn các chính phủ kế tiếp nhau với đỉnh cao là thành lập Đệ tam Cộng hòa Pháp (French Third Republic) vào năm 1870. Trong thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, Pháp đã trở thành đế quốc thực dân lớn thứ 2 thế giới sau đế quốc Anh.
Nước Pháp là một bên tham chiến chính trong Chiến tranh Thế giới I, và giành được phần thắng. Trong Chiến tranh Thế giới II, Pháp thuộc khối Đồng Minh, bị phe Trục (Đức, Ý, Nhật) chiếm đóng vào năm 1940 và được giải phóng vào năm 1944. Đệ tứ Cộng hòa Pháp (French Fourth Republic) được thành lập năm 1946, song sau đó bị giải thể trong chiến tranh Algérie vào năm 1958. Nền Đệ ngũ Cộng hoà (Fifth Republic) dưới quyền của tổng thống Charles de Gaulle (tại vị năm 1959 – 1969) được thành lập vào năm 1958 và tồn tại cho đến ngày nay.
Hiện tại, Pháp được phân thành thành 18 vùng hành chính, gồm 13 vùng tại chính quốc và 5 vùng hải ngoại. Mỗi vùng chia thành 2 đến 18 tỉnh. Mỗi vùng hải ngoại tương đương 1 tỉnh.
Pháp thuộc nhóm Quốc gia phát triển và từ lâu đã có vị thế là một trung tâm của thế giới về nghệ thuật, khoa học và triết học, có số Di sản thế giới nhiều thứ 4 tại châu Âu (số liệu đến năm 2019: Ý 55 Di sản; Tây Ban Nha 48, Đức 46, Pháp 45).
Bản đồ nước Pháp và vị trí tuyến Kênh đào Midi trong Dự án Kênh đào Deux-Mers
Sơ đồ vị trí của Kênh đào Midi trong Dự án Kênh đào Deux-Mers, Pháp
Kênh đào Midi là phần đầu tiên của Dự án Kênh đào Deux-Mers (Deux-Mers Canal) nhằm nối Địa Trung Hải (Mediterranean) và Đại Tây Dương (Atlantic) bằng cách kết nối một số đoạn đường thủy.
Kênh đào Midi nằm tại Vùng Midi-Pyrénées (tỉnh Haute-Garonne và Tarn); Vùng Languedoc-Roussillon (tỉnh l'Aude và l'Herault), miền nam nước Pháp.
Kênh đào Midi được xây dựng vào năm 1667, hoàn thành năm 1681.
Kênh dài khoảng 360 km. Đoạn kênh chính dài 240km nối Toulouse (tọa độ điểm đầu: 43,61102°B 1,41844°Đ) với Etang de Thau (tọa độ điểm cuối 43,34003°B 3,53978°E / Ngọn hải đăng Les Onglous); đoạn kênh phụ gồm kênh Brienne ở Toulouse; kênh Robine về phía Narbonne và Port-la-Nouvelle; ngoài ra còn có 80 km hệ thống cấp nước được thêm vào chiều dài này. Kênh kết nối với kênh Garonne Lateral, kênh nhánh La Nouvelle, kênh Brienne, Hérault và Étang de Thau.
Kênh đào Midi có bề rộng mặt 16- 20m, bề rộng đáy khoảng 10m, sâu 1,8- 2m. Kênh cho phép lưu thông thuyền có kích thước tối đa dài 30m, rộng 5,5m, chiều sâu mớn nước 1,5m. Dọc theo chiều dài Kênh có tới 328 cấu trúc (kênh dẫn nước, âu thuyền, cầu, đập tràn, đường hầm…). Điểm cao nhất của kênh tại Seuil de Naurouze với cao độ 189m so với mực nước biển.
Kênh ban đầu được đặt tên là Kênh đào Hoàng gia tại Languedoc (Canal royal en Languedoc) và được các nhà cách mạng Pháp đổi tên thành Kênh đào Midi vào năm 1789.
Kênh đào Midi được coi là một trong những công trình xây dựng vĩ đại nhất thế kỷ 17.
Việc xây dựng kênh đào nối Đại Tây Dương và Địa Trung Hải là ý tưởng của nhiều triều đại vua Pháp vào thế kỷ 16. Với một cấu trúc như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian tàu thuyền vận tải hàng hóa không phải đi vòng quanh Bán đảo Iberia mất đến một tháng và đầy rẫy nguy hiểm như cướp biển. Thời bấy giờ, đây là một dự án không tưởng bởi có quá nhiều vấn đề về kỹ thuật, ví dụ như việc cung cấp đủ nước cho Kênh đào ở vị trí cao (chênh so với mực nước biển 189m), cũng như chi phí xây dựng quá lớn.
Năm 1660, Pierre-Paul Riquet (kỹ sư, thương gia người Pháp, năm 1609- 1680) đã tìm ra giải pháp cho vấn đề chính: Nguồn cung cấp nước tại đỉnh Kênh để cung cấp cho Kênh được lấy từ đập và hồ chứa, sông tại khu vực lân cận. Kể từ thời điểm đó, Vua Louis XIV tin rằng kênh đào có thể thực hiện được về mặt kỹ thuật.
