Tuần 27 - Ngày 06/02/2025
|
|
|
|
Thông tin định kỳ
|
|
|
Lịch sử Kiến trúc
Thăng Long tứ trấn: Đền Bạch Mã; Đền Voi Phục; Đền Kim Liên; Đền Quán Thánh |
29/03/2013 |

Thông tin chung:
Công trình: Thăng Long Tứ trấn: Đền Bạch Mã; Đền Voi Phục; Đền Kim Liên; Đền Quán Thánh, Hà Nội
Địa điểm: Hà Nội, Việt Nam
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Thời gian hình thành:
Giá trị: Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia
"Thăng Long tứ trấn" là khái niệm trong dân gian để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các phương của thành Thăng Long: i) Trấn Đông: Đền Bạch Mã tại phố Hàng Buồm, thờ thần Long Đỗ - Thành hoàng Hà Nội; ii) Trấn Tây: Đền Voi Phục hay đền Thủ Lệ tại Công viên Thủ Lệ, thờ Linh Lang - một hoàng tử thời nhà Lý; iii) Trấn Nam: Đền Kim Liên tại phường Phương Liên, Đống Đa, thờ Cao Sơn Đại Vương; iv) Trấn Bắc: Đền Quán Thánh hay đền Trấn Vũ tại đường Thanh Niên, thờ Huyền Thiên Trấn Vũ.

Sơ đồ vị trí Thăng Long Tứ trấn, Hà Nội
Đền Long Đỗ - Đền Bạch Mã
Đền Bạch Mã (Bach Ma Temple, Hanoi) nằm ở phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Đền Bạch Mã được xây dựng từ thế kỷ 9 để thờ thần Long Đỗ - vị thần gốc của Hà Nội cổ.
Đến thế kỷ 10, khi đưa quân đi dẹp loạn, Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng lập nên triều đại nhà Đinh,tồn tại năm 968–980) đã đến đền Bạch Mã phía Đông thành Đại La làm lễ cầu xin Thần phù hộ cho được vạn sự thì sẽ phong sắc để biểu dương sự anh linh. Từ đấy, Đinh Bộ Lĩnh chiêu binh, đánh đâu được đấy, bình được 12 sứ quân lập nên nước Đại Cồ Việt.
Năm 1010, khi Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn, hoàng đế sáng lập nhà Lý, trị vì từ năm 1009 - 1028) dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, định đắp thành nhưng nhiều lần thành đắp lên lại bị sụp đổ. Vua cho người cầu khấn ở đền thờ thần Long Đỗ thì thấy một con ngựa trắng từ đền đi ra. Vua lần theo vết chân ngựa, vẽ đồ án xây thành, thành mới đứng vững. Tạ ơn thần linh trợ giúp, vua bèn tôn phong thần Long Đỗ làm “Quốc đô Định bang Thành hoàng Đại vương” - Thành hoàng của kinh thành Thăng Long và cho gọi tên ngôi đền thờ thần là “Bạch Mã Linh từ” (đền thiêng ngựa trắng).
Đền Bạch Mã được tu bổ lớn vào năm cuối thế kỷ 17, đến năm 1839 lại được tu bổ thêm.
Trong đền còn bức hoành phi ghi bốn chữ: ''Đông trấn Chính từ'' (Đền chính trấn giữ phía Đông).
Kiến trúc đền còn lưu lại hiện nay chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ 19), nhưng được sắp xếp lại, bổ sung thêm điện thờ Phật và Mẫu.
Đền có diện tích khoảng 500m2, quay theo hướng Nam, gồm có Tam quan (Nghi môn), Phương đình, Đại bái, Thiêu hương, Điện thờ (cung cấm) và nhà Hội đồng ở phía sau.
Tam quan có mặt bằng hình chữ nhật, 5 gian. Gian giữa mở lối vào đền bằng cánh cửa gỗ lớn. Phía sau Tam quan là Phương đình.
Phương đình có mặt bằng hình vuông mới được xây dựng năm 1839, mang đậm phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Bộ khung nhà được làm bằng gỗ gồm bốn cột kê trên chân đá hình lục giác tạo thành hai bộ vì với những con nghê trên xà ngang, những lồng đèn hình hoa sen trên đầu bốn xà nách.
Kiến trúc lớn nhất trong đình là nhà Đại bái gồm 5 gian rộng lòng/ Đỡ mái là bộ khung nhà được làm toàn bằng gỗ với hệ thống nhiều cột kích thước lớn, kê trên những tảng đá hình tròn. Các bộ vì kèo được kết cấu theo lối “chồng rường, giá chiêng”. Trên các cốn, xà nách, các vì chồng rường được trang trí mây, lửa, hoa lá.
Nối Phương đình, Đại bái với Thiêu hương là một vòm “vỏ cua” hình bán nguyệt trang trí hoa lá tạo cho toàn bộ không gian đền trở thành một kiến trúc khép kín, nhờ đó mà mặt bằng nội thất trở nên rộng rãi, không bị ảnh hưởng bởi thời tiết mưa nắng.
Thiêu hương và Điện thờ có kiến trúc tương đối giống nhau. Phần mái làm thành hai tầng, tầng trên hai mái, tầng dưới bốn mái có các góc đao cong. Bộ khung nhà được dựng bởi hệ thống cột gỗ lớn, các bộ vì đỡ mái được làm kiểu “chồng rường, giá chiêng” và các xà thượng, hạ chạy ngang dọc khắp 5 gian nhà.
Trong Điện thờ có một sàn gỗ cao, ván bưng ba mặt để làm nơi tọa lạc của thần Bạch Mã.
Đền Bạch Mã hiện còn lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị như: bia đá, sắc phong, kiệu thờ, hạc thờ, đôi phỗng. Cùng với các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, di tích đền Bạch Mã là một nguồn tư liệu quý để nghiên cứu, tìm hiểu Thăng Long Hà Nội về nhiều mặt.
Có hơn một nghìn năm lịch sử, Đền Bạch Mã, trấn Đông của kinh thành Thăng Long là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thủ đô Hà Nội, được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc Gia năm 1986.

