Thông tin chung:
Công trình: Văn miếu Xích Đằng, Khu di tích Phố Hiến
Địa điểm: thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên
Quy mô:
Năm hình thành: Thế kỷ 15 -17
Giá trị: Một trong số công trình thuộc Khu di tích Phố Hiế, Di tích Quốc gia đặc biệt (Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, năm 2014)
Phố Hiến
Phố Hiến tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên là một địa danh lịch sử ở Việt Nam.
Vào thế kỷ 17, đây là một thương cảng nổi tiếng của Việt Nam và được biết tới như một "vùng đất lành" của khu vực Đông Á, tương tự như Hội An, Quảng Nam. Ngoài kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ phồn vinh nhất nước, Phố Hiến đã là một đô thị nổi bật đứng ở vị trí thứ hai. Dân gian có câu: "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến".
Lịch sử hình thành và phát triển
Ngay từ thời Hùng Vương, các thày địa lý đã chia châu thổ Bắc Bộ thành 3 vùng: Thượng châu thổ với đỉnh của các triền sông là Việt Trì; Trung châu thổ với đỉnh là Cổ Loa; Hạ châu thổ với đỉnh là Phố Hiến. Trong Tứ bất tử của Việt Nam, vị Thánh thứ 3 là Chử Đồng Tử (thời Hùng Duệ Vương, vua Hùng thứ 18, thế kỷ 3 TCN), tượng trưng cho sự thịnh vượng, được cho là có liên quan đến việc hình thành tuyến giao thương buôn bán Kẻ Chợ, Thăng Long – Phố Hiến, Hưng Yên sau này.
Tại Hạ châu thổ, các nhánh sông trải ra vùng đồng bằng như những chiếc nan quạt. Phố Hiến xưa nằm sát bên bờ tả ngạn sông Hồng (ngày nay do phù sa bồi đắp nên cách sông khoảng chừng 2 km). Theo đường sông, Phố Hiến cách Kinh Đô Thăng Long – Kẻ Chợ 55 km. Từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên mất 3 ngày.
Bằng đường thuỷ, Phố Hiến trở thành nơi trung chuyển, cửa ngõ án ngữ hoặc thông thương của mọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh đô Thăng Long, qua các tuyến sông Đáy, sông Hồng, sông Thái Bình.
Thế kỷ 10, vùng Đằng Châu ở phía Bắc thành phố Hưng Yên ngày nay vốn là một lãnh địa của sứ quân Phạm Bạch Hổ (910- 972). Ông đã gây dựng nơi đây thành thủ phủ một vùng đất rộng lớn và là một trung tâm quân sự thời 12 sứ quân. Đến thời Tiền Lê (Đại Cồ Việt, tồn tại 980- 1009), vùng đất này tiếp tục là căn cứ hậu cần của Lý Công Uẩn (sau này là vua Lý Thái Tổ, sáng lập triều Lý, trị vì 1009- 1028).
Thế kỷ 13, dưới thời nhà Trần (Đại Việt, tồn tại 1225-1400), khi nhà Nguyên (Trung Quốc, tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống (Trung Quốc, tồn tại 960 -1279), một số người Trung Hoa (chính trị gia, thương gia) chạy sang Việt Nam tị nạn. Tại Phố Hiến, họ lập nên làng Hoa Dương. Một số người Việt từ nhiều địa phương khác nhau cũng tìm đến địa điểm này để giao lưu, buôn bán và định cư.
Theo sử sách, tên Phố Hiến có xuất xứ từ chữ Hiến của Hiến Doanh hay Hiến Nam, vốn là cơ quan hành chính của trấn Sơn Nam xưa, được cho xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 15, thời vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5 của triều Hậu Lê, trị vì 1460- 1497).
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một trung tâm kinh tế với nhiều mối giao lưu trong nước và quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có các công sở của trấn lỵ xứ Sơn Nam, cũng như các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong và ngoài nước.
Thế kỷ 17, giao thương giữa Phố Hiến đạt đến thời điểm cực thịnh, trở thành điểm nút trung chuyển quan trọng trên tuyến giao thương giữa Đàng Ngoài với các đô thị thương cảng tại Đàng Trong, vươn ra các tuyến giao thông quốc tế trên biển tới Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Đông Nam Á, các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp...
Phố Hiến trở thành một đô thị kinh tế và văn hóa nổi bật tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ.