Năm 1663, Pierre-Paul Riquet đã tiến hành nghiên cứu thực địa để cuối cùng vạch ra các tuyến kênh một cách hợp lý nhất. Ông và các trợ lý đã tiến hành thực hiện phép đo dòng chảy và tính toán thể tích chứa nước của Kênh đào một cách có hệ thống và tự bỏ kinh phí lập những mô hình thử nghiệm để minh chứng các giải pháp kỹ thuật.
Những thành tựu kỹ thuật chính của Riquet bao gồm Âu thuyền Fonseranes và Đường hầm Malpas, đường hầm kênh có thể điều hướng đầu tiên trên thế giới. Con kênh được hoàn thành vào năm 1681, tám tháng sau khi Riquet qua đời. Ông được chôn cất tại Nhà thờ lớn Saint-Etienne ở Toulouse, Pháp.
Chân dung Kỹ sư Pierre-Paul Riquet
Sơ đồ cấu trúc kênh đào từ Toulouse đến Sète, thế kỷ 18
Theo chiều dài, Kênh đào Midi có 5 đoạn:
i) Phần chính nối Toulouse (Haute-Garonne) với Étang de Thau tại Marseillan dọc theo bờ biển Địa Trung Hải (Hérault) trên chiều dài 240 km;
ii) Đoạn 36,6 km giữa Moussan và Port-la-Nouvelle (Aude) kết hợp một phần của Kênh đào Robine (Canal de la Robine) trước đây;
iii) Hai nhánh hợp nhất và chảy vào kênh tại Naurouze (Aude), thung lũng núi Montagne Noire;
iv) Kênh Saint-Pierre (Saint-Pierre Canal, dài 1,6 km) nối phần chính của Kênh với sông Garonne ở Toulouse;
v) Đoạn ngắn (0,5 km) nối sông Hérault với âu thuyền tại Agde.
Một trong những đặc điểm đáng chú ý nhất là đập Saint-Ferréol (Saint-Ferréol dam), tạo thành hồ chứa Saint-Ferréol (Bassin de Saint-Ferréol) trên sông Laudot ở vùng Montagne Noire. Đây là công trình lớn nhất của toàn bộ Kênh đào và là địa điểm xây dựng dân dụng quan trọng nhất thời bấy giờ.
Khoảng cách kênh dài nhất giữa hai âu thuyền là 53,87km, giữa Âu thuyền tại Argens và Âu thuyền tại Fonserannes. Khoảng cách ngắn nhất giữa hai âu thuyền là 105m, giữa hai Âu thuyền tại Fresquel.
Theo mặt cắt dọc tại tuyến chính dài 240m, Kênh đào Midi đi lên cao từ Toulouse (1) đến Seuil de Naurouze (2), sau đó hạ xuống Castelnaudary (3), Carcassonne (4) và Trèbes (5); Kênh tiếp tục đến Béziers sau khi đi qua Âu thuyền Fonserannes (6), sau đó là Agde (7), để kết thúc tại bờ biển Sète trên Étang de Thau (8). Chênh cao từ điểm cao nhất của Kênh và mực nước biển là 189m. Thách thức kỹ thuật chính của Kênh đào Midi chính là việc chuyển nước từ Montagne Noire (Núi Đen) đến Seuil de Naurouze, điểm cao nhất của Kênh.
Sơ đồ mặt cắt dọc Kênh đào Midi, Pháp; khoảng cách tính bằng m, bắt đầu từ Toulouse và chiều cao tính bằng m so với mực nước biển
Thời bấy giờ, kinh tế Pháp khá khó khăn. Thương mại trong nước và quốc tể không có lợi cho Vương quốc Pháp. Việc xây dựng Kênh đào cho phép tạo một lối đi trực tiếp giữa Địa Trung Hải và Tây Đại Dương mà không đi qua eo biển Gibraltar do người Tây Ban Nha kiểm soát. Kênh đào khi được xây dựng làm vận tải thương mại hiệu quả hơn (giảm thời gian vận chuyển) để phân phối hàng hóa, tạo thành một tuyến thương mại mới qua vùng Languedoc, nơi có nhiều sản phẩm như lúa mì, rượu, vải len, lụa…mở mang vùng Toulouse; củng cố quyền lực Hoàng gia và làm suy yếu thương mại của Đế chế Tây Ban Nha kề liền.
Chi phí xây dựng Kênh đào chính một phần từ quốc gia (chiếm 40%), địa phương (chiếm 40%) và do doanh nghiệp (chiếm 20%, từ chính Pierre-Paul Riquet). Một số phần riêng lẻ của Kênh đào được xây dựng bởi các nhà thầu phụ. Trong khoảng 15 năm thực hiện, gần 12.000 công nhân đã làm việc để xây dựng kênh đào, bao gồm đàn ông và phụ nữ từ 20 – 50 tuổi, được tổ chức thành các xi nghiệp.
