
Thông tin chung:
Công trình: Quần thể Acropolis tại Athens, Hy Lạp (Acropolis Athens)
Địa điểm: Khu vực Attica, Hy Lạp (N37 58 15.132 E23 43 34.248)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 3,07ha; diện tích vùng đệm 116,71ha
Năm xây dựng: Thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên
Giá trị: Di sản thế giới (1987; hạng mục i; ii; iii; iv; vi)
Hy Lạp (Greece) là một quốc gia nằm ở Đông Nam Châu Âu, cực nam của Balkans; ngã tư của Châu Âu, Châu Á và Châu Phi. Hy Lạp có chung biên giới đất liền với Albania về phía tây bắc, North Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ về phía đông bắc; giáp biển Aegean ở phía đông, biển Ionian ở phía tây, biển Cretan và Địa Trung Hải ở phía nam.
Hy Lạp có diện tích 131957km2, dân số khoảng 10,72 triệu người (năm 2019). Hy Lạp ngày nay được phân thành 13 khu vực với 325 thành phố. Athens là thành phố thủ đô và lớn nhất, thuộc khu vực Attica.
Hy Lạp được coi là cái nôi của nền văn minh phương Tây, là nơi sinh của nền dân chủ, triết học, văn học, nghiên cứu lịch sử, khoa học chính trị, toán học và một số ngành khoa học khác; đề tài cho nhiều bộ phim phương Tây và Thế vận hội Olympic.
Từ thế kỷ 8 trước Công nguyên (TCN), Hy Lạp gồm nhiều thị quốc (thành bang) độc lập, được gọi là poleis (số ít là polis - thành phố; chữ polis trong Acropolis có ý nghĩa như vậy), kéo dài tới vùng Địa Trung Hải và Biển Đen.
Các thị quốc Hy Lạp liên kết thành Liên minh Delian (Delian League, thành lập năm 478 TCN).
Vào thế kỷ 4 TCN, vua Argead Philip II (trị vì năm 359–336 TCN) của tiểu quốc Macedonia đã thống nhất phần lớn đất nước Hy Lạp ngày nay. Con trai của ông là Alexander Đại đế (Alexander the Great, trị vì năm 336- 323 TCN) nhanh chóng chinh phục mở rộng lãnh thổ, từ đông Địa Trung Hải đến Ấn Độ, tạo ra một trong những đế chế lớn nhất thời bấy giờ. Từ đây mở ra một thời kỳ đỉnh cao của văn hóa Hy Lạp.
Hy Lạp bị Cộng hòa La Mã (Roman Republic, tồn tại năm 509 – 27 TCN) thôn tính vào thế kỷ 2 TCN, trở thành một phần không thể thiếu của Đế chế La Mã (Roman Empire, tồn tại năm 27 TCN – 476) và vương quốc tiếp theo là Đế chế Byzantine (Byzantine Empire, tồn tại năm 395–1453). Cả hai đế chế này đều sử dụng ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp.
Về tôn giáo, Chính Thống giáo Hy Lạp (Greek Orthodox Church) xuất hiện trong thế kỷ 1, đã góp phần hình thành bản sắc của Hy Lạp hiện đại và lan truyền văn hóa Hy Lạp tới các vùng đất theo Chính Thống giáo Hy Lạp.
Thế kỷ 15, Hy Lạp nằm dưới sự thống trị của Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman Empire, tồn tại năm 1299–1922). Hy Lạp giành lại độc lập vào năm 1830.