Bản đồ Phố Hiến xưa, Hưng Yên
Suy thoái
Vào đầu thế kỷ 18, các tuyến giao thương trực tiếp bằng đường biển tại Trung Quốc, Nhật Bản trở nên thông thoáng hơn sau khi các quốc gia này dỡ bỏ lệnh cấm vận. Cùng với sự phát triển của các đội tầu có tải trọng lớn, vai trò của cảng biển (nước sâu) tại khu vực Đông Á dần trở nên quan trọng hơn cảng sông. Bến cảng Phố Hiến do sự bồi lở của sông Hồng chỉ có khả năng tiếp nhận thuyền buôn nhỏ. Trạm hải quan tại Phố Hiến đã được chuyển qua bến cảng biển Ninh Hải (Hải Phòng).
Các loại hàng hóa xưa sản xuất tại Đàng Ngoài (tơ sống, quế…) đã trở nên phổ biến tại các quốc gia Đông Á.
Các vị quan cai trị những giai đoạn sau này không còn được như xưa, vấn nạn tham nhũng, quấy nhiễu thương nhân lan tràn. Phố Hiến không còn là nơi đất lành.
Ngoại thương tại điểm trung chuyển Phố Hiến dần suy giảm. Các thương điếm phương Tây ở Phố Hiến lần lượt đóng cửa. Phố Hiến vắng hẳn các khách buôn nước ngoài, trừ người Trung Quốc.
Năm 1726, vào thời Lê - Trịnh (1545- 1787) trấn lị Sơn Nam được chuyển sang bên hữu ngạn sông Hồng thuộc huyện Duy Tiên (Hà Nam). Năm 1741, trấn Sơn Nam được tách thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ.
Sang thế kỷ 19, vào thời nhà Nguyễn (tồn tại năm 1802 -1945), kinh đô nước Việt chuyển vào Huế. Năm 1804, trấn lị Sơn Nam Thượng từ Phố Hiến đã được di chuyển về Châu Cầu (Phủ Lý). Năm 1831, tỉnh Hưng Yên được thành lập, Phố Hiến chỉ còn mang chức năng hành chính.
Cộng đồng dân cư Phố Hiến
Trong lịch sử phát triển, với vị trí giao thương thuận lợi, Phố Hiến đã trở thành nơi dành cho cả người Việt và người nước ngoài đến đây sinh sống, ví dụ như Trung Quốc, Nhật, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…Trong đó người Việt và người Hoa có vai trò quan trọng.
Tại văn bia chùa Hiến dựng năm 1709, đã liệt kê tới hơn 50 địa phương khắp miền Bắc có người đến Phố Hiến làm ăn, sinh sống.
Bên cạnh cộng đồng người Việt, đông đảo người Hoa đã đến cư trú tại Phố Hiến.
Người Hoa đến đây từ hai nguồn chính:
Thứ nhất, họ là những người Hoa vượt biển từ Trung quốc sang Việt Nam tị nạn chính trị, khi nhà Nguyên (tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống (tồn tại 960 -1279) và nhà Thanh (tồn tại 1636 – 1912) diệt nhà Minh (tồn tại 1368- 1644).
Thứ hai, họ là những thương nhân buôn bán trên biển, có quê gốc tại miền Nam Trung Quốc. Ngoài ra, những thương nhân này còn đến từ đường bộ qua biên giới, hoặc từ Thăng Long – Kẻ Chợ về đây buôn bán.
Những người Hoa lập các cửa hiệu, tập trung thành các phố thương mại. Ngoài nhà ở, cửa hàng, họ còn xây dựng nhiều chùa, đền, miếu, hội quán để lưu giữ Đạo giáo của người Trung Quốc. Theo thời gian, những người này hòa nhập với cộng đồng người Việt và trở thành người Việt. Địa điểm tụ cư đầu tiên của người Hoa ở Phố Hiến là Hoa Dương, sau gộp thêm các xã Hoa Điền (Lương Điền), Hoa Cái (Phương Cái) hợp thành Tam Hoa. Các cửa hiệu của Hoa Kiều phổ biến là buôn bán vải vóc, đồ sứ, tạp hóa, thuốc Bắc; được tập trung ở phố Khách, phố Bắc Hoà, Nam Hoà; nhiều nhà xây gạch ngói. Người ta cho rằng, hiện vẫn có tới 14 dòng họ gốc Hoa Kiều sinh sống ở Phố Hiến như các họ: Ôn, Tiết, Hoàng, Lý, Trần, Bạch, Quách, Mã, Thái, Hà, Hứa, Từ, Lâm, Khu…
Sau này, khi giao thương với châu Âu phát triển, người Hoa còn có vai trò vận chuyển thuê cho các thương gia đến từ các nước châu Âu như Hà Lan, Anh (Công ty Đông Ấn) và các quốc gia tại khu vực Đông Á.