Ban đầu, Kênh Midi được sử dụng bởi các sà lan nhỏ có cột buồm dễ dàng hạ xuống và được kéo bởi các nhóm đàn ông. Vào giữa thế kỷ 18, việc kéo bằng ngựa đã chiếm lĩnh phần lớn và tàu kéo hơi nước xuất hiện vào năm 1834. Đến năm 1838, 273 tàu thường xuyên hoạt động trên kênh, gồm thuyền chở khách, chở thư, hàng hóa cho đến khi có đường sắt vào năm 1857. Trọng tải của thuyền tăng lên từ 60 tấn lúc đầu lên đến 120 tấn vào đầu thế kỷ 19.
Thời bấy giờ, loại phương tiện giao thông này được coi là một cuộc cách mạng nhờ tính đều đặn, thoải mái, an toàn và tốc độ vượt trội so với đường bộ. Ngoài ra, con kênh có thể đi lại quanh năm. Mất 4 ngày từ Toulouse
đến Sète (cuối phía đông nam Étang de Thau, cạnh biển Địa Trung Hải). Thời gian này giảm xuống còn 32 giờ vào năm 1855, tương ứng với tốc độ 11km/h, nhờ việc đổi ngựa kéo thuyền mỗi đoạn 10km. Ngoài ra, thay vì vượt qua âu thuyền, khách du lịch được chuyển từ tàu này sang tàu khác, giúp tiết kiệm thời gian và nước dùng để mở van. Ngoài ra, việc vận chuyển còn diễn ra vào ban đêm để tiết kiệm thời gian hơn nữa.
Kênh đào Midi góp phần thúc đẩy giao thông thương mại qua việc xuất khẩu lúa mì, rượu vang của khu vực và nhập khẩu các sản phẩm khác như gạo, tính bột, cá khô, xà phòng, gia vị và thuốc nhuôm từ các vùng khác. Tuy nhiên, hoạt động thương mại chỉ dừng lại trong phạm vi địa phương và quốc gia, chưa đạt được là tuyến giao thương quốc tế như các vị vua Pháp dự tính.
Vào năm 1856, đã có tới 100 ngàn lượt khách qua Kênh đào. Sau đó, vai trò giao thương trên Kênh đào giảm dần do việc lắp đặt các tuyến đường sắt.
Từ cuối thế kỷ 20, Kênh đào Midi trở thành tuyến kênh dành cho du lịch và giải trí giữa Đại Tây Dương và Địa Trung Hải (chiếm tới 1/5 lượng du lịch đường sông của Pháp và 80% là du khách nước ngoài). Ngoài ra, trong mùa khô, Kênh đào như một hồ chứa nước cho nông nghiệp (gắn với hệ thống 700 máy bơm tưới được lắp đặt dọc Kênh), phục vụ cho một lưu vực 40 ngàn ha.
Kênh đào Midi nằm trong số những thành tựu kỹ thuật dân dụng phi thường nhất của thời kỳ hiện đại (thế kỷ 17), mở đường cho cuộc Cách mạng Công nghiệp. Mối quan tâm về thẩm mỹ kiến trúc và cảnh quan nhân tạo đã truyền cảm hứng cho nhà thiết kế Pierre-Paul Riquet, khiến Kênh đào không chỉ là một kỳ tích kỹ thuật mà còn là một tác phẩm nghệ thuật.
Kênh đào Midi là minh chứng sống động cho nghệ thuật và sức sáng tạo của các kỹ sư thời vua Louis XIV (trị vì 1643 – 1715), đã chiến thắng những điều kiện khó khăn về địa lý, thủy văn để hiện thực hóa giấc mơ ngàn xưa về “Ngã ba biển” ("Junction of the seas"). Tác động văn hóa và kỹ thuật trên phạm vi rộng của Kênh Midi đã mở đầu và ảnh hưởng đến kỷ nguyên hiện đại trong việc tạo ra mạng lưới kênh đào có thể điều hướng trên khắp các quốc gia công nghiệp hóa ở Châu Âu và Bắc Mỹ.
Kênh Midi (Canal du Midi) tại Vùng Midi-Pyrénées (các tỉnh Haute-Garonne và Tarn); Vùng Languedoc-Roussillon (các tỉnh l'Aude và l'Herault), Pháp được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 1996) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Kênh đào Midi là một trong những thành tựu kỹ thuật dân dụng phi thường nhất của thời hiện đại.
Tiêu chí (ii): Canal du Midi là đại diện cho bước đột phá công nghệ mở đường cho cuộc Cách mạng Công nghiệp (Industrial Revolution) và công nghệ đương đại. Ngoài ra, nó liên kết đổi mới công nghệ với mối quan tâm thẩm mỹ lớn về kiến trúc và cảnh quan nhân tạo, một cách tiếp cận hiếm khi tìm thấy ở nơi khác.
Tiêu chí (iv): Kênh đào Midi là một ví dụ nổi bật về một kênh đào lớn đầu tiên được xây dựng để đáp ứng mục tiêu phát triển lãnh thổ chiến lược. Nó minh họa cho một giai đoạn có ý nghĩa trong lịch sử châu Âu, đó là vận chuyển đường sông thông qua kỹ thuật dân dụng thủy lợi bậc thầy.
Tiêu chí (v): Ngay khi được xây dựng, Canal du Midi đã trở thành đặc điểm nổi bật nhất của lãnh thổ mà nó chạy qua, tất cả đều hòa nhập vào môi trường và tạo ra một cảnh quan mới.