Phối cảnh tổng thể đền Bạch Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Tam quan đền Bạch Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Tòa Phương đình, đền Bạch Mã, Hà Nội

Nội thất tòa Đại Bái, đền Bạch Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Nội thất gian Thiêu hương và Hậu cung, đền Bạch Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội

Ngựa thờ trong đền Bạch Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Đền Linh Lang Đại vương- Đền Voi Phục
Đền Voi Phục (Voi Phuc Temple, Hanoi) được lập từ thời Lý Thái Tông (hoàng đề thứ 2 triều Lý, trị vì năm 1028-1054) ở góc phía Tây Nam thành Thăng Long cũ, thuộc địa phận làng Thủ Lệ nay là công viên Thủ Lệ, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội.
Đền thờ hoàng tử Linh Lang, con vua Lý Thái Tông, nhưng tương truyền vốn là con của Long Quân, tên gọi là Hoàng Châu, thác sinh, là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống, và đã hi sinh trên phòng tuyến sông Cầu vào năm 1076. Sau khi mất, được người dân Thủ lệ lập đền thờ và được nhà vua sắc phong là Linh Lang Đại vương Thượng đẳng Phúc thần. Thần đã nhiều lần âm phù trợ giúp nhà Trần trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông và nhà Lê trong cuộc phục hưng. Vì trước cửa đền có đắp 2 con voi quỳ gối nên quen gọi là đền Voi Phục.
Do đền nằm tại phía Tây kinh thành nên còn gọi Trấn Tây.
Năm 1947, đền xưa bị giặc Pháp phá huỷ. Ngôi đền hiện nay mới được phục dựng lại.
Đền Linh Lang tọa lạc trên một gò đất bằng phẳng và rộng rãi.
Từ bên ngoài vào qua Cổng ngoài với 3 lối vào, 4 trụ cổng, hai trụ giữa cao và trụ hai bên thấp. Giữa các trụ là mái mang tính trang trí.
Cổng giữa chỉ có 1 lối vào với 2 trụ cổng. Hai bên trụ là hai tòa nhà nhỏ, bên trong là hai tượng voi.
Qua một con đường lát gạch rộng với nhiều cây cổ thụ hai bên dẫn đến Tam quan vào đền.
Tam quan có có gian giữa rộng, gian hai bên hẹp, kiểu tường hồi bít đốc, 2 mái. Tam quan đặt trên một bệ nền với 3 bậc.
Các cổng vào đền quay hướng Đông Nam. Chính điện quay về hướng Đông, phía hồ Thủ Lệ.
Đền Voi Phục có dạng theo kiểu “nội công ngoại quốc”.
Tòa Tiền tế 5 gian, kiểu tường hồi bít đốc, 2 mái, kết cấu “chồng rường”. Bên tả đặt trống đại, bên hữu treo chuông đồng. Hai đầu hiên có xây áp vào hai mái nhỏ che cặp ngựa tế hồng và bạch. Phía trước của tòa Tiền tề là một giếng bán nguyệt mang ý nghĩa tụ thủy tụ phúc.
Trung đường hay tòa Thiêu Hương 1 gian chạy dọc vào phía trong nối với Điện thờ. Công trình có cửa mở 4 phía thoáng. Bên trong bày long ngai, bài vị thần.
Điện thờ 5 gian, gian chính giữa ở vị trí sâu và cao nhất đặt tượng đức Linh Lang Đại vương. Phía trước pho tượng là một hòn đá lớn có vết lõm, tương truyền thần đã từng gối đầu trên hòn đá này. Hai bên hòn đá là tượng 2 vị phụ tá đứng chầu. Trong đền, ngoài các pho tượng còn có hoành phi, câu đối, nhang án, long ngai, cửa võng bát bửu cùng các đồ tế khí...đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy.
3 phía của đền là các tòa nhà Tả vu, Hữu vu và Hậu cung.
Sân đền có 9 cây muỗm đại cổ thụ có tuổi khoảng 700 năm, cùng với thời gian xây dựng đền.
Đền Voi Phục, trấn Tây của kinh thành Thăng Long là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thủ đô Hà Nội, được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1962.

