Thông tin chung:
Công trình: Chùa hang Rangiri Dambulla (Rangiri Dambulla Cave Temple)
Địa điểm: Huyện Matale, Central Province, Sri Lanka (N7 51 24 E80 38 57)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm thực hiện:
Giá trị: Di sản thế giới (1991; hạng mục i, iv)
Sri Lanka là một quốc đảo ở Nam Á, thuộc Ấn Độ Dương, tách về mặt địa lý với tiểu lục địa Ấn Độ bởi vịnh Mannar và eo biển Palk.
Sri Lanka có diện tích 65.610 km2, dân số 21,8 triệu người (2019).
Thủ đô lập pháp là thành phố Sri Jayawardenepura Kotte; Thủ đô hành pháp và tư pháp là Colombo. Đây cũng là thành phố và trung tâm thương mại lớn nhất.
Sri Lanka là nơi có nhiều nền văn hóa, ngôn ngữ và sắc tộc. Ngôn ngữ chính thức là Sinhala và Tamil.
Về mặt hành chính, Sri Lanka được chia thành 9 tỉnh và 25 huyện.
Lịch sử của Sri Lanka kéo dài 3.000 năm. Các khu định cư của người tiền sử có niên đại ít nhất 125.000 năm.
Sri Lanka có một di sản văn hóa phong phú, đặc biệt là nơi lưu giữ các bản Kinh Phật đầu tiên (Pāli Canon) từ năm 29 trước Công nguyên TCN).
Sri Lanka với vị trí địa lý và bến cảng nước sâu có một tầm quan trọng chiến lược từ thời Con đường Tơ Lụa (Silk Road) trên đất liền cho đến các Con đường Tơ Lụa trên biển (Maritime Silk Road).
Sri Lanka đã trải qua một số vương triều nổi bật:
Vương quốc Tambapanni (Kingdom of Tambapanni, tồn tại 543 – 437 TCN);
Vương quốc Anuradhapura (Anuradhapura Kingdom, tồn tại 437 TCN - 1017 sau Công nguyên);
Vương quốc Chola (đến từ miền Nam Ấn Độ) lật đổ Vương quốc Anuradhapura (Chola-occupied Anuradhapura, tồn tại 1017 - 1055);
Vương quốc Polonnaruwa (Kingdom of Polonnaruwa, tồn tại 1055 - 1232);
Vương quốc Dambadeniya (Kingdom of Dambadeniya, tồn tại 1220 - 1345);
Vương quốc Gampola (Kingdom of Gampola, tồn tại 1345 - 412);
Vương quốc Kotte (Kingdom of Kotte, tồn tại 1412 - 1597);
Vương quốc Sitawaka (Kingdom of Sitawaka, tồn tại 1521 - 1594);
Vương quốc Kandy (Kingdom of Kandy, tồn tại 1591 - 1815).
Vào thời Vương quốc Anuradhapura, Sri Lanka đã trở thành một trung tâm thương mại lớn của cả vùng Viễn Đông. Việc buôn bán hàng hóa và gia vị của Sri Lanka đã thu hút thương nhân của nhiều quốc gia, tạo nên dân số đa dạng của Sri Lanka.
Người Bồ Đào Nha (Portuguese Ceylon) xuất hiện ở tại Sri Lanka, tìm cách kiểm soát tuyến hàng hải đi qua khu vực vào những năm 1505- 1658.
Sau đó, người Hà Lan (Dutch Ceylon) tiếp quản tài sản của người Bồ Đào Nha vào những năm 1640- 1796.
Người Anh (British Ceylon) đến và kiểm soát hoàn toàn hòn đảo từ năm 1851- 1948.
Ngày 4/2/1948 Sri Lanka độc lập khỏi chế độ thực dân Anh.