Bản đồ Hy Lạp và vị trí của thủ đô Athens
Hy Lạp là một quốc gia có hệ thống di tích lịch sử phong phú, được phản ánh một phần qua 18 Di sản Thế giới được UNESCO công nhận, trong đó có Di tích Acropolis tại thành phố Athens, khu vực Attica, Hy Lạp. Di tích này được coi là biểu tượng phổ quát của nền văn minh cổ điển, một quần thể kiến trúc và nghệ thuật vĩ đại nhất mà Hy Lạp cổ đại để lại cho loài người.
Quần thể Acropolis nằm trên một ngọn đồi có độ cao trung bình 156m so với mực nước biển với diện tích bề mặt khoảng 3,07ha. Ngọn đồi có nhiều đá và dốc ở tất cả các phía, ngoại trừ phía tây và có đỉnh rộng gần như bằng phẳng.
Bức tường thành đầu tiên được xây dựng tại đây vào thế kỷ 13 TCN (thời kỳ Mycenaean Greece, kéo dài từ thế kỷ 16- 11 TCN) bao quanh nơi ở của lãnh đạo bộ tộc địa phương. Hiện tại, tàn tích bức tường bao phía dưới của của Acropolis được gọi là Pelargicon vẫn còn lại một vài đoạn với chiều dày tới 6m.
Vào thế kỷ thứ 8 TCN, Acropolis dần có được vị thế tôn giáo với việc thành lập giáo phái Athena cùng sự xuất hiện một hệ thống đền linh thiêng thờ các nữ thần Athena (tương tự như đạo Mẫu của Việt Nam với tục thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Vào nửa sau của thế kỷ 5 TCN, Thị quốc Athens, sau chiến thắng chống lại người Ba Tư (Đế chế Achaemenid/ Achaemenid Empire, tồn tại năm 550 – 330 TCN) và thiết lập nền dân chủ, đã chiếm vị trí hàng đầu trong số các thị quốc của thế giới cổ đại.
Tại đây, khi tư tưởng và nghệ thuật phát triển mạnh mẽ, một nhóm nghệ sĩ đặc biệt đã thực hiện kế hoạch đầy tham vọng của chính khách Athens Pericles (lãnh đạo Athens và Liên minh Delian, từ năm 461 – 429 TCN) và dưới sự hướng dẫn đầy cảm hứng của nhà điêu khắc, họa sĩ, kiến trúc sư Hy Lạp vĩ đại Pheidias (năm 480-430 TCN; Tượng thần Zeus của ông trên đỉnh Olympia là một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại), đã biến một pháo đài trên ngọn đồi đá tại thành phố Athens thành một quần thể độc đáo của tư tưởng và nghệ thuật – Quần thể Acropolis.
Acropolis Athens bao gồm một số lượng lớn các di tích với các công trình nổi bật: Đền Parthenon, Đền Erechtheion, Cổng Propylaia và Đền thờ Athena Nike…Các công trình này được bao bọc bởi một bức tường đá vôi (Cyclopean Masonry) dài 760m, cao 10m và dày từ 3,5- 6m, chạy theo đường viền tự nhiên của điều kiện địa hình. Cổng chính vào Quần thể tại hướng tây nam và có hai cổng phụ tại phía bắc. Bên trong Quần thể ngoài hạng mục công trình còn có hệ thống giếng ngầm cấp nước sinh hoạt.
Acropolis Athens là nơi thu hút và nuôi dưỡng người tài và làm nảy sinh các nhận thức về dân chủ, triết học, sân khấu, ngôn luận; cung cấp nền tảng trí tuệ và tinh thần cũng như các giá trị văn hóa cho thế giới đương đại.
Acropolis Athens đã tồn tại trong gần 25 thế kỷ, trải qua các cuộc chiến tranh, phá hoại, hỏa hoạn, động đất, sạt lở, lấn chiếm và thay đổi mục đích sử dụng, cũng như các nền văn minh, thần thoại và tôn giáo ở Hy Lạp. Song, di tích Acropolis Athens hiện vẫn duy trì được tất cả các thuộc tính truyền tải những giá trị phổ quát nổi bật, như một quần thể với vẻ đẹp lộng lẫy độc nhất, bất chấp những hư hại không thể tránh khỏi của thời gian và trong tình trạng được bảo tồn tốt.
Acropolis Athens đã hoạt động như một địa điểm khảo cổ từ năm 1833, ngay sau khi thành lập Nhà nước Hy Lạp hiện đại.

Sơ đồ Acropolis tại thành phố Athens, Hy Lạp thời kỳ đầu (Acropolis Mycenaean)

Sơ đồ mặt bằng Acropolis Athens, khu vực Attica, Hy Lạp

Phối cảnh tổng thể Acropolis Athens, khu vực Attica, Hy Lạp
Acropolis Athens, khu vực Attica, Hy Lạp được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 2007) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Acropolis Athens, Hy Lạp là biểu hiện cao nhất sự thích nghi của kiến trúc với địa điểm tự nhiên. Cấu trúc đồ sộ, vĩ đại song cân đối hoàn hảo của Quần thể tạo nên một cảnh quan hoành tráng với vẻ đẹp độc đáo, bao gồm một loạt các tuyệt tác sáng tạo kiến trúc của thế kỷ thứ 5 TCN: Đền Parthenon (xây dựng năm 447-432) do Iktinos và Kallikrates thiết kế với sự hợp tác của nhà điêu khắc Pheidias; Cổng Propylaia (năm 437-432) do Mnesikles thiết kế; Đền thờ Athena Nike (năm 427-424) do Mnesikles và Kallikrates thiết kế và Đền Erechtheion (năm 421-406).
Tiêu chí (ii): Các di tích của Acropolis Athens, Hy Lạp đã có ảnh hưởng đặc biệt, không chỉ là hình mẫu trong thời cổ đại Hy Lạp-La Mã (Greco-Roman), mà cả trong thời hiện đại. Trên khắp thế giới, nhiều di tích thời Tân cổ điển (Neo-Classical) đã được lấy cảm hứng từ các di tích của Acropolis Athens.
Tiêu chí (iii): Từ thần thoại đến đức tin được thể chế hóa, Acropolis Athens, bằng sự rõ ràng và đa dạng, đã trở thành một bằng chứng độc đáo về các tôn giáo thời Hy Lạp cổ đại. Đây là ngôi đền linh thiêng mà từ đó đã nảy sinh những truyền thuyết cơ bản về thành phố. Bắt đầu từ thế kỷ thứ 6 TCN, thần thoại và tín ngưỡng đã hình thành nên các đền thờ, linh vật thờ và đồ cúng lễ tương ứng với sự đa dạng của các tôn giáo, đã mang lại sự phong phú và phức tạp của tôn giáo Athen. Athena được tôn là Nữ thần của thành phố (Athena Polias); Nữ thần chiến tranh (Athena Promachos); Nữ thần chiến thắng (Athena Nike); Nữ thần bảo hộ nghề thủ công (Athena Ergane)…Hầu hết danh tính của nữ thần được tôn vinh tập trung tại ngôi đền chính Parthenon dành riêng cho Nữ thần bảo trợ Athena (Athena Parthenos).
Tiêu chí (iv): Acropolis Athens là một ví dụ nổi bật về một quần thể kiến trúc minh họa cho các giai đoạn lịch sử quan trọng kể từ thế kỷ 16 TCN, khởi đầu là Acropolis Mycenaean (thuộc nền văn minh Helladic muộn/ Late Helladic civilization, năm 1600-1100 TCN), bao gồm nơi ở của hoàng gia và được bảo vệ bởi pháo đài Mycenaean, tới Acropolis Athens, là những công trình kiến trúc độc đáo gợi lên những lý tưởng của thế kỷ thứ 5 TCN và đại diện cho đỉnh cao phát triển của kiến trúc Hy Lạp cổ đại.
Tiêu chí (vi): Acropolis Athens gắn liền trực tiếp và hữu hình với các sự kiện và ý tưởng chưa bao giờ phai nhạt trong suốt quá trình lịch sử. Các di tích của Acropolis Athens vẫn luôn là bằng chứng sống động về thành tựu của các chính trị gia Hy Lạp Cổ điển (như Themistokles, Perikles…), những người đã dẫn dắt thành phố thiết lập nền dân chủ; tư tưởng của các triết gia Athen (như Socrates, Plato, Demosthenes…); và tác phẩm của các kiến trúc sư (như Iktinos, Kallikrates, Mnesikles…) và các nghệ sĩ (như Pheidias, Agorakritus, Alkamenes…). Những di tích này là một phần di sản văn hóa quý giá của nhân loại.