Họ vận chuyển tơ sống (xuất sang Nhật Bản); bạc và đồng (nhập từ Nhật); hồ tiêu, đường, lưu huỳnh, diêm tiêu (nhập từ các quốc gia Nam Á); lụa, đồ gốm, sơn mài (xuất đi Batavia, thủ phủ của Đông Ấn Hà Lan, ngày nay là Jakarta, Indonesia)…
Vào thế kỷ 18, 19, khi việc buôn bán sa sút, các thương gia người Hoa một phần trụ lại Phố Hiến, một phần quay trở lại Thăng Long – Hà Nội.
Người Nhật cũng đến Phố Hiến vào khoảng đầu thế kỷ 17, chủ yếu là các thương nhân buôn bán xuyên đại dương. Họ mang bạc, đồng đến đây mua, đổi các loại tơ. Vào năm 1635, thời Mạc phủ Tokugawa, (chính quyền do tầng lớp võ sĩ Nhật Bản lãnh đạo, trị vì từ năm 1603- 1868, triều đình Thiên Hoàng chỉ có ý nghĩa tượng trưng) với sự ra đời của Luật bế quan tỏa cảng (Tòa Quốc), chỉ các chuyến tàu hồi hương mới được phép cập bờ Nhiều kiều dân Nhật Bản không dám trở về và lưu lại Phố Hiến (cũng như Hội An, Quảng Nam, Việt Nam). Những người Nhật này thường làm những nghề như hoa tiêu dẫn tàu thuyền vào cửa sông, phiên dịch, môi giới…Một số người lập các lò sản xuất gốm Hizen với các vật dụng điển hình như ấm, chén, bình rượu, hộp nhỏ, được trang trí bởi các loại men và hình tượng mang đậm văn hóa Nhật Bản. Tại đây còn có nghĩa trang dành riêng cho người Nhật Bản.
Ngoài ra, tại Phố Hiến còn có các thương nhân Châu Á khác như Thái Lan, Malaysia, Philipin…
Thương nhân phương Tây đến Phố Hiến chủ yếu là người Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và Pháp. Người Bồ Đào Nha đến sớm nhất, vào năm 1626. Một số người phương Tây đến đây kết hợp việc buôn bán với truyền giáo.
Phố Hiến – Đô thị kinh tế và văn hóa
Phố hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng (đoạn sông Xích Đằng), ngày nay tương ứng với phần đất của thôn Đằng Châu (xã Lam Sơn, thành phố Hưng Yên) và thôn Nễ Châu (xã Hồng Châu, thành phố Hưng Yên) trên một diện tích 5km x 1km, khoảng 500ha. Phố Hiến được sử sách miêu tả là một phố thị khá lớn với chừng 2000 nóc nhà, tương đương khoảng 1 vạn dân.
Phố Hiến là một đô thị tương đối đặc biệt, không có thành lũy bao quanh, chỉ có yếu tố thị mà không có yếu tố thành, mặc dù tại đây cũng có đồn binh với nhiều quân sĩ đồn trú.
Các vị quan cai trị Phố Hiến không chỉ được triều đình tín nhiệm, dân chúng yêu mến mà còn được cả các thương gia nước ngoài nể trọng. Một trong những vị quan có công mở mang, xây dựng Phố Hiến là Quận công Thái Bảo Lê Đình Kiên (1620-1704), quan dưới thời Lê Trịnh. Ông là vị quan tài năng, đức độ, không những có tài về cai trị mà còn giỏi thương nghiệp, ngoại giao, nổi tiếng trong việc giao thiệp với các thương nhân ngoại quốc đến buôn bán tại Phố Hiến.
Lúc ông mất, cả người Việt và người nước ngoài ngụ ở Phố Hiến đều dựng miếu thờ, tạc bia ghi công ông.
Trên tấm bia khắc ca ngợi ông, một thương nhân Trung Quốc viết: “Ngài yêu dân như yêu con, dẹp yên giặc biển, tiết kiệm tiêu pha, ngay cả con trẻ cũng biết và ca ngợi lòng trung của ngài với vua với nước…Là những thương nhân đến từ xa, không dám tự coi mình là những thần dân, nhưng vì đã sống lâu năm ở Việt Nam, chúng tôi tỏ lòng nhiệt thành sủng ái ngài…”.