Cổng phía ngoài, đền Voi Phục, Ba Đình, Hà Nội

Cổng phía trong, đền Voi Phục, Ba Đình, Hà Nội; Hai bên cổng là tượng voi phục

Tượng voi phục bên trái cổng đền Voi Phục, Ba Đình, Hà Nội

Cổng Tam quan nội đền Voi Phục, Ba Đình, Hà Nội

Tòa Tiền tế đền Voi Phục, Ba Đình, Hà Nội

Giếng bán nguyệt trước tòa Tiền tế, đền Voi Phục, Ba Đình, Hà Nội

Tòa Thiêu hương nối tòa Tiền tế với Hậu cung, đền Voi Phục, Ba Đình, Hà Nội

Ban thờ Linh Lang Đại vương bền trong Hậu cung, đền Voi Phục, Ba Đình, Hà Nội
Đền Cao Sơn Đại vương - Đền Kim Liên
Đền Kim Liên (Kim Lien Temple, Hanoi) thuộc làng Kim Liên cũ, nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16-17.
Đền Kim Liên được xây dựng trên một gò đất cao ở phía Đông đầm Kim Liên, vốn được lập nên để thờ Cao Sơn Đại Vương (theo tín ngưỡng dân gian, thì đây là một người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ). Khi vua Lê Tương Dực (hoàng đế thứ 9 triều Lê nước Đại Việt, trị vì từ năm 1509- 1516) cầm quân dẹp loạn, khôi phục cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ (hoàng đế khởi lập triều Lê nước Đại Việt, trị vì từ năm 1428 - 1433), có ba vị đại thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt. Đến địa phận huyện Phụng Hoá (nay là Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì thấy cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ "Cao Sơn Đại vương". Rất lấy làm lạ, vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mười ngày đã thành công. Vì thế, vua Lê Tương Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn ở Phụng Hóa. Sau nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn, nên năm 1509, vua cho xây dựng lại đền thờ to đẹp hơn ở làng Kim Liên, gần Thăng Long thời bấy giờ.
Sau này, dân làng Kim Liên đã lập thêm cổng tam quan ở phía trước đền, ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiên trúc mới, tạo thành đình Kim Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình này còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu và thờ Thánh Hồ Chí Minh.
Cổng đình và cửa chính điện đều hướng về phía Tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này ngày nay không còn).
Phía trước đền là một cổng tam quan và một hồ bán nguyệt. Sau cổng tam quan là một sân rộng phía trước quần thể đền, đình.
Đền, đình gồm Nghi môn, Đại bái và Điện thờ hay Hậu cung.
Tòa Nghi môn xây trên một gò cao với 9 bậc đá, là một nếp nhà 3 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Bốn bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu “chồng rường giá chiêng”. Trên các bộ phận kiến trúc các họa tiết trang trí được thể hiện sinh động mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Tòa Đại bái gồm 5 gian, mới được tôn tạo với kiểu dáng kiến trúc truyền thống.
Tòa Điện thờ là một nếp nhà 3 gian dọc, xây gạch trần mái lợp ngói. Gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương.
Di vật quan trọng nhất tại đình Kim Liên là tấm bia đá "Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh" dựng năm 1510, cao 2,34m, rộng 1,57m, dày 0,22m, kể về công lao của thần Cao Sơn trong việc ngầm giúp vua Lê dẹp loạn và 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương.
Đền Cao Sơn Đại vương - Đền Kim Liên, trấn Nam của kinh thành Thăng Long, được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1990.