Sơ đồ phạm vi DI sản Acropolis Athens, Hy Lạp và vùng đệm

DI sản Acropolis Athens, Hy Lạp nằm hoàn toàn trên một gò núi

Phối cảnh DI sản Acropolis Athens, Hy Lạp, tại lối vào chính từ hướng tây nam

Sơ đồ vị trí các di tích chính tại Di sản Acropolis Athens, Hy Lạp
Khu vực Di sản Acropolis Athens, Hy Lạp
Các di tích chính thuộc phạm vi Di sản Acropolis Athens, Hy Lạp gồm:
Đền Parthenon
Đền Parthenon (vị trí ký hiệu 1) thờ thần Athena, nữ thần của lý trí, trí tuệ, trí thông minh, kỹ năng, hòa bình, chiến tranh, chiến lược chiến đấu và thủ công mỹ nghệ và là vị thần bảo trợ của người dân Athens (Athena Parthenos).
Công trình được hình thành vào năm 447 – 432 TCN, khi Đế chế Athens (thị quốc) đang ở đỉnh cao quyền lực; thành Athens trở thành trụ sở của Liên minh Delian (Delian League, thành lập năm 478 TCN, là hiệp hội của các thị quốc Hy Lạp) và Athens là trung tâm văn hóa lớn nhất thời bấy giờ.
Đền Parthenon được xây dựng thay thế một ngôi đền cổ hơn, mà các nhà sử học gọi là Pre-Parthenon hoặc Older Parthenon, đã bị phá hủy trong cuộc xâm lược của Đế chế Achaemenid Ba Tư (Achaemenid Empire, tồn tại năm 550 – 330 TCN) vào năm 480 TCN. Đền Parthenon được tạo lập bởi chính khách Hy Lạp Pericles (lãnh đạo Athen và Liên minh Delian trong thời gian từ 461 đến năm 429).
Công trình được coi là biểu tượng của Hy Lạp cổ đại, nền dân chủ Athen, văn minh phương Tây và là một trong những di tích văn hóa vĩ đại nhất của thế giới.
Đền đặt theo hướng đông – tây, trên một bệ nền cao 3 bậc, kích thước bệ nền dưới cùng rộng 30,9m x 69,5m.
Công trình có 4 mặt hành lang với các hàng cột tròn bao quanh, tổng cộng 46 cột, theo thức cột Doric (là một trong 3 thức cột của Hy Lạp và La Mã cổ đại, cùng Ionic và Corinthian; nhận biết trước hết qua phần đầu cột hình tròn đơn giản).
Không gian chính điện cao khoảng 13,72m, dài 29,8m, rộng 19,2m, đặt trên bệ nền thứ 2 cao 2 bậc so với bậc nền 1; hai bên là tường đặc, 2 đầu hồi hướng đông, tây là lối ra vào và được nhấn mạnh tại mỗi đầu hồi bằng 6 cột Doric với đường kính nhỏ hơn so với cột hành lang phía ngoài.
Không gian chính điện được chia thành 2 phòng. Phòng phía tây mang tên Parthenon/Sekos có 4 cột tròn nằm chính giữa phòng; Phòng phía đông mang tên Hekatompedos Naos với 21 hàng cột tròn nhỏ và 2 trụ bao quanh bệ thờ, nơi đặt tượng Nữ thần Athena Parthenos
Mái nhà được lợp bằng những viên ngói lớn bằng đá cẩm thạch.
Phía trên các bức tường ngoài là các bức phù điều chạm khắc sự tích ra đời và hình ảnh trong các cuộc chiến tranh của 92 vị thần.
Đền được xây dựng chủ yếu bởi những thợ đẽo đá cẩm thạch chuyên nghiệp và những người thợ thủ công nghề mộc, kim loại bậc cao đến từ các quốc gia xung quanh.