Phạm vi Di sản và vùng đệm Kênh đào Midi, Pháp
Sơ đồ mặt bằng các đoạn Kênh đào Midi, Pháp
Di sản Kênh đào Midi dài 360km (240 km tuyến chính) với tổng số 328 cấu trúc, bao gồm 63 âu thuyền (Lock / water navigation), 126 cây cầu (Bridge), 55 cầu dẫn nước (Aqueduct / bridge), 6 đập (Dams), 1 đập tràn (Spillway) và 1 đường hầm (Tunnel).
Tuyến kênh
Kênh đào Midi có 5 phần kênh:
i) Kênh chính nối Toulouse (Haute-Garonne) với Étang de Thau tại Marseillan dọc theo bờ biển Địa Trung Hải (Hérault) trên chiều dài 240 km (trong hình vẽ bao gồm đoạn 1, 2, 4, 5, 7, 8);
ii) Kênh giữa Moussan và Port-la-Nouvelle (Aude) kết hợp một phần của Kênh đào Robine (Canal de la Robine) trước đây; kênh dài 36,6 km;
iii) Hai nhánh kênh hợp nhất và chảy vào kênh tại Naurouze (Aude) đổ ra vùng nước của Montagne Noire;
iv) Kênh Saint-Pierre (Saint-Pierre Canal, dài 1,6 km) nối phần chính của Kênh với Garonne ở Toulouse;
v) Đoạn ngắn (0,5 km) nối Hérault với âu thuyền tại Agde.
Âu thuyền
Âu thuyền (Lock / water navigation) là thiết bị dùng để nâng, hạ tàu, thuyền và các phương tiện thủy khác giữa các đoạn nước có mực nước khác nhau trên các tuyến đường thủy sông. Các âu thuyền được sử dụng để làm cho dòng sông có thể đi lại dễ dàng hơn hoặc để cho phép một con kênh đi qua vùng đất không bằng phẳng.
Sơ đồ trình tự thao tác âu thuyền: 1. Thuyền xuôi dòng; 2. Thuyền vào âu; 3. Cửa hạ lưu đóng; 4 và 5. Khoang nước cao: 6. Mở cửa thượng lưu; 7. Thuyền rời âu; 8. Thuyền xuôi dòng; 9. Thuyền vào âu 10. Cửa thượng lưu đóng; 11 và 12. Khoang nước thấp; 13. Cửa hạ lưu mở; 14. Thuyền rời âu.
Âu thuyền tại tuyến chính Kênh đào Midi có 86 cái (hiện sử dụng còn 65 cái), bắt đầu từ Kênh đào Lateral a la Garonne (Canal Lateral a la Garonne/ Canal de Garonne) ở phía tây đến Bassin du Thau ở phía đông.
Tại tuyến kênh chính, Âu thuyền được đánh số từ 1-18 đi lên và 19 – 86 đi xuống.
Ngoài các âu thuyền chính, tại đây còn có thêm âu thuyền tại các nhánh kênh phụ (như nhánh La Nouvelle dài 37 km chạy qua Narbonne đến Địa Trung Hải tại Port-la-Nouvelle), tổng cộng là 91 cái.
Kích thước chuẩn ban đầu của Âu thuyền do Pierre-Paul Riquet chế tạo, có mặt bằng hình quả trứng, dài khoảng 30m, rộng khoảng 6m ở cửa và 11m ở tâm Âu thuyền. Độ chênh cao trung bình là 2,5 m. Độ chênh cao tối đa 2,9m giữa các bậc nước. Các âu thuyền liền nhau thường chứa cùng một thể tích nước.
Âu thuyền được xây bằng gạch, đá với vữa vôi.
Các cửa van khóa ban đầu được làm bằng gỗ sồi và nâng bằng các trục vít (sức ngựa), sau đó được thay thế bằng kim loại và nâng bằng hệ thống thủy lực và điện.
Mỗi âu thuyền có một ngôi nhà (2 tầng) cho người coi giữ âu thuyền và chuồng ngựa.
Các âu thuyền trên tuyến Kênh đào Midi đều nằm dưới sự quản lý của cơ quan hàng hải Pháp.
Ngôi nhà điển hình của người coi giữ âu thuyền trên Kênh đào Midi, Pháp
Một số âu thuyền chính Kênh đào Midi, từ phía tây:
Âu thuyền Négra
Âu thuyền Négra (Négra Lock/ écluse de Négra) là Âu thuyền đơn số 10, nằm cách Toulouse 33,3km, tại cao độ 166m. Âu thuyền nằm gần làng Villefranche-de-Lauragais, thuộc tỉnh Haute-Garonne.
Âu thuyền có một nhà nguyện nhỏ ở cửa cống và cũng có một cầu dẫn nước nhỏ bằng gạch đỏ dẫn con kênh bắc qua Thésauque, một nhánh của sông Hers.
Phối cảnh Âu thuyền Négra, Kênh đào Midi, Pháp
Âu thuyền Ocean
Âu thuyền Ocean (Océan Lock) là Âu thuyền đơn số 18, nằm cách Toulouse 51,6km, tại cao độ 193m. Âu thuyền nằm tại xã Montferrand, thuộc tỉnh Aude. Âu thuyền Ocean đánh dấu phần đỉnh của Kênh đào, khi đi từ tây sang đông.
