Tuần 14 - Ngày 06/11/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
NCKH khác
Nhà ở công nhân trong bối cảnh đô thị hóa đang dẫn trước công nghiệp hóa ở VN
12/02/2019
 

Ở Việt Nam, vấn đề “nóng” nhất hiện nay là đô thị hoá rộng khắp trên mọi vùng lãnh thổ. Đô thị hóa nhanh chóng góp phần không nhỏ để thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội, đồng thời cũng để lại hậu quả nặng nề, do càng phát triển đô thị càng bộc lộ các yếu kém gây tác hại lâu dài.                                                                          

MỞ ĐẦU

Ở Việt Nam, vấn đề “nóng” nhất hiện nay là đô thị hoá rộng khắp trên mọi vùng lãnh thổ. Đô thị hóa nhanh chóng góp phần không nhỏ để thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội, đồng thời cũng để lại hậu quả nặng nề, do càng phát triển đô thị càng bộc lộ các yếu kém gây tác hại lâu dài. Các căn bệnh đô thị như: Kiến trúc lộn xộn, giao thông tắc nghẽn, ô nhiễm môi trường, dự án đô thị- phòng ngủ thiếu vắng việc làm và dịch vụ đời sống thiết yếu… Nhà ở công nhân trong các khu công nghiệp tập trung và phân tán cũng đang trở thành một vấn đề nan giải. Xem xét một cách sâu xa, chúng ta đang thiếu một hoạch định tổng thể được nghiên cứu hệ thống, liên ngành giữa công nghiệp hóa với đô thị hóa, giữa đô thị hóa với con người cụ thể có nhu cầu sử dụng đô thị phù hợp với việc làm và đời sống và văn hóa rất đa dạng trong phát triển.

Số liệu đô thị hóa ở VN, tính đến tháng 11/2018 tỷ lệ đô thị hóa đã đạt 38,3% dân số với 819 đô thị và 74 000 điểm dân cư (Cục phát triển đô thị). Tốc độ tăng trưởng đô thị vẫn ngày ngày một tăng khi đang có tới 1000 khu đô thị mới có qui mô hơn 20ha, tổng diện tích lên tới 102000ha. Chưa kể hàng chục ngàn dự án qui mô nhỏ hơn đang tiến hành xây dựng, trải khắp các đô thị toàn quốc. Con số đô thị lớn như vậy có liên quan gì đến hơn 220 khu công nghiệp tập trung và hàng chục ngàn khu công nghiệp ở qui mô vừa và nhỏ, đang hầu hết thiếu quĩ nhà ở cho công nhân làm việc? Và liệu dòng “đô thị công nghiệp” có ra đời song hành với khu công nghiệp lớn để tạo bộ mặt đô thị đặc thù  trong giai đoạn công nghiệp hóa đang chuyển đổi phần lớn lực lượng lao động trẻ ở nông thôn VN ( đang chiếm đến 2/3 tổng số lao động toàn quốc) trong tương lai gần. 

NHẬN DẠNG HIỆN TRẠNG ĐÔ THỊ HÓA Ở VN

Trong khoảng 10 năm gần đây, nhiều nghiên cứu quốc tế và trong nước đã lên tiếng cảnh báo về sự bùng nổ dân số đô thị và hiện tượng đô thị hóa không bình thường ở Việt Nam, càng đặc biệt khi vấn đề này lan rộng ở quy mô toàn quốc, kể cả vùng sâu vùng xa, có thể trở thành vấn nạn ở tầm mức quốc gia nếu không quan tâm đúng mức. Trào lưu đô thị hoá kiểu này không dễ gì kiểm soát và cần phân tích từ góc độ đáp ứng quĩ nhà ở cho công nhân – một bộ phận không nhỏ của đô thị hóa.               

Đô thị hoá là hệ quả tự nhiên của công nghiệp hoá ở phương Tây.

W.Curtis, một nhà nghiên cứu nổi tiếng về kiến trúc hiện đại thế kỷ 20 đã khẳng định “Quy luật của sự chuyển hoá thời kỳ hiện đại cho thấy đô thị là sản phẩm tất yếu của quá trình công nghiệp hoá. Nước Anh trước khi phát triển những thành phố hiện đại đầu tiên có 80 năm công nghiệp hoá, nước Mỹ là 50 năm và các con rồng châu Á là 30 năm”.

Như vậy gần 150 năm trước trào lưu đô thị hoá bắt đầu ở phương Tây lan sang Mỹ những năm cuối thế kỷ 19 và châu Á là những thập niên 60, 70 thế kỷ 20 đều là hệ quả tự nhiên của quá trình hiện đại hoá đất nước thông qua cuộc Cách mạng Công nghiệp. Trước đó nữa, sự chuyển biến các chức năng đô thị thời kỳ giao lưu hàng hoá, tiền tệ đã xuất hiện hàng loạt nhà ga mới, hệ thống hạ tầng giao thông, điện nước, các phương thức xây dựng mới và vật liệu bê tông, sắt, thép với các chủ đầu tư mới, làm thay đổi bộ mặt của đô thị, kiến trúc thế giới. Chỉ trong thế kỷ 20 các nước phát triển đã chuyển gần như 80, 90% dân số cư trú từ nông thôn sang cư trú ở đô thị, đưa số người sống trong đô thị hiện nay lên 50% dân số của trái đất (khoảng hơn 3 tỷ người chỉ trong một thế kỷ). Trong trào lưu đô thị hoá, không có điểm khởi đầu rõ ràng nhưng chính cuộc Cách mạng Công nghiệp đã chuyển hoá cả thành thị và nông