Bản đồ Sri Lanka và vị trí huyện, Matale, tỉnh Central, Sri Lanka
Huyện Matale thuộc tỉnh Central (Miền Trung), Sri Lanka. Đây là một trong 25 quận, huyện của Sri Lanka , đơn vị hành chính cấp hai của đất nước. Thủ phủ hành chính và thành phố lớn nhất của huyện là Matale.
Huyện Matale nằm ở phía bắc của tỉnh Central; có tổng diện tích 1.993 km2, dân số khoảng 522 ngàn người (năm 2019).
Tại Matale có một di tích Phật giáo nổi tiếng nằm trong hang đá, Thiền viện Rangiri Dambulla, là địa điểm thể hiện sự liên kết truyền thống thực hành nghi lễ Phật giáo và hành hương liên tục trong hơn hai thiên niên kỷ.
Công trình Phật giáo trong hang đá tại Ấn Độ, Sri Lanka… thường theo hai dạng:
Hang thiền viện (Vihara Cave) hay hang tịnh xá không chỉ là nơi ở cho những người xuất gia theo Phật giáo (cư sĩ/tỳ kheo), mà còn là kho lưu trữ ngũ cốc và thực phẩm cho du khách. Cấu trúc hang thiền viện thường có mặt bằng hình vuông hoặc chữ nhật, gồm một không gian trung tâm và bao quanh là các hốc hay hang nhỏ, là nơi có giường được chạm khắc vào trong đá. Hang thiền viện giai đoạn đầu đơn giản, về sau này có thêm không gian thờ đặt tượng Phật, bảo tháp…Trên các bề mặt hang, cột đỡ trần đều trang trí các phù điêu.
Hang điện thờ (Worship Cave) thường có mặt bằng hình chữ nhật hẹp với kiểu trần vòm cao (Chaitya Hall), một đầu có bảo tháp (Stupa). Bảo tháp là một cấu trúc hình bán cầu chứa xá lợi (Śarīra, chỉ các thánh tích, là các vật như ngọc trai, tìm thấy trong tro hỏa táng của bậc thầy tâm linh Phật giáo). Không gian điện thờ gồm một gian giữa và lối đi hai bên. Việc đi vòng tròn bên phải quanh bảo tháp (Parikrama) là một nghi lễ và thực hành sùng kính quan trọng của các tu sĩ kể từ thời sơ khai. Phía ngoài điện thờ là hiên nhà với lối vào tương đối thấp và được chạm khắc công phu. Một số có cửa sổ lớn phía trên lối vào để đón ánh sáng. Điện thờ xây dựng giai đoạn đầu có hệ thống cột bên trong đơn giản, không trang trí. Trong giai đoạn sau, cột có hình dạng đa dạng và được chạm khắc tinh xảo.
Nhiều chùa hang (Temple Cave) là dạng kết hợp của cả hai loại này.
Chùa hang Rangiri Dambulla là sự kết hợp của Hang thiền viện và Hang điện thờ, nằm cách thành phố Colombo 148km về phía đông, thành phố Kandy 72km về phía bắc và thị trấn Matale 43km về phía bắc.
Đây là Quần thể chùa hang lớn nhất và được bảo tồn tốt nhất ở Sri Lanka.
Quần thể này nằm trên một gò núi đá cao 160m so với vùng đồng bằng xung quanh và có tới hơn 80 hang động. Người Sri Lanka thời Tiền sử đã sống trong những hang động này trước khi Phật giáo đến Sri Lanka.
Chùa hang Rangiri Dambulla là một địa điểm Phật giáo với 5 di tích hang động (ký hiệu từ Hang 1 – 5).
Đây là nơi sinh sống của các nhà sư Phật giáo sống trong rừng từ thế kỷ thứ 3 TCN. Những hang động tự nhiên này đã được chuyển đổi liên tục trong suốt thời kỳ lịch sử thành một trong những khu phức hợp Phật giáo lớn nhất và nổi bật nhất ở khu vực Nam và Đông Nam Á, thể hiện những cách tiếp cận sáng tạo đối với cách bố trí nội thất và trang trí.