Nhiều viên quan cai trị tại Phố Hiến được coi là đại thần của quốc gia, là mẫu mực về giải quyết các việc công.
Phố Hiến từ một điểm dân cư trở thành một đô thị kinh tế lớn vào thế kỷ 17. Lúc đầu là các hoạt động buôn bán qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn, xuất hiện sự chuyển dịch trọng tâm từ kinh tế nội sinh (thủ công nghiệp, buôn bán trong nước) sang kinh tế ngoại sinh (buôn bán với nước ngoài).
Ngoài chức năng là trung tâm hành chính trấn Sơn Nam với các cơ quan công quyền, Văn Miếu (nơi tổ chức các cuộc thị lựa chọn hiền tài)… diện mạo đô thị kinh tế của Phố Hiến thể hiện qua các không gian chức năng: Bến cảng sông; Hệ thống chợ; Khu phố phường; Hiệu buôn của người nước ngoài, đặc biệt là phương Tây.
Bến cảng Phố Hiến là nơi các tàu thuyền ngoại quốc lưu đỗ để làm thủ tục kiểm soát và xin giấy phép đi tiếp tới Kinh đô.
Cùng với bến cảng là hệ thống các khu chợ khá sầm uất như chợ Vạn, chợ Hiến, chợ Bảo Châu...Những chợ này đã vượt khỏi khuôn khổ những chợ địa phương để thành các chợ liên vùng, liên quốc gia.
Khu phố phường là các khu định cư của người Việt và các kiều dân ngoại quốc (chủ yếu là người Hoa).
Theo các văn bia ở chùa Hiến (1709) và chùa Chuông (1711), Phố Hiến thời đó có khoảng 20 phố phường. Qua các bi ký, có thể đọc được 13 phố và 32 tên cửa hiệu buôn bán như các Tân Thị, Tân Khai, Tiên Miếu, Hậu Trường…
Trong thế kỷ 17, các hiệu buôn (thương điếm) của người Phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến, ví như: Thương điếm Hà Lan (1637-1700) buôn bán tơ sống, quế; Thương điếm Anh (1672-1683) buôn bán nguyên liệu lưu huỳnh tạo thuốc súng, vũ khí, hợp kim kẽm – đồng – sắt để đúc tiền, các loại dạ và vải khổ rộng của Anh, đồ kỹ xảo ngoại quốc dành cho vua chúa; đặt mua để xuất khẩu tơ lụa, đồ gỗ sơn mài, gốm sứ, hương liệu, xạ hương, lâm thổ sản…Phương thức mua bán ngoài việc trả tiền mặt còn có trao đổi hàng hóa.. Mỗi thương điếm là một quần thể kiến trúc văn phòng đại diện kiêm nhà kho của các Công ty Đông Ấn (Hà Lan, Anh). Các công trình được xây bằng gạch, sau này đã bị phá hủy hoàn toàn.
Kiến trúc tại đô thị Phố Hiến là sự đa dạng phong cách, từ kiến trúc Việt Nam, kiến trúc Trung Hoa (tại vùng Phúc Kiến, miền Nam Trung Quốc) đến kiến trúc châu Âu (ví như phong cách kiến trúc Gothic của nhà thờ Phố Hiến)...
Khu di tích Phố Hiến
Khu di tích Phố Hiến là Di tích quốc gia đặc biệt về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, gồm 16 di tích tiêu biểu, đại diện cho khoảng 100 di tích lịch sử được bảo tồn và lưu giữ tại Phố Hiến, phân bố trong 6 phường, xã của thành phố Hưng Yên:
Phường Lam Sơn: Văn Miếu Xích Đằng, đền Mây, đền Kim Đằng;
Phường Hiến Nam: Chùa Chuông, đình An Vũ, đền Nam Hòa;
Phường Quang Trung: Chùa Phố, đền Trần, đến Mẫu, đền Thiên Hậu, đền Bà Chúa Kho, Võ Miếu;
Phường Lê Lợi: Đền Cửu Thiên Huyền Nữ;
Phường Hồng Châu: Đình- chùa Hiến, Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung;
Xã Hồng Nam: Chùa Nễ Châu.
Văn Miếu Xích Đằng
Văn Miếu Hưng Yên tọa lạc tại khu phố Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên nên được gọi là Văn Miếu Xích Đằng. Công trình là một trong số di tích lịch sử của Khu di tích Phố Hiến.