Phối cảnh Âu thuyền Ocean, Kênh đào Midi, Pháp
Âu thuyền Homps
Âu thuyền Homps (Homps Lock) là Âu thuyền đơn số 72, nằm cách Toulouse 146,4km, tại cao độ 46m. Âu thuyền nằm tại phía đông của thị trấn nhỏ Homps, tỉnh Aude.
Phối cảnh Âu thuyền Homps, Kênh đào Midi, Pháp
Âu thuyền Ognon
Âu thuyền Ognon (Ognon Lock/ Ecluses d'Ognon) là Âu thuyền đôi số 73, 74, nằm cách Toulouse 147,1km, tại cao độ 41m.
Âu thuyền nằm tại xã Olonzac, Hérault, giáp ranh giới với tỉnh Aude. Liền kề là Âu thuyền Pechlaurier, cách 2,7km về phía đông và Âu thuyền Homps, cách 0,7km về phía tây.
Phối cảnh Âu thuyền Ognon, Kênh đào Midi, Pháp
Âu thuyền Pechlaurier
Âu thuyền Pechlaurier (Pechlaurier Lock) là Âu thuyền đôi số 75, 76, nằm cách Toulouse 149,8km, tại cao độ 38m, thuộc tỉnh Aude. Liền kề là Âu thuyền Ognon, cách 2.7km về phía tây; Âu thuyền Argens, cách 2,5km về phía đông.
Phối cảnh Âu thuyền Pechlaurier, Kênh đào Midi, Pháp
Âu thuyền Argens
Âu thuyền Argens (Argens Lock) là Âu thuyền đơn số 77, nằm cách Toulouse 152,3km, tại cao độ 32m.
Âu thuyền đặt tại phía đông của thị trấn Argens, tỉnh Aude.
Phối cảnh Âu thuyền Argens, Kênh đào Midi, Pháp
Âu thuyền Fonseranes
Âu thuyền Fonseranes (Fonseranes Locks / écluses de Fonseranes) là Âu thuyền số 78, nằm cách Toulouse 206,6km, tại thị trấn Béziers, tỉnh Hérault (cách bờ biển Địa Trung Hải khoảng 10km).
Âu thuyền gồm một dãy 8 âu thuyền hình bầu dục và 9 cửa cống, cho phép nâng thuyền lên độ cao 21,5m, trong khoảng cách 300m. Đây là Âu thuyền được biết tới nhiều nhất tại Kênh đào Midi.
Âu thuyền đầu tiên được xây dựng dưới dạng một dãy 8 âu thuyên. Âu thuyền thứ 9 cách nhau 710m về phía đông bắc cho phép thuyền bè băng qua sông Orb.
Vào năm 1858, một cống dẫn nước đã được xây dựng để thay thế việc vượt qua Orb. Giờ đây, các con thuyền ra vào qua 6 âu thuyền. Các âu thuyền khác không còn sử dụng.
Năm 1983, tại đây xây dựng bổ sung Dốc nước Fonseranes (Water slope/ Pente d'eau; là một loại mặt phẳng nghiêng của kênh được xây dựng để đưa thuyền từ kênh hoặc sông ở độ cao này lên hoặc xuống kênh hoặc sông ở độ cao khác). Dốc nước chạy gần song song với dãy âu thuyền, có độ cao 13,6m và độ dốc 5 độ. Từ năm 2001, việc hoàn thiện Dốc nước đã dừng lại.
Âu thuyền Fonseranes vẫn còn lưu giữ các tòa nhà truyền thống như chuồng ngựa (dành cho ngựa kéo thuyền) và nhà của người coi giữ Âu thuyền.
Sơ đồ mặt bằng Âu thuyền Fonseranes; chỉ còn 6 Âu thuyền, ký hiệu từ 1 – 6 là còn sử dụng đến ngày nay
Phối cảnh Âu thuyền Fonseranes với hệ thống bậc nước, Kênh đào Midi, Pháp
Âu thuyền Agde Round
Âu thuyền Agde Round (Agde Round Lock) là Âu thuyền số 84, nằm cách Toulouse 231,4km, tại cao độ 4m.
Âu thuyền nối với sông Hérault, tại xã Agde, tỉnh Hérault.
Âu thuyền gần như duy nhất có hình tròn, cho phép thuyền quay đầu. Âu thuyền có 3 cửa khóa với mực nước khác nhau. Âu thuyền được xây dựng vào năm 1676 bằng đá núi lửa và ban đầu có đường kính 29,20m, sâu 5,20m. Sau này Âu thuyền được mở rộng để cho phép lưu thông sà lan dài tới 38,5m.
Các tòa nhà trong khu vực Âu thuyền bao gồm tòa nhà hành chính, chuồng ngựa, cửa hàng và nhà nguyện.