Phù hợp với truyền thống lâu đời gắn liền với các thực hành nghi lễ Phật giáo sống động và sự bảo trợ liên tục của hoàng gia, Chùa hang Rangiri Dambulla đã trải qua nhiều đợt cải tạo và nâng cấp trước khi có hình thức như hiện tại vào thế kỷ 18.
Vua Valagamba (còn gọi là Wattagamani Abhaya/ Valagambahu, trị vì năm 103 TCN; 89 – 77 TCN) của vương quốc Anuradhapura (Anuradhapura Kingdom, tồn tại 437 TCN - 1017 sau Công nguyên) được cho là người đã đã biến các hang động thành một thiền viện (Viharaya) vào thế kỷ 1 TCN.
Những vị vua của thời đại tiếp sau đã tiếp tục xây dựng bổ sung và đến thế kỷ 11, các hang động nơi đây đã trở thành một trung tâm tôn giáo lớn.
Vua Nissanka Malla (trị vì năm 1187- 1196) của vương quốc Polonnaruwa (Kingdom of Polonnaruwa, tồn tại 1055 - 1232) đã mạ vàng các bức tượng và đặt thêm khoảng 70 bức tượng Phật vào năm 1190.
Trong thế kỷ 18, các hang động đã được trùng tu và sơn lại bởi Vương quốc Kandy (Kingdom of Kandy, tồn tại 1591 - 1815).
Năm 1938, Quần thể được tôn tạo.
Không gian bên trong rộng lớn của mỗi hang tại Quần thể Chùa hang Rangiri Dambulla đều không có cột và tường ngăn cách, nhưng được phân chia bởi sự sắp xếp có chủ ý và tinh tế của những tác phẩm điêu khắc nhiều màu của nghề thủ công đặc biệt và tranh trang trí rực rỡ trên tường và trần.
Hệ thống phân cấp không gian và cách bố trí nội thất có chủ đích, mà không có sự phân chia vật lý này hoàn toàn có thể dẫn dắt các tín đồ một cách có trật tự đi từ không gian nghi lễ này sang không gian nghi lễ khác.
Cả 5 hang đều có cấu trúc không gian chung là cao tại phía cửa hang và thấp dần vào phía trong.
Phía trên mỗi hang đều có một gờ chắn không cho nước chảy từ vách đá vào trong hang. Trong hang tối, ánh sáng khó vào bên trong, chủ yếu sử dụng nến.
Những năm sau này, tại phía trước mỗi hang có thêm một khối công trình, như sảnh hay mặt tiền của ngôi nhà, có dạng đầu hồi với các hàng cột vòm, trang trí theo kiểu kiến trúc truyền thống.
Trong 5 hang động này lưu giữ nhiều bức tượng và tranh vẽ.
Có tổng cộng 157 bức tượng, gồm tượng Phật, Bồ tát, các vị thần và tượng các vị vua Sri Lanka.
Các bức tranh tường có diện tích tới 2.100m2, mô tả các sự tích Phật giáo, hoa văn trang trí phức tạp…theo bề mặt của của vách tường và trần đá.
Phần lớn các di tích tại Chùa hang Rangiri Dambulla được bảo tồn. Các tranh tường thế kỷ 18, chiếm 80% tổng số tranh, vẫn đang trong tình trạng tốt, đặc biệt tại Hang 2 và 3.
Chùa hang Rangiri Dambulla (Rangiri Dambulu Viharaya) là địa điểm hành hương thiêng liêng Phật giáo trong 22 thế kỷ, hiện vẫn còn hoạt động.