Đền Parthenon cũ (Older Parthenon, màu đen) đã bị người Achaemenid phá hủy vào năm 480 và được xây dựng lại bởi Pericles (màu xám).

Ba thức cột chính của kiến trúc Hy Lạp: Đo ríc, Ionic và Corinthia; 2 thức cột đầu được sử dụng cho Acropolis Athens, Hy Lạp
Ngôi đền đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử.
Có thời gian ngôi đền được sử dụng làm kho bạc của Đế chế Athens và Liên minh Delian.
Vào thế kỷ thứ 3, Athens bị cướp biển tấn công và đốt phà nhiều công trình. trong đó có Đền Parthenon.
Vào thế kỷ thứ 5, tượng Nữ thần Athena Parthenos bị cướp đi và sau đó bị phá hủy.
Vào thế kỷ 6, Parthenon được chuyển đổi thành một nhà thờ Thiên chúa giáo dành riêng cho Đức Trinh nữ Maria. Mặt bằng của tòa nhà bị sửa đổi lại; Các biểu tượng Cơ đốc giáo được vẽ, khắc trên tường và trên các cột; Một số tác phẩm điêu khắc bị phá bỏ.
Sau cuộc chinh phục của Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, công trình biến thành một nhà thờ Hồi giáo vào đầu những năm 1460. Bàn thờ và các hình tượng Cơ đốc giáo bị dỡ bỏ. Bên trong đền thờ xuất hiện các hốc cầu nguyện (Mihrab, hình bán nguyệt trong các bức tường để người Hồi giáo hướng vào cầu nguyện). Song về cơ bản, cấu trúc xây dựng của Đền thờ vẫn còn nguyên vẹn.
Vào năm 1687, một vụ cháy kho đạn của người Ottoman chứa trong Đền thờ làm công trình bị hư hại nghiêm trọng. Cấu trúc còn lại của công trình bị cướp phá để làm vật liệu xây dựng.
Ngay sau khi Hy Lạp giành lại độc lập vào năm 1830, tất cả các công trình xây dựng vào thời Trung cổ và Ottoman trên Quần thể Acropolis Athens đều bị loại bỏ. Địa điểm này đã trở thành một khu vực lịch sử do chính phủ Hy Lạp kiểm soát. Kể từ năm 1975, nhiều dự án đại trùng tu quy mô lớn đã được thực hiện.
Về kiến trúc, Đền Parthenon là một trong ví dụ điển hình nhất của kiến trúc Hy Lạp, được đánh giá là ngôi đền Doric hoàn hảo nhất từng được xây dựng với những nét tinh tế về kiến trúc và đã trở thành huyền thoại…
Về điêu khắc, Đền Parthenon có nhiều tác phẩm phù điêu, tượng. Các mảng điêu khắc tập trung chủ yếu tại hai đầu hồi hướng đông và tây của tòa nhà, trên các diềm phía trên các hàng cột hiên và trên các bức tường bên trong điện thờ với nội dung miêu tả các sự tích thần thoại. Một trong những mô đun trang trí nổi tiếng tại Đền Parthenon là các mảng trang trí hình chữ nhật (Metope) nằm giữa hai chi tiết trang trí (Triglyphs) tại diềm phía trên các hàng cột Doric. Tại đây còn lưu giữ được 92 miếng trang trí Metopes.
Tác phẩm điêu khắc duy nhất trong Đền Parthenon được tạc bởi nhà điêu khắc nổi tiếng Pheidias là bức tượng Nữ thần Athena Parthenos bằng vàng và ngà voi, được hiến tặng vào năm 439 TCN. Bức tượng được đặt trong không gian mang tên Hekatompedos Naos. Tượng đã bị thất lạc và chỉ được biết đến từ các bức tranh, mô tả văn học.
Chỉ một số rất nhỏ các tác phẩm điêu khắc còn lại tại chỗ, hầu hết đã được chuyển đến các bảo tàng.

Mặt bằng Đền Parthenon, Acropolis Athens, Hy Lạp

Mặt đứng Đền Parthenon, Acropolis Athens, Hy Lạp

Phối cảnh tàn tích Đền Parthenon Acropolis Athens, Hy Lạp

Chi tiết kiến trúc Đền Parthenon, Acropolis Athens, Hy Lạp

Cấu trúc xây dựng Đền Parthenon, Acropolis Athens, Hy Lạp
.