Phối cảnh Âu thuyền Agde Round, Kênh đào Midi, Pháp
Cảng
Một số cảng (Ports) được xây dựng đều đặn dọc theo tuyến kênh để bốc xếp hàng hóa và cũng là nơi dừng chân cho khách du lịch. Từ phía tây đến phía đông của Kênh đào Midi có cảng chính tại:
Thành phố Toulouse (nằm bên bờ sông Garonne, cách Đại Tây Dương 230km và cách Địa Trung Hải 150km) có hai cảng:
Cảng l'Embouchure (Port de l'Embouchure), nằm tại ngã ba của Kênh đào Midi, Kênh đào Brienne (Canal de Brienne) và Kênh đào Garonne Canal de Garonne).
Cảng Saint-Sauveur (Port Saint-Sauveur) nằm ở trung tâm thành phố.
Cảng l'Embouchure, Kênh đào Midi, Pháp
Cảng Saint-Sauveur, Kênh đào Midi, Pháp
Thị trấn Castelnaudary (nằm cách Thành phố Toulouse 50km về phía đông nam) có Cảng Grand Basin (Port de Grand Basin) là một trong những cảng chính của Kênh đào Midi. Cảng Grand Basin rộng 7 ha, được xây dựng từ năm 1666 đến 1671. Phía tây của Cảng có một đảo mang tên Cybele được xây dựng vào năm 1754, có vai trò là công trình chắn gió cho cảng, được xây dựng vào năm 1754. Cảng như một hồ chứa nước cho 4 âu thuyền tại Saint – Roche.
Tiếp sau Cảng Grand Basin có hai cảng nhỏ là Cảng Segala (Port du Segala) và Cảng Bram (Port de Bram).
Cảng Grand Basin, Castelnaudary, Kênh đào Midi, Pháp
Thị trấn Carcassonne (nằm cách Thành phố Toulouse 90km về phía đông nam) có Cảng Carcassonne (Port de Carcassonne) là một điểm dừng chân du lịch lớn trên kênh đào, được xây dựng vào năm 1810, thời điểm thị trấn kết nối với kênh đào.
Cảng Carcassonne, Kênh đào Midi, Pháp
Thị trấn Trèbes (nằm cách Thành phố Toulouse 98km về phía đông nam; cách Thị trấn Carcassonne 8 km về phía đông) có một cảng lớn (Port de Trèbes) với nhiều bến neo đậu cho tàu thuyền.
Cảng Trèbes, Kênh đào Midi, Pháp
Homps là một xã thuộc tỉnh Aude (nằm cách Thành phố Toulouse 110km về phía đông nam). Tại đây có Cảng Homps (Port de Homps), là một trong những cảng quan trọng nhất trên Kênh đào Midi.
Cảng Homps, Kênh đào Midi, Pháp
Le Somail là một xã thuộc tỉnh Aude (nằm cách Thành phố Toulouse 120km về phía đông nam). Tại đây có Cảng Le Somail (Port de Le Somail), một nơi nổi tiếng để nghỉ ngơi và giải trí.
Cảng Le Somail, Kênh đào Midi, Pháp
Capestan là một xã thuộc tỉnh Hérault (nằm cách Thành phố Toulouse 132km về phía đông nam). Tại đây có Cảng Capestang (Port de Capestang), là một trong những cảng lớn nhất trên Kênh đào Midi.
Cảng Capestan, Kênh đào Midi, Pháp
Cuối cùng, ngay trước khi đến Địa Trung Hải, kênh đào có hai cảng:
Cảng Agde (Port de Agde), thuộc xã Agde, tỉnh Hérault, là cảng nằm trên bờ Địa Trung Hải của Kênh đào Midi.
Cảng Onglous (Port de Onglous) tại Marseillan, một xã thuộc tỉnh Hérault, là cảng cuối cùng trước Sète và con kênh hoàng gia dẫn ra biển.
Cảng Agde, Kênh đào Midi, Pháp
Cảng Onglous, Kênh đào Midi, Pháp
Cấp nước cho Kênh đào Midi
Hệ thống mương
Cần 90 triệu mét khối nước để cấp cho Kênh đào Midi trong một năm. Để làm được điều này, Kỹ sư Pierre-Paul Riquet đã thiết lập một hệ thống cấp nước phức tạp cho con kênh.
Nước từ núi Noire (Montagne Noire) nằm cách đó vài chục km và đưa đến Seuil de Naurouze, điểm cao nhất của Kênh đào thông qua các hai con mương: Mương Montagne (Rigole de la Montagne) dài 24,3km và Mương Plaine (Rigole de la Plaine) dài 38,1km. Hai tuyến mương này kết nối với 3 hồ chứa tại Seuil de Naurouze.
Mương Montagne, Kênh đào Midi, Pháp
Mương Plaine, Kênh đào Midi, Pháp
Hồ chứa
Hệ thống hồ chứa cấp nước cho Kênh đào Midi gồm 3 hồ:
Hồ chứa Saint-Ferréol (Bassin de Saint-Ferréol) nằm trên sông Laudot, thuộc địa phận ba xã Vaudreuille (tỉnh Haute-Garonne), Les Brunels (tỉnh Aude) và Sorèze (tỉnh Tarn). Hồ có diện tích 67ha, dung tích 6,3 triệu m3, được xây dựng từ năm 1667 – 1672. Nước hồ được tạo thành bởi Đập Saint-Ferréol (Saint-Ferréol dam). Đập dài 780m, chiều rộng đáy hơn 140m, cao 32m, được khởi công vào năm 1667. Nước được lấy từ hồ chứa thông qua Đường hầm Cammazes, hình vòm bằng đá xuyên qua chân đập. Đường hầm dài 121m, đường kính 2,7m, được xây dựng bởi Marshall Sebastien Vauban (kỹ sư quân sự, năm 1633 – 1707) vào năm 1686- 1687.