Văn Miếu Xích Đằng là nơi thờ Vạn thế sư biểu Khổng Tử (người Trung Hoa, 551 - 479 TCN, sáng lập ra Nho giáo) và các chư hiền của Nho gia. Cùng phối thờ với Khổng Tử là nhà giáo Chu Văn An (người Việt Nam, 1292 – 1370, hiệu trưởng đầu tiên của Văn miếu Quốc Tử Giám).
Vào thế kỷ 15, dưới thời vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5, nhà Hậu Lê, trị vì từ năm 1460- 1497), nhiều chính sách nhằm hoàn thiện bộ máy hành chính, kinh tế, giáo dục – khoa cử, luật pháp được ban bố gắn với việc chấn hưng lại Đạo Nho. Để tìm kiếm người tài cống hiến cho quốc gia, vua Lê Thánh Tông đặt lệ 3 năm mở 1 khoa thi lớn, cho cho phép những người thi đỗ được về quê vinh quy bái tổ, lại cho dựng văn bia ghi tên họ ở Văn Miếu. Trong thời ông trị vì có tới 12 kỳ thi lớn, lấy đỗ hơn 500 người.
Những năm sau này, các vị vua tiếp theo cho thành lập thêm nhiều trường học (Văn Miếu) tại các trấn. Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) có Văn miếu Xích Đằng (hay còn có tên là Văn miếu Sơn Nam), được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn. Khi chia tách lại các trấn, Vắn Miếu Xích Đằng trở thành Văn Miếu của trấn Sơn Nam Thượng và sau này của tỉnh Hưng Yên.
Tương truyền, Văn Miếu Xích Đằng được xây dựng trên nền ngôi chùa cổ Nguyệt Đường, do Hương Hải thiền sư khởi dựng năm 1701, dưới sự trợ giúp của Quận Công Lê Đình Kiên - quan trấn thủ trấn Sơn Nam.
Dấu tích còn sót lại của ngôi chùa cổ là hai ngôi mộ tháp đá, bên trong đặt xá lị của hai vị sư tổ trụ trì chùa: Phương Trượng tháp” cao 5 tầng thờ Viên Thông đại hòa thượng; “Tịnh Mãn tháp” cao 3 tầng thờ Hương Hải thiền sư.
Văn Miếu Xích Đằng còn là nơi tôn vinh Nho giáo (Khổng giáo) của người Hoa và người Việt tại Phố Hiến.
Công trình được khởi dựng vào những năm cuối thời Hậu Lê. Quy mô ban đầu còn nhỏ, năm 1839, thời Nguyễn (1802–1945) được xây dựng lại có quy mô như hiện nay.
Vào thời Nguyễn, Văn Miếu Xích Đằng là nơi tổ chức các kỳ thi Hương và sát hạch thí sinh đi dự kỳ thi Hội.
Đây là một trong số sáu Văn miếu xưa còn tồn tại trong cả nước (Văn Miếu- Quốc Tử Giám, Hà Nội; Văn miếu Xích Đằng, Hưng Yên; Văn miếu Mao Điền, Hải Dương; Văn miếu Bắc Ninh; Văn thánh miếu Huế; Văn miếu Vĩnh Long…).
Lễ hội hàng năm tại Văn Miếu Xích Đằng diễn ra vào 4 - 5 tháng Giêng âm lịch.
Văn Miếu Xích Đằng rộng 6000m2, có bố cục quay về hướng Nam, gồm: Nghi môn, Sân, Chính điện và các công trình phụ trợ khác.
Phối cảnh tổng thể Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Đường vào Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Nghi môn
Nghi môn (Tam quan) Văn Miếu Xích Đằng được xây dựng đồ sộ, bề thế (như Nghi môn Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội) gồm 2 tầng. Tầng dưới tạo thành Tam quan với 3 cửa vòm, được giới hạn bởi các trụ ốp tường, tạo thành các ô trang trí câu đối. Cửa vòm giữa cao, rộng; 2 cửa vòm hai bên nhỏ và thấp. Tấng 2 gồm 3 khối; Khối chính giữa có mặt trước và sau với ô cửa hình tròn, mái 2 tầng, 8 mái; 2 khối hai bên có mặt trước và mặt sau với ô cửa vòm, mái 1 tầng 4 mái. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi Hương trước đây.
Phía trước Nghi môn là một đôi nghê đá được tạc từ thế kỷ 18 với đuôi dài và thân được chạm khắc vân mây.
Nghi môn Văn Miếu Xích Đằng là công trình kiến trúc đặc sắc vẫn giữ nguyên vẹn từ khi xây dựng và hiện được sử dụng như là biểu tượng văn hóa tại tỉnh Hưng Yên.