Bản sao của bức tượng Athena Parthenos ở Nashville, Hoa Kỳ (năm 1990)

Chi tiết trang trí diềm mái phía trên cột Doric, gồm các miếng phù điêu Metope nằm giữa chi tiết Triglyphs (với các gờ dọc), tại Đền Parthenon, Acropolis Athens, Hy Lạp

Mảng trang trí (Metope) mô tả một phần của trận chiến giữa Centaurs và Lapiths, năm 442-438 TCN, bằng đá hoa cương, cao 1,06 m; tại Đền Parthenon, Acropolis Athens, Hy Lạp; hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Anh (British Museum, London)
Đền thờ cổ Athena
Đền thờ cổ Athena (Old Temple of Athena, vị trí ký hiệu 2), nằm tại phía bắc của Đền Parthenon.
Đền được xây dựng vào năm 525- 500 TCN, thờ Nữ thần bảo trợ thành phố Athena Polias.
Công trình bị người Achaemenid Ba Tư phá hủy vào năm 480 TCN (cùng với Đền Parthenon).
Đền có mặt bằng hình chữ nhật, kích thước 21,3m x 43,15 m; bố cục theo hướng đông – tây.
Đền được bao quanh bởi một hành lang tổng cộng 32 cột, trong đó mỗi đầu hồi có 6 cột. Khoảng cách giữa các cột là 4,04m, riêng tại góc thu hẹp hơn 0,31m. Tại mỗi lối vào tại đầu hồi còn có thêm 2 cột ở phía trong.
Nền móng và các bộ phần chịu lực của đền làm bằng đá vôi; các mảng trang trí bằng đá cẩm thạch.
Ngôi đền có hai đầu hồi dài khoảng 15m. Trên mặt tường hồi có các chạm khắc miêu tả nhân vật trung tâm là Nữ thần Athena, cuộc chiến giữa các vị thần trên đỉnh Olympian và người khổng lồ để tranh giành quyền tối cao của vũ trụ.
Không gian bên trong đền thờ chia thành 4 phòng nhỏ. Một phòng (Cella/ Naos) phía đông có chứa linh vật (Xoanon) là bức tượng Nữ Athena Polias bằng gỗ.

Sơ đồ mặt bằng Đền thờ cổ Athena, Acropolis Athens, Hy Lạp
Mặt đứng Đền thờ cổ Athena, Acropolis Athens, Hy Lạp

Tàn tích nền móng của Đền thờ cổ Athena, phía trước Đền Erechtheion, Acropolis Athens, Hy Lạp
Đền Erechtheum
Đền Erechtheum (vị trí ký hiệu 3) là một ngôi đền nằm kề liền phía bắc của Đền thờ cổ Athena.
Công trình được xây dựng vào năm 421 - 406 TCN, được cho là thờ Nữ thần Athena và Poseidon (vị thần của biển, bão, động đất và ngựa).
Công trình được lấy theo tên của huyền thoại anh hùng Hy Lạp Erichthonius, xây dựng bởi nhà điêu khắc nổi tiếng Pheidias, thay thế cho một ngôi đền thờ nữ thần Athena Polias bị người Ba Tư phá hủy vào năm 480 TCN.
Đền Erechtheum được sửa chữa và cải tạo lớn lần đầu vào thế kỷ 1 TCN và sau đó lại bị thiêu rụi trong cuộc chiến với người La Mã.
Vào thế kỷ 6, Đền bị chuyển đổi trở thành nhà thờ Đức Trinh nữ Maria, theo Cơ đốc giáo phương Đông.
Vào thế kỷ 15, dưới sự thống trị của Đế chế Ottoman, công trình trở thành cung điện, là hậu cung của chỉ huy Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào năm 1800, một phần công trình bị một người Scotland (Lord Elgin) dỡ bỏ để trang trí dinh thự của mình và sau đó bán cho Bảo tàng Anh (cùng với tượng thờ và phù điêu tác phẩm điêu khắc lấy từ đền Parthenon).
Trong cuộc chiến tranh giành độc lập của Hy Lạp vào năm 1830, Đền bị quân Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ bắn phá và bị hư hại nghiêm trọng. Công trình được xây dựng lại một phần vào năm 1837- 1846 và được xây dựng lại hoàn toàn vào năm 1903-1909. Năm 1977 – 1988, công trình được trung tu lại.
Toàn bộ ngôi đền nằm trên một sườn dốc, vì vậy các mặt phía tây và bắc thấp hơn các cạnh phía nam và đông khoảng 3 m.
Công trình được xây dựng hoàn toàn bằng đá cẩm thạch và các trụ gạch bằng đá vôi đen. Cửa ra vào và cửa sổ được chạm khắc công phu. Các cột được trang trí lộng lẫy, được sơn, mạ vàng….
Phía bắc của Đền có một cổng vòm lớn với 6 cột Ionic và nổi tiếng bởi một mái hiên tại phía nam với 6 cột là hình tượng thiếu nữ và được gọi là ”Hiên của các thiếu nữ”( Porch of the Maidens).
Đền Erechtheum là một ví dụ về sự công phu, sang trọng của thức cột Ionic; được biết đến đầu tiên về trang trí đầu cột (dạng Egg and Dart) và các đường gờ trang trí lặp lại (Guilloche).

Sơ đồ mặt bằng Đền Erechtheum, Acropolis Athens, Hy Lạp

Sơ đồ mặt đứng hướng đông Đền Erechtheum, Acropolis Athens, Hy Lạp


Phối cảnh tổng thể tàn tích Đền Erechtheum, Acropolis Athens, Hy Lạp
.jpg)
Đền Erechtheum với mái hiên có 6 cột – tượng thiếu nữ, Acropolis Athens, Hy Lạp
Tượng Nữ thần Athena Promachos
Tượng Nữ thần chiến tranh Athena Promachos (Statue of Athena Promachos, vị trí ký hiệu 4) nằm giữa Cổng chính Propylaea và Đền Parthenon.
Tượng được tạc bởi nhà điêu khắc nổi tiếng Pheidias vào khoảng năm 456 TCN sau 9 năm xây dựng. Tượng được cho là cao khoảng 9,1m, bằng đồng.
Vào năm 465, Tượng bị Đế chế Đông La Mã (Đế chế Byzantine/Byzantine Empire, tồn tại năm 395–1453) tháo dỡ và vận chuyển đến thủ đô Constantinople của Đế chế và bị phá hủy tại đó vào năm 1203.
Hình dạng tượng chỉ được thấy qua các bức tượng mô phỏng lại sau này.