Hồ chứa Saint-Ferréol, Kênh đào Midi, Pháp
Đường hầm Cammazes và mương dẫn nước từ Hồ chứa Saint-Ferréol, Kênh đào Midi, Pháp
Hồ chứa Lampy (Bassin de Lampy) được xây dựng trên Thung lũng Lampy ở tỉnh Aude. Hồ có diện tích 24ha, dung tích 1,6 triệu m3, được xây dựng từ năm 1777- 1782. Nước Hồ được giữ bởi Đập Lampy, dài 126m, cao 16m, chiều rộng đỉnh đập 5m. Nước trong Hồ chảy vào Hồ Saint-Ferréol (Bassin de Saint-Ferréol).
Hồ chứa Lampy, Kênh đào Midi, Pháp
Đập tại Hồ chứa Lampy, Kênh đào Midi, Pháp
Hồ chứa Cammazes (Lac des Cammazes) nằm trên dòng sông Sor, thuộc các xã Cammazes và Sorèze ở tỉnh Tarn, và xã Saissac ở tỉnh Aude. Hồ có diện tích 90ha, dung tích 18,8 triệu m3, trong đó 4 triệu m3 cấp cho Kênh đào Midi. Nước hồ được giữ bởi Đập Cammazes (Barrage des Cammazes), được xây dựng vào năm 1957. Đập dài 198m, cao 70m.
Hồ chứa Cammazes, Kênh đào Midi, Pháp
Đập tại Hồ chứa Cammazes, Kênh đào Midi, Pháp
Cầu kênh đào
Cầu kênh đào (Pont-canal) hay cầu dẫn nước được xây dựng dọc theo Kênh đào Midi (Aqueducts on the Canal du Midi), cho phép kênh giao nhau và băng qua các suối tự nhiên. Đặc biệt là có tuyến kênh Herbettes Aqueduct băng qua đường cao tốc ở Toulouse và tuyến kênh Ouvrages du Libron băng qua sông Libron.
Cầu kênh đào luôn có các cổng bảo vệ (một cổng ở mỗi đầu) cho phép nó được cách ly với hai đoạn liền kề. Do khối lượng nước mà nó thường xuyên gánh nên cầu kênh bao giờ cũng nặng hơn cầu đường bộ cùng nhịp.
Một số cầu dẫn nước có từ thời Pierre-Paul Riquet, nhưng hầu hết được xây dựng sau khi kênh đào hoàn thành, đặc biệt là do những cải tiến do kỹ sư Vauban đề xuất.
Một số cầu dẫn nước chính (theo thứ tự từ Toulouse đến Agde):
Cầu kênh đào Herbettes (Herbettes aqueduct) nằm cách trung tâm Thành phố Toulouse khoảng 2km, được hoàn thành vào năm 1983, làm bằng thép dài 74 m, băng qua đường cao tốc 4 làn xe.
Cầu kênh đào Herbettes, Kênh đào Midi, Pháp
Cầu kênh đào Fresquel (Fresquel aqueduct) nằm gần Cảng Carcassonne (Port de Carcassonne), được xây dựng bắt đầu từ năm 1800- 1810, là kết quả của việc sắp xếp lại tuyến đường đi qua trung tâm thành phố Carcassonne (nằm cách Thành phố Toulouse 90km về phía đông nam), thuộc tỉnh Aude. Cầu xây bằng gạch, đá, dài 43,8m; rộng 26,3m; gồm 3 nhịp, mỗi nhịp dài 11,7m.
Cầu kênh đào Fresquel, Kênh đào Midi, Pháp
Cầu kênh đào Orbiel tại Trèbes (Orbiel aqueduct at Trèbes), được xây dựng vào năm 1686- 1687, tại thị trấn Trèbes (nằm cách Thành phố Toulouse 98km về phía đông nam), thuộc tỉnh Aude. Cầu dẫn nước làm bằng gạch, đá, gồm 3 nhịp.
Cầu kênh đào Orbiel, Kênh đào Midi, Pháp
Cầu kênh đào Répudre (Pont-canal de Répudre/ Répudre aqueduct) được xây dựng từ năm 1667 đến năm 1676 để bắc qua sông Répudre gần làng Paraza (nằm cách Thành phố Toulouse 118km về phía đông nam), thuộc tỉnh Aude. Sông Répudre là một nhánh nhỏ của sông Aude. Cầu kênh đào được xây bằng gạch, đá, dài 90m, rộng 7,9m.