Phối cảnh hòn núi có Chùa hang Rangiri Dambulla, Matale, Sri Lanka
Chùa hang Rangiri Dambulla, Matale, Sri Lanka được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 1991 với tiêu chí):
Tiêu chí (i): Quần thể Chùa hang Rangiri Dambulla là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người trong lĩnh vực nghệ thuật và biểu hiện tôn giáo tại Sri Lanka cũng như Nam và Đông Nam Á. Các tranh vẽ trên bề mặt hang và tượng bên trong là độc nhất về quy mô và mức độ bảo tồn. Quần thể bao gồm những kiệt tác quan trọng của nghệ thuật thế kỷ 18 theo trường phái Kandy của Sri Lanka (Sri Lankan school of Kandy).
Tiêu chí (vi): Rangiri Dambulla là một ngôi chùa quan trọng và đáng chú ý của Phật giáo ở Sri Lanka vì sự liên kết rộng rãi của nó với truyền thống lâu đời, thực hành nghi lễ Phật giáo sống động và là địa điểm hành hương trong hơn hai thiên niên kỷ.
Sơ đồ vị trí Di sản Quần thể Chùa hang Rangiri Dambulla, Matale, Sri Lanka
Sơ đồ tổng mặt bằng Quần thể Chùa hang Rangiri Dambulla, Matale, Sri Lanka
Sơ đồ mặt cắt Hang số 1 và Hang số 4, Quần thể Chùa hang Rangiri Dambulla, Matale, Sri Lanka
Quần thể Chùa hang Rangiri Dambulla bao gồm 5 công trình có kích thước và độ nguy nga khác nhau được đục khoét vào trong vách đá.
Hang dựa vào vách núi đá tại phía bắc, hướng về phía nam và thung lũng tại phía tây nam.
Phía dưới chân núi, có một ngôi chùa mang tên Chùa Vàng (Golden Temple) và bảo tàng.
Theo hàng trăm bậc đá, leo dần từ chân núi lên đến Quần thể.
Lối vào Quần thể từ phía đông, qua Cổng Vahalkada (Vahalkada Eintrance), có hình thức phổ biến của một ngôi đền của người Sinhalese (Sinhalese temple), là một tòa nhà nhỏ, 3 gian, mái dốc 4 mái, cửa có vòm kép.
Phía trước vách đá là một sân hẹp. Trong sân có một cây bồ đề (Bo Tree), một bể chứa nước (Pond) và một bức tường ngăn cách với vực sâu tại phía nam.
Các bậc đá lên Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Phối cảnh Cổng Vahalkada, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Cây Bồ đề phía trước Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka; phía sau ảnh là Cổng Vahalkada
Sân trước hang, nhìn về phía tây, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Hồ nước tại sân phía trước Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Sân trước hang, nhìn về phía đông, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Từ phía đông sang tây lần lượt là các hang:
Hang Devaraja – Hang số 1
Hang Devaraja – Hang số 1 (Cave 1 Deva Raja Viharaya/ Devaraja Lena) còn được gọi là “Ngôi đền của các vị thần” (Cave of ‘ Lord of the Gods’), nằm tại phía đông, lối vào của Quần thể. Trước mặt Hang là cây Bồ đề.
Hang là nơi lưu giữ hình ảnh về những khoảnh khắc cuối cùng của Đức Phật và sự đau buồn của đệ tử dưới chân Ngài.
Phía trước Hang là một mặt tiền trang trí (xây dựng bổ sung sau này) dạng hành lang, gồm 5 gian, nằm trên một bệ nền cao 2 bậc so với mặt sân. Mái một dốc, nghiêng từ vách đá ra phía ngoài. Gian chính giữa bố trí dạng đầu hồi nhà với mái tam giác nhô cao.
Hang Devaraja là một hang nhỏ, được thành lập vào thế kỷ 1.
Hang nổi bật với bức tượng Phật nằm trong trạng thái viên tịch (Niết Bàn) dài 14 mét, được đẽo vào vách đá tự nhiên. Tượng đã được sơn lại vô số lần; lớp sơn cuối cùng được sơn vào thế kỷ 20.
Dưới chân tượng là Đại đức Ananda, một đệ tử tận tụy của Đức Phật.