Tam quan ngoài, đền Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

Sân trong phía trước tóa Nghi môn, đền Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

Tòa Nghi môn, đền Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

Bia đá trong hốc cây mang tên "Cao Sơn Đại vương Thần từ Bi minh", đền Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

Mặt trước tòa Đại bái, đền Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

Nội thất tòa Đại Bái, đền Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

Ban thờ tại Hậu cung, đền Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội

Ban thờ Hồ Chí Minh trong đền Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội
Đền Huyền Thiên Trấn Vũ- Đền Quán Thánh
Đền Quán Thánh (Quan Thanh Temple, Hanoi) tên chữ là Trấn Vũ quán thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, nằm bên cạnh Hồ Tây, thuộc phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Đền được xây dựng vào đầu thời nhà Lý. Tương truyền, Lý Thái Tổ (vị hoàng đế sáng lập nhà Lý, trị vì năm 1009 -1028) sau khi dời đô ra Thăng Long, đã đến núi Sái (ngọn núi lớn nhất trong bảy ngọn núi thiêng Thất Diệu Sơn ở thôn Thụy Lôi, xã Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội) cầu Huyền Thiên (ông thánh đã giúp An Dương Vương trừ ma trong khi xây dựng thành Cổ Loa) và sinh được hoàng tử. Thấy công đức của Huyền Thiên rất to lớn, nhà vua đã cho xây đền Trấn Vũ (tức đền Quán Thánh) ở phía Bắc kinh thành, xin rước hiệu duệ Huyền Thiên về ở đó để thờ.
Đền Quán Thánh từng trải qua nhiều đợt trùng tu. Đợt trùng tu năm 1677, đời vua Lê Hy Tông (vị vua thứ 21 của nhà Hậu Lê, trị vì năm 1675 – 1705), thì đúc tượng Huyền Thiên Trấn Vũ bằng đồng hun, thay cho pho tượng bằng gỗ trước đó. Năm 1794, đời vua Quang Toản (vị hoàng đế thứ 2 của nhà Tây Sơn, trị vì năm 1792 – 1802), Đô đốc Tây Sơn là Lê Văn Ngữ cho đúc chiếc khánh đồng lớn. Năm 1842, vua Thiệu Trị (hoàng đế thứ 3 của nhà Nguyễn, trị vì 1841- 1847) đến thăm đền và ban tiền đúc vòng vàng đeo cho tượng Trấn Vũ.
Đền gồm Tam quan, sân, điện thờ gồm nhà Tiền tế (Tiền đường) và Hậu cung (Điện thờ).
Tam quan đền Quán Thánh cao 2 tầng.
Nhà Tiền tế có khám thờ và án thư cùng tượng thờ nghệ nhân đúc tượng Trấn Vũ, ông Trùm Trọng. Trên các bộ phận kiến trúc bằng gỗ của ngôi đền các đề tài như tứ linh, dơi, cá, tùng, trúc, cúc, mai, lẵng hoa, bầu rượu, thanh gươm, cảnh sinh hoạt của trần gian và thượng giới... được chạm khắc một cách tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê.
Tòa Hậu cung là nơi đặt tượng Trấn Vũ có 4 lớp mái. Chính giữa là bức hoành phi đề "Trấn Vũ Quán". Hai tường hồi có khắc các bài thơ ca ngợi ngôi đền và pho tượng Trấn Vũ.
Pho tượng thần Huyền Thiên Trấn Vũ cao 3,96m, chu vi 8m, nặng 4 tấn tọa trên tảng đá cẩm thạch cao 1,2m. Tượng có khuôn mặt vuông chữ điền nghiêm nghị nhưng bình thản, hiền hậu với đôi mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã, không đội mũ, mặc áo đạo sĩ ngồi trên bục đá với hai bàn chân để trần. Bàn tay trái của tượng đưa lên ngang ngực bắt ấn thuyết pháp, bàn tay phải úp lên đốc kiếm, kiếm chống trên lưng rùa nằm giữa hai bàn chân. Quanh lưỡi kiếm có con rắn quấn từ dưới lên trên. Rùa, rắn và kiếm là biểu trưng của Huyền Thiên Trấn Vũ.
Pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và tài nghệ của các nghệ nhân Việt Nam cách đây 3 thế kỷ.
Hai bên và phía sau Hậu cung hay Điện thờ là các tòa nhà có chức năng phụ trợ.
Đền Quán Thánh, trấn Bắc của kinh thành Thăng Long, được công nhận di tích lịch sử-văn hóa cấp Quốc gia năm 1962.