Nghi môn Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Sân Văn Miếu
Sau Nghi môn là một sân rộng, lát gạch. Hai bên được giới hạn bởi Lầu chuông, Lầu khánh và hai dãy Tả vu, Hữu vu. Đây là nơi diễn ra các kỳ thi Hương.
Giữa sân có một đường Thập đạo bằng gạch, được xây nổi lên trên mặt sân, chia sân thành 4 ô lớn, là nơi các sĩ tử ngồi thi. Giao của đường thập đạo đặt một tháp bằng tre, nơi giám khảo ngồi quan sát thí sinh làm bài.
Lầu chuông và Lầu khánh có mặt bằng hình vuông, kiến trúc xây gạch đơn giản, 1 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái.
Lầu chuông treo quả chuông bằng đồng, đúc năm 1804. Lầu khách treo một khánh đá, dựng năm 1803.
(Tại Văn miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội, Lầu khánh được thay bằng Lầu trống).
Tả vu và Hữu vu là tòa nhà 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái. Cột hàng hiên và trụ biểu nhô ra tại tường hồi đều có các ô trang trí câu đối. Xưa kia, đây là nơi các quan để cỗ kiệu, sửa soạn mũ áo trước khi vào lễ Khổng Tử. Ngày nay, đây là nơi trưng bày những hình ảnh về giáo dục và du lịch tỉnh Hưng Yên.
Đường Thập đạo tại sân Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Tòa Tả vu và Lầu chuông tại sân trong Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Lầu chuông Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Lầu khánh Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Chính điện hay Nội tự có kiến trúc kiểu chữ tam, bao gồm 3 tòa đặt song song với nhau: Tiền đường, Trung đường và Hậu đường, kiểu "trùng thiềm điệp ốc"(mái nối liền nhau), theo kiểu kiến trúc cung đình Huế triều Nguyễn.
Tiền đường gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái. Chiều rộng của nhà mỏng như một hàng hiên.
Trung đường gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái, chiều dài như nhà Tiền đường, song chiều rộng lớn hơn.
Hậu đường có mặt bằng tương tự như Trung đường, song có 4 mái.
Tại tòa Trung đường, gian giữa đặt tượng thờ Nhà giáo Chu Văn An.
Tại tòa Hậu đường, gian giữa đặt tượng thờ Khổng Tử. Hai bên là ban thờ Tứ Phối (4 học trò nổi tiếng của Khổng Tử: Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư và Mạnh Tử).
Nội tự Văn miếu được trang trí bởi hệ thống đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống kèo cột sơn son thếp vàng. Hiện vật quý giá xưa còn lại của Văn Miếu Xích Đằng là 9 tấm bia đá, trong đó 8 bia được lập năm 1888, một bia được lập năm 1943, ghi danh 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam Thượng xưa, trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.
Phối cảnh tổng thể Nội tự hay Chính điện Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Tòa Tiền đường Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Ban thờ Chu Văn An tại Trung đường, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Bàn thờ Khổng Tử cùng các học trò tại Hậu đường, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Nơi đặt 9 tấm bia cổ ghi danh các vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam Thượng, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến
Phương Trượng tháp còn lại trong khuôn viên Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến
Tĩnh Mãn tháp còn lại trong khuôn viên Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến
Vào giai đoạn thế kỷ 15- 17, Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên là địa điểm nổi bật trong lịch sử phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ.
Các công trình kiến trúc còn bảo tồn tại Phố Hiến có giá trị tiêu biểu trong quá trình phát triển kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam.
Văn miếu Xích Đằng là một trong những di tích thể hiện tầm quan trọng về vị thế chính thể và văn hóa của Khu phố cổ Phố Hiến.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%
91%E1%BA%B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%91_Hi%E1%BA%BFn
http://phohienplus.blogspot.com/2015/05/ngoai-thuong-pho-hien-ky-17-18.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_%C4%90%C3%B4_
Qu%E1%BA%A3ng_H%E1%BB%99i
http://thanhphohungyen.gov.vn/16-di-tich-trong-khu-di-tich-quoc-gia-dac-biet-
pho-hien-c211347.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_mi%E1%BA%BFu_X%C3%ADch
_%C4%90%E1%BA%B1ng
https://vtv.vn/video/kham-pha-viet-nam-van-mieu-xich-dang-320950.htm
- Xem thêm Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội tại đây
- Xem thêm Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên tại đây
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|