Tại đây còn có tượng của thần Vishnu (thần Ấn Độ giáo) hoặc thần Upulvan (một trong bốn vị thần hộ mệnh của Sri Lanka). Thần được cho là đã sử dụng sức mạnh của mình để tạo ra các hang động.
Trên bề mặt vách tường và trần hang có những bức vẽ trang trí; đã được vẽ lại sau này vào thế kỷ 17, 18. Những bức vẽ hiện trong tình trạng mờ, có thể ảnh hưởng của khói đèn dầu và nhang.
Mặt tiền Hang Devaraja – Hang 1, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka; Bên trái là Cây Bồ đề.
Tượng Phật nhập Niết Bàn, phần đầu tượng, Hang Devaraja – Hang 1, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Trang trí chân tượng Phật nằm, Hang Devaraja – Hang 1, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Phật (ngồi), tượng Đại đức Ananda (đứng) và tranh tường xung quanh, Hang Devaraja – Hang 1 Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Trang trí trên trần Hang Devaraja – Hang 1 Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Hang Maharaja – Hang số 2
Hang Maharaja – Hang số 2 (Cave 2 Maha Raja Viharaya) còn được gọi là “Ngôi đền của Vị vua vĩ đại” (Maharaja Lena/ Great King/ Dambulla Royal Cave Temple), nằm tại phía tây của Hang số 1, trung tâm của Quần thể.
Mặt trước của Hang cũng bố trí mặt tiền trang trí dạng hành lang tương tự như Hang số 1, song quy mô lớn hơn với 2 lối vào từ mặt sân.
Đền hang Maharaja là lớn nhất, dài khoảng 52m từ đông sang tây và sâu 23m từ lối vào ra phía sau, cao 7m.
Hang có một Bảo tháp (Stupa), đặt tại trung tâm, được bao quanh bởi mười một tượng Phật ngồi. Chưa rõ Bảo tháp hình bán cầu này chứa xá lợi của bậc thầy tâm linh Phật giáo nào.
Hang có số lượng lớn các bức tượng Phật ngồi, nằm và đứng trong tư thế tu luyện, đặt sát với tường.
Việc bố trí theo chủ đich hệ thống bảo tháp, tượng tại vách hang và dãy theo chiều sâu của Hang tạo ra sự phân cấp không gian để dẫn dắt tín đồ đi từ nghi lễ này sang nghi lễ khác một cách có trật tự.
Trong Hang có nhiều bức tượng Phật bằng đá granit có kích thước lớn và được mạ vàng vào thế kỷ 12.
Bức tượng Phật nằm bố trí tại bức tường phía nam, ngay cửa vào.
Tượng Phật đứng bằng đá, mạ vàng là điểm thu hút chính của Hang này. Trên đầu tượng tượng là một vương miện hình tượng rồng (Makara Torana).
Bên cạnh các bức tượng bằng đá, trong Hang còn có bức tượng gỗ của Bồ tát Di Lặc (Bodhisattvas Maitreya) và Quán Thế Âm (Avalokiteshvara/ Natha).
Những bức tượng thần cũng được tìm thấy ở đây, như thần Vishnu, Saman, Upulvan, Maithree và Natha.
Tại đây có tượng của các vị vua vĩ đại, như Vua Valagamba (còn gọi là Wattagamani Abhaya/ Valagambahu, trị vì năm 103 TCN; 89 – 77 TCN) của vương quốc Anuradhapura (Anuradhapura Kingdom, tồn tại 437 TCN - 1017 sau Công nguyên), người đã vinh danh Tu viện vào thế kỷ 1 TCN; Vua Nissanka Malla (trị vì năm 1187- 1196) của vương quốc Polonnaruwa (Kingdom of Polonnaruwa, tồn tại 1055 - 1232), đã tổ chức mạ vàng các bức tượng. Công tích của các vị vua đã được ghi lại trên một bản khắc đá gần lối vào chùa.