Sơ đồ mặt bằng đền Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội

Tam quan đền Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội

Nhà Tiền tế, đền Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội

Bên trong tòa Tiền tế, đền Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội

Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ, đền Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội

Văn bia trong sân đền Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội
Thăng Long Tứ trấn: Đền Bạch Mã; Đền Voi Phục; Đền Kim Liên; Đền Quán Thánh, Hà Nội, không những là một trong những cụm di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thủ đô Hà Nội, mà còn là một trong những cụm công trình Thần Đạo đặc sắc của kinh thành Thăng Long.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_B%E1%BA%A1ch_M%C3%A3
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_Voi_Ph%E1%BB%A5c
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%ACnh_Kim_Li%C3%AAn
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_Qu%C3%A1n_Th%C3%A1nh
https://www.orientalarchitecture.com/sid/704/vietnam/hanoi/bach-ma-temple
- Xem video giới thiệu "Thăng Long tứ trấn" tại đây.
- Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
- Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
- Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|
Cập nhật ( 22/03/2020 )
|
Tin mới đưa:- Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
- Quần thể Takht-e Soleyman, Western Azerbaijan, Iran
- Các thị trấn Baroque muộn tại Val di Noto, Sicily, Ý
- Samarkand – Ngã tư văn hóa, Uzbekistan
- Hang động Vân Cương, Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc
- Công trình Villa d'Este, Tivoli, Rome, Ý
- Cột Chúa Ba Ngôi ở Olomouc, Czech
- Thung lũng Loire giữa Sully-sur-Loire và Chalonnes, Pháp
- Quần thể Tu viện Ferapontov, Vologda, Nga
- Nhà thờ St James ở Šibenik, Croatia
- Mỏ đá lửa Thời kỳ Đồ đá mới ở Spiennes, Mons, Bỉ
- Lăng mộ Hoàng gia của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, Trung Quốc
- Hang động Long Môn, Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc
- Vương cung thánh đường San Francesco và địa điểm khác của Dòng Phanxicô tại Assisi, Ý
- Công trình Villa Adriana, Tivoli, Rome, Ý
Tin đã đưa:- Đền Huyền Thiên Trấn Vũ - Đền Sái, Thuỵ Lâm, Đông Anh, Hà Nội
- Phủ Quảng Cung, Ý Yên, Nam Định, Việt Nam
- Đền thờ Chử Đồng Tử - Đền Dạ Trạch và đền Đa Hòa, Khoái Châu, Hưng Yên
- Đền Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội
- Đền Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì, Hà Nội
- Khu phố cổ Hà Nội
- Đền Ghênh, Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên, Việt Nam
- Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Đống Đa, Hà Nội
- Di tích Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, Việt Nam
- Lăng đá cổ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang
- Công trình Casa de Luis Barragan, Mexico – KTS Luis Barragan
- Chùa Hương, Mỹ Đức, Hà Nội
- Chùa Trăm Gian, Chương Mỹ, Hà Nội
- Chùa Côn Sơn tại Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương
- Chùa Liên Phái, Bạch Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội
|