Hình minh họa bức tượng Athena Parthenos, được làm bằng vàng và ngà voi
Cổng chính Propylaea
Cổng chính Propylaea (ví trí ký hiệu 5) nằm tại phía tây nam của Acropolis Athens, được xây dựng vào năm 437-432 TCN.
Công trình được xây bằng đá cẩm thạch trắng, xám hoặc đá vôi. Hình mẫu của cổng sau này được sử dụng trong nhiều thành phố lớn trên thế giới (ví như cổng Brandenburg tại Berlin, Đức).
Cấu trúc Cổng bao gồm 1 khối cổng trung tâm với 2 khối công trình phụ trợ hai bên.
Khổi cổng trung tâm có 2 mặt tiền với 6 cột theo thức Doric ở mỗi mặt. Bên trong có các hàng trụ tường và cột nhỏ. Nền của Cổng nâng dần theo chiều cao với hai dãy bậc. Đây là cổng nghi lễ (Nghi môn), song do Kho bạc nhà nước được lưu giữ trên Acropolis, nên cổng này còn có vai trò an ninh.
Hai khối công trình phụ trợ hai bên cổng có các bức tường với bề mặt trang trí là các bức tranh về các trận chiến quan trọng của Hy Lạp. Đây là các phòng chuẩn bị đồ nghi lễ trước khi vào đền.
Cổng bị hư hại nghiêm trọng khi xảy ra vụ nổ kho đạn của người Ottoman tại Đền Parthenon vào năm 1687.
Năm 1984, Cổng chính Propylaea được phục hồi một phần.

Sơ đồ mặt bằng Cổng Propylaea, Acropolis Athens, Hy Lạp

Mặt trước phía đông của Cổng Propylaea, Acropolis Athens, Hy Lạp

Mặt trước phía tây của Cổng Propylaea, Acropolis Athens, Hy Lạp
Đền Athena Nike
Đền Athena Nike (Temple of Athena Nike, vị trí ký hiệu 6) nằm tại phía tây nam Acropolis Athens; có một vị trí nổi bật trên sườn dốc của Quần thể, bên phải cổng vào Propylaea.
Đây là ngôi đền thờ Athena Nike, Nữ thần biểu tượng của chiến thắng và khôn ngoan.
Vào thế kỷ thứ 6 TCN, một giáo phái thờ Nữ thần Athena Nike được thành lập và một ngôi đền nhỏ được xây dựng bên trong Quần thể.
Đền Athena Nike hiện tại được xây dựng tại Acropolis, vào năm 420 TCN, theo phong cách Ionic hoàn chỉnh sớm nhất trên Acropolis.
Đền bị phá hủy vào năm 1686 bởi những người Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ và vật liệu đá được sử dụng để xây dựng bức tường Thổ Nhĩ Kỳ bao quanh ngọn đồi.
Đền được xây dựng lại vào năm 1834 khi Hy Lạp giành lại được độc lập. Năm 1998, công trình được tôn tạo lại.
Đền có quy mô nhỏ, kích thước 8m x 5,5m, cao 7m, dọc theo hướng đông – tây.
2 đầu hồi của Đền có hàng cột với 4 cột. Tỷ lệ chiều cao và đường kính của các cột là 7: 1; Tỷ lệ thanh mảnh tạo nên sự sang trọng và tinh tế của tòa nhà Ionic. Công trình được xây dựng bằng đá cẩm thạch trắng.
Tại đây vẫn còn lưu giữ được các tác phẩm điêu khắc, phù điêu, sắc lệnh và bia đá.
Các bức phù điêu có cảnh kỵ binh trong trận chiến của người Hy Lạp trước quân Ba Tư.
Athena Nike vốn là nữ thần “chiến thắng có cánh”. Song tại Đền, Nữ thần Athena Nike lại không có cánh với hy vọng Nữ thần không rời bỏ thành phố.
Xung quanh ngôi đền có một hàng kè chắn bao quanh. Bức tường kè được trang trí các tác phẩm điêu khắc.

Sơ đồ mặt bằng Đền thờ Athena Nike, Acropolis Athens, Hy Lạp

Đền Athena Nike, Acropolis Athens, Hy Lạp

Một bức phù điêu một nữ thần tại bức tường kè xung quanh Đền Athena Nike, Acropolis Athens, Hy Lạp ( Bảo tàng Acropolis/Acropolis Museum)
Đền Artemis Brauronia
Đền Artemis Brauronia (Sanctuary Artemis Brauronia, vị trí ký hiệu 8) nằm tại phía tây nam Acropolis Athens.
Đền là nơi thờ Nữ thần Artemis Brauronia, người bảo vệ phụ nữ trong thời kỳ mang thai và sinh nở.
Công trình được xây dựng vào năm 430 TCN.
Đền thờ bao gồm các dãy nhà dài với các hàng hiên, không có chính điện. Dãy chính dài 38m, rộng 6,8m; hai dãy hai bên dài 9,3m. Hiện tại, công trình chỉ còn lại di tích của nền móng. Theo các tài liệu ghi lại, tượng Nữ thần được tạc bằng gỗ.