Tượng Vua Valagamba được làm bằng gỗ và các chi tiết tượng được sơn. Tượng được đặt gần cửa Hang.
Bên trong Hang có tới hàng ngàn bức tranh được vẽ trên trần và tường với kiểu dáng và màu sắc như một kính vạn hoa. Những bức tranh miêu tả các sự kiện lịch sử Phật giáo ban đầu liên quan đến việc tìm kiếm chân lý của Đức Phật và cả những sự kiện quan trọng trong lịch sử Sri Lanka.
Bên trong Thiền viện có một chiếc bình hứng dòng nước nhỏ giọt từ vết nứt trên trần hang. Những giọt nước này không bao giờ cạn kiệt, kể cả trong đợt hạn hán nghiêm trọng, được cho có khả năng chữa bệnh.
Mặt tiền Hang Maharaja – Hang 2, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Hiên phía trước Hang Maharaja – , Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Bên trong Hang Maharaja – Hang 2, nhìn về phía tây; Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka;
Bên trong Hang Maharaja – Hang 2, nhìn về phía đông; Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka;
Bảo tháp tại trung tâm với các tượng Phật bao quanh, Hang Maharaja – Hang 2; Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka;
Tượng Phật nằm tại bức tường phía nam, Hang Maharaja – Hang 2, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Phật đứng mạ vàng với vương miện hình dạng rồng và các hàng tượng Phật đứng, ngồi tại phía bắc Hang Maharaja – Hang 2, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Bồ tát Di Lặc (bên phải ảnh) tại Hang Maharaja – Hang 2; Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Thần Upulwan (trái) và Thần Saman (phải), bên phải ảnh; Hang Maharaja – Hang 2, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Vua Valagamba tại cửa hang, Hang Maharaja – Hang 2, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Một mảng trang trí trên trần Hang Maharaja – Hang 2, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Một mảng trang trí trên vách tường Hang Maharaja – Hang 2, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Hang Maha Alut Vihara – Hang số 3
Hang Maha Alut Vihara – Hang 3 (Cave 3 Maha Alut Viharaya) còn gọi là “Ngôi đền mới vĩ đại” (Great New Temple- Cave 3) nằm kề liền phía tây của Hang số 2, là hang lớn, sau Hang số 2.
Mặt trước của Hang thiền viện này cũng bố trí mặt tiền trang trí dạng hành lang tương tự như Hang số 1, số 2 với 1 lối vào từ mặt sân. Đối diện lối vào là một bể nước (Pond).
Hang có chiều dài khoảng 27m, rộng 24m và cao khoảng 11m.
Hang có một bức tượng Phật nằm tại bức tường phía tây, dài khoảng 9m, tạc từ vách đá.
Trung tâm của Hang có một tượng Phật ngồi nổi bật với thiết kế một vương miện vòm với các linh vật, được chạm khắc bằng đá granit; bao quanh 4 phía là 50 bức tượng Phật.
Tại đây có một bức tượng của Vua Kirti Sri Rajasinha (trị vì năm 1747- 1782), thuộc Vương quốc Kandy (Kingdom of Kandy, tồn tại 1591 – 1815). Vua được ghi nhận là người phục hưng Phật giáo và văn học ở Sri Lanka. Phía sau tượng là bức tranh tường miêu tả 4 người hầu cận của Vua.
Trên vách tường và trần có những bức tranh bích họa tuyệt đẹp theo phong cách Kandyan đặc trưng, với màu chủ đạo là màu vàng và đỏ, miêu tả lịch sử của Phật giáo và các sự kiện quan trọng trong cuộc đời của một Phật tử.