Sơ đồ Cầu kênh đào Répudre, Kênh đào Midi, Pháp
Cầu kênh đào Répudre, Kênh đào Midi, Pháp
Cầu kênh đào Cesse (Cesse aqueduct) được hoàn thành vào năm 1690, để bắc qua sông Cesse. Cầu kênh đào nằm tại làng Mirepeisset, tỉnh Aude, (nằm cách Thành phố Toulouse 123km về phía đông nam), gần Cảng Le Somail, được xây bằng gạch, đá. Kênh có 3 nhịp, nhịp giữa dài 18,3m, hai nhịp bên mỗi nhịp dài 14,6m.
Cầu kênh đào Cesse, Kênh đào Midi, Pháp
Cầu kênh đào Orb (Orb aqueduct) được hoàn thành vào năm 1858, để bắc qua sông Orb. Cầu kênh đào nằm tại thị trấn Béziers, tỉnh Languedoc (nằm cách Thành phố Toulouse 145km về phía đông nam), được xây dựng bằng đá với 7 nhịp. Kênh rộng 28m, cao 12, dài 240, là cầu kênh đào dài nhất tại Kênh đào Midi.
Cầu kênh đào Orb, Kênh đào Midi, Pháp
Các cấu trúc khác
Đường hầm Malpas (Malpas Tunnel): Nằm dưới ngọn đồi d'Ensérune, tại xã Nissan -lez-Ensérune, tỉnh Hérault. Công trình được xây dựng vào năm 1679, dài 165m, vòm cao 8m so với mặt kênh, đi qua một ngọn đồi cao 50m trên mực nước biển và là một thách thức kỹ thuật vào thời điểm đó.
Bên ngoài và bên trong Đường hầm Malpas, Kênh đào Midi, Pháp
Đập tràn Argent-Double (Argent-Double spillway): Nằm ở xã La Redorte, tỉnh Aude, gần Âu thuyền Argens (Argens Lock/ Argent-Double Aqueduct). Đập được hình thành từ 11 vòm đá liên phép, cho phép tràn từ Kênh đào xả vào dòng suối.
Đập tràn Argent-Double, Kênh đào Midi, Pháp
Kênh qua sông Libron (Ouvrages du Libron): Là một thành tựu độc đáo của loại hình này cho phép con kênh đi qua đoạn sông Libron (chảy ra Địa Trung Hải), gần xã Agde, tỉnh Hérault; là cảng Địa Trung Hải của Kênh đào Midi. Cấu trúc hiện tại được xây dựng vào năm 1855.
Đáy của sông Libron tương đương với mức nước bình thường của Kênh đào Midi. Như vậy tại đoạn giao nhau, đáy của sông Libron sẽ sâu hơn so với vị trí khác là 1,8- 2m. Đoạn trũng này bị lấp đầy phù sa và mảnh vụn, ảnh hưởng đến dòng chảy của Kênh Midi.
Trong thời kỳ lũ lụt, một sà lan có thành phẳng đặc biệt sẽ được đặt trong kênh, giống như một chiếc bè, với các bức tường cao ở hai đầu, tạo thành một khu vực có tường bao lớn cho phép sông Libron chảy qua kênh mà không lắng đọng phù sa và rác thải.
Tổng mặt bằng Kênh qua sông Libron, Kênh đào Midi, Pháp
Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Kênh qua sông Libron, Kênh đào Midi, Pháp
Kênh qua sông Libron, Kênh đào Midi, Pháp
Cối xay nước (Watermills): Được đặt theo tên của Âu thuyền (ví dụ: Naurouze, Gay, Trèbes, Matabiau, Minimes, Castelnaudary, Castanet, Beziers…) và sử dụng chênh lệch độ cao của nước để cung cấp năng lượng cho các cối xay đá (Quern-stones) để nghiền ngũ cốc, thịnh hành trong thế kỷ 18.
Di sản Kênh Midi (Canal du Midi) tại Vùng Midi-Pyrénées (các tỉnh Haute-Garonne và Tarn); Vùng Languedoc-Roussillon (các tỉnh l'Aude và l'Herault), Pháp là một trong những thành tựu kỹ thuật dân dụng phi thường nhất của thời hiện đại, là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
https://whc.unesco.org/en/list/770/
https://en.wikipedia.org/wiki/France
https://en.wikipedia.org/wiki/Pierre-Paul_Riquet
https://en.wikipedia.org/wiki/Canal_du_Midi
https://en.wikipedia.org/wiki/Locks_on_the_Canal_du_Midi
https://en.wikipedia.org/wiki/Rigole_de_la_montagne
https://fr.wikipedia.org/wiki/Rigole_de_la_plaine
https://en.wikipedia.org/wiki/Fonseranes_Locks
https://en.wikipedia.org/wiki/Fonseranes_Water_Slope
https://en.wikipedia.org/wiki/Locks_on_the_Canal_du_Midi
https://en.wikipedia.org/wiki/R%C3%A9pudre_Aqueduct
https://en.wikipedia.org/wiki/Aqueducts_on_the_Canal_du_Midi
https://en.wikipedia.org/wiki/Bassin_de_Saint-Ferr%C3%A9ol
https://en.wikipedia.org/wiki/Bassin_de_Lampy
https://fr.wikipedia.org/wiki/Barrage_des_Cammazes
https://en.wikipedia.org/wiki/Malpas_Tunnel
https://en.wikipedia.org/wiki/Ouvrages_du_Libron
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|