Sơ đồ phục dựng lại Đền Artemis Brauronia, Acropolis Athens, Hy Lạp
Tòa Chalkotheke
Tòa Chalkotheke (vị trí ký hiệu 9) nằm kề liền Đền Artemis Brauronia, gần Đền Parthenon.
Công trình được cho là một nhà kho lưu giữ các lễ vật.
Tòa nhà có mặt bằng dài 43m rộng 14m, nằm trong một ô đất. Vào sân thông qua một cổng vòm rộng 4,5m.
Công trình hiện chỉ còn lại tàn tích móng.

Sơ đồ phục dựng lại Tòa Chalkotheke với cổng vào; bên trái hình vẽ là Đền Parthenon, Acropolis Athens, Hy Lạp
Đền thờ Pandroseion
Đền thờ Pandroseion (vị trí ký hiệu 10) nằm tại phía sau Đền thờ cổ Athena và tiếp giáp với Đền Erechtheum.
Đây là nơi thờ Pandrosus, một trong những con gái của Cecrops I, vị vua huyền thoại đầu tiên của bán đảo Attica Hy Lạp (bao gồm cả thành phố Athens). Đền nằm trong một sân hình thang có tường bao quanh.
Tương tự như Đền Artemis Brauronia, Đền Pandroseion là một dãy nhà hình chữ L với hàng hiên, không có chính điện. Đây được cho là nơi đặt lăng mộ của vua Cecrops I.
Sơ đồ phục dựng lại Đền thờ Pandroseion, Acropolis Athens, Hy Lạp
Tòa Arrephorion
Tòa Arrephorion (vị trí ký hiệu 11) nằm cạnh bức tường phía bắc của Acropolis Athens.
Đây là nơi ở cho Arrephoros, là các cô gái (từ 7 – 11 tuổi) có nhiệm vụ chuẩn bị các trang phục nghi lễ (Peplos) sử dụng trong Thế vận hội Panathenaic (Panathenaic Games).
Công trình được xây dựng vào năm 470 TCN.
Tòa nhà có mặt bằng hình vuông, mỗi chiều rộng 12m. Bên trong có một phòng rộng 38m và một mái hiên.

Sơ đồ phục dựng lại Tòa Arrephorion, Acropolis Athens, Hy Lạp
Bệ thờ của Thần Athena
Bệ thờ của Thần Athena (Altar of Athena, vị trí ký hiệu 12) nằm tại phía đông của Đền thờ cổ Athena.
Đây là nơi thực hiện các nghi lễ hiến tế (gia súc) cho Nữ thần Athena Polias.
Bệ thờ được xây dựng lần đầu vào năm 599 – 550 TCN. Sau đó được dựng lại vào năm 525 TCN.
Bệ thờ làm bằng đá cẩm thạch. Xung quanh bệ trang trí các bức phù điêu miêu tả Nữ thần và các trận chiến giữa các vị thần và người khổng lồ.

Sơ đồ phục dựng lại Bệ hiến tế cho Nữ thần Athena Polias, Acropolis Athens, Hy Lạp

Hình vẽ miêu tả cảnh hiến tế gia súc trên Bệ thờ thần Athena Polias, Acropolis Athens, Hy Lạp
Đền thờ Zeus Polieus
Đền thờ Zeus Polieus (Sanctuary of Zeus Polieus, vị trí ký hiệu 13) nằm tại phía đông của Acropolis Athens.
Đây là nơi thờ thần Zeus, vị thần của bầu trời và sấm sét trong tôn giáo Hy Lạp cổ đại, vua của các vị thần trên đỉnh Olympus. Hiện công trình chỉ còn lại vết tích nền móng.
Đền thờ Pandion
Đền thờ Pandion (Sanctuary of Pandion, vị trí ký hiệu 14) ) nằm tại phía đông nam của Acropolis Athens; được xây dựng vào thế kỷ 5 TCN.
Công trình được cho là đền thờ vua Pandion của bộ tộc Attic Pandionis, được coi là một trong hai vị vua huyền thoại của Athens, Pandion I hoặc Pandion II.
Công trình có kích thước 40m x17m, theo hướng tây bắc – đông nam, được chia thành 2 phần, cách nhau bởi bức tường. Hiện công trình chỉ còn lại tàn tích móng.
Một số di tích chính thuộc phạm vi vùng đệm của Di sản Acropolis Athens, Hy Lạp
Đền Eleusinion
Đền Eleusinion (vị trí ký hiệu 7) nằm tại phía tây Khu vực Di sản, kề liền Đền Athena Nike, dưới chân Acropolis Athens. Bên dưới Đền là con suối có tên Enneakrounos (Nine Jets).
Công trình có kích thước khoảng 11m x 18m. Trong Đền đặt các bức tượng của Demeter (Nữ thần mùa màng và nông nghiệp trên đỉnh Olympian), Kore và Iakkhos, một nhà lãnh đạo của giáo phái bí ẩn Eleusinian (Eleusinian Mysteries). Ngoài ra, trong Đền còn lưu giữ tất cả các linh vật gắn liền với giáo phái Eleusinian và đóng một vai trò quan trọng trong lễ hội Panathenaic (Panathenaic Games).
Nhà hát Odeon Herodes Atticus
Nhà hát Odeon Herodes Atticus (Odeon of Herodes Atticus, vị trí ký hiệu 15) nằm trên một mỏm đá tại sườn phía tây nam của Acropolis, được xây dựng vào năm 161 sau Công nguyên với quy mô khoảng 5000 chỗ ngồi. Được phục dựng lại vào năm 1950.

Nhà hát Odeon Herodes Atticus, Acropolis Athens, Hy Lạp
Tòa nhà Stoa Eumenes
Tòa nhà Stoa Eumenes xứ Cardia (Stoa of Eumenes, vị trí ký hiệu 16) nằm tại phía nam của Acropolis, kề liền Nhà hát Odeon Herodes Atticus. Công trình được xây dựng vào năm 160 TCN. Sau này trở thành nơi trú cho khán giả khi thời tiết khắc nghiệt và kho chứa đạo cụ của nhà hát.
Đền thờ Asclepius
Đền thờ Asclepius hay Asclepieion (Sanctuary of Asclepius or Asclepieion, vị trí ký hiệu 17) nằm tại phía nam của Acropolis. Đây là ngôi đền chữa bệnh thời Hy Lạp cổ đại và thờ Asclepius, vị bác sĩ-á thần đầu tiên trong thần thoại Hy Lạp. Tương truyền, đây là một bác sĩ giỏi đến mức có thể làm cho người ta sống lại từ cõi chết.

Các bậc và tường đá tàn tích Asclepeion, Acropolis Athens, Hy Lạp
Nhà hát ngoài trời Dionysus Eleuthereus
Nhà hát ngoài trời Dionysus Eleuthereus (Theatre of Dionysus Eleuthereus, vị trí ký hiệu 18) nằm tại phía nam của Acropolis. Đây được sử dụng cho các lễ hội tôn vinh các vị thần Dionysus, có quy mô chứa được 17000 khán giả, sân khấu hình tròn với đường kính khoảng 27m.

Nhà hát ngoài trời Dionysus Eleuthereus, Acropolis Athens, Hy Lạp
Tòa nhà Odeon Pericles
Tòa nhà Odeon Pericles (Odeon of Pericles, vị trí ký hiệu 19) nằm kề liền Nhà hát Dionysus Eleuthereus, tại phía nam của Acropolis. Công trình được xây dựng vào năm 435 TCN, có diện tích khoảng 4000m2 với kích thước 62,4m x 68,6m, dành cho các cuộc thi âm nhạc, diễn tập hợp xướng và là nơi trú cho khán giả từ nhà hát khi thời tiết xấu. Công trình có nhiều hàng cột bên trong để đỡ mái. Tất cả hiện chỉ còn lại vết tích móng.
Tòa nhà Temenos
Tòa nhà phụ trợ của Nhà hát Dionysus Eleuthereus (Temenos of Dionysus Eleuthereus, vị trí ký hiệu 20) nằm tại phía nam của Nhà hát Dionysus Eleuthereus, hiện chỉ còn lại tàn tích.
Quần thể Acropolis tại thành phố Athens, khu vực Attica, Hy Lạp được coi là một trong những biểu tượng phổ quát của tinh thần cổ điển và nền văn minh của nhân loại.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
http://whc.unesco.org/en/list/404
https://en.wikipedia.org/wiki/Greece
https://en.wikipedia.org/wiki/Polis
https://en.wikipedia.org/wiki/Acropolis_of_Athens
https://en.wikipedia.org/wiki/Parthenon
https://en.wikipedia.org/wiki/Doric_order
https://en.wikipedia.org/wiki/Ionic_order
https://en.wikipedia.org/wiki/Old_Temple_of_Athena
https://en.wikipedia.org/wiki/Erechtheum
https://en.wikipedia.org/wiki/Athena_Promachos
https://en.wikipedia.org/wiki/Propylaea_(Acropolis_of_Athens)
https://en.wikipedia.org/wiki/Temple_of_Athena_Nike
https://en.wikipedia.org/wiki/Eleusinion
https://en.wikipedia.org/wiki/Brauroneion
https://en.wikipedia.org/wiki/Chalkotheke
https://en.wikipedia.org/wiki/Pandroseion
https://en.wikipedia.org/wiki/Arrephorion
https://en.wikipedia.org/wiki/Altar_of_Athena_Polias
https://en.wikipedia.org/wiki/Sanctuary_of_Zeus_Polieus
https://en.wikipedia.org/wiki/Sanctuary_of_Pandion
https://en.wikipedia.org/wiki/Odeon_of_Herodes_Atticus
https://en.wikipedia.org/wiki/Stoa_of_Eumenes
https://en.wikipedia.org/wiki/Propylaea
https://en.wikipedia.org/wiki/Theatre_of_Dionysus
https://en.wikipedia.org/wiki/Stoa_of_Eumenes
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|