Mặt tiền Hang Maha Alut Vihara – Hang 3, bên trái ảnh; Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Lối vào Hang Maha Alut Vihara – Hang 3, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Phật nằm tại bức tường phía tây, Hang Maha Alut Vihara – Hang 3, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Các hàng tượng Phật đứng, ngồi tại phía tây và bắc của Hang Maha Alut Vihara – Hang 3, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Phật ngồi với vương miện vòm tại trung tâm Hang Maha Alut Vihara – Hang 3, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Vua Kirti Sri Rajasinha (bên trái ảnh), Hang Maha Alut Vihara – Hang 3, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Trang trí trên trần Hang Maha Alut Vihara – Hang 3, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Bức tranh tường miêu tả truyền thuyết Phật giáo, Hang Maha Alut Vihara – Hang 3, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Hang Pachchima Vihara – Hang số 4
Hang Pachchima Vihara – Hang số 4 (Cave 4 Paschima Viharaya), còn được gọi là “Ngôi đền phía Tây” (Western Temple) nằm kề liền phía tây Hang số 3. Đây là một hang nhỏ song vẫn có mặt tiền trang trí dạng hành lang tương tự như Hang số 1, số 2, số 3 với 1 lối vào từ mặt sân, từ phía đông.
Hang có chiều dài khoảng 15m và chiều rộng 5m.
Điểm thu hút chính là bức tượng Phật ngồi thiền định tuyệt đẹp với vương miện vòm với các linh vật (Makara Torana) phía trên.
Tượng thần Vishnu và Saman cũng được tìm thấy trong Hang.
Trong Hang có một bảo tháp (Stupas/ Dagebas) lưu giữ xá lỵ của Somawathi, hoàng hậu của Vua Valagamba (trị vì năm 103 TCN; 89 – 77 TCN).
Mặt tiền Hang Pachchima Vihara – Hang 4, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Cửa vào Hang Pachchima Vihara – Hang 4, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Phật ngồi với vương miện vòm (Makara Torana); Hang Pachchima Vihara – Hang 4, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Bảo tháp lưu giữ xá lỵ của Hoàng hậu, Hang Pachchima Vihara – Hang 4, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Trang trí trên trần Hang Pachchima Vihara – Hang 4, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Trang trí trên vách tường và trần Hang Pachchima Vihara – Hang 4, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Hang Devana Alut Vihara – Hang số 5
Hang Devana Alut Vihara – Hang số 5 (Cave 5 Devana Alut Viharaya) còn gọi là Hang của “Ngôi đền mới thứ hai” (New Temple 2) nằm kề liền phía tây Hang số 4, là một hang nhỏ nằm trong cùng của Quần thể với lối vào trực tiếp từ sân.
Đây là ngôi đền hang mới nhất trong Quần thể, dài 16m, sâu 8m.
Trong Hang có nhiều tượng và hình ảnh Phật. Các tượng tại đây đều làm từ gạch và thạch cao.
Bên trong Hang có một tượng Phật nằm dài khoảng 10m và có 11 tượng Phật đứng và ngồi. Trên đầu một số pho tượng Phật có trang trí hình tượng rắn hổ mang chúa Muchalinda bao phủ phía trên các tượng.
Mặt tiền Hang Devana Alut Vihara – Hang 5 (bên trái ảnh) Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Phật nằm tại bức tường phía bắc, Hang Devana Alut Vihara – Hang 5, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Tượng Phật tại bức tường phía đông, Hang Devana Alut Vihara – Hang 5, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Một mảng tranh tường tại Hang Devana Alut Vihara – Hang 5, Chùa hang Rangiri Dambulla, Sri Lanka
Quần thể Chùa hang Rangiri Dambulla, Matale, Sri Lanka rất đáng chú ý trong thế giới Phật giáo vì sự liên kết của nó với truyền thống liên tục thực hành nghi lễ Phật giáo và hành hương trong hơn hai thiên niên kỷ.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/561/
https://en.wikipedia.org/wiki/Sri_Lanka
https://en.wikipedia.org/wiki/Dambulla
https://en.wikipedia.org/wiki/Dambulla_cave_temple
https://www.srilankaview.com/dambulla_temple.htm
https://amazinglanka.com/wp/dambulla-temple/#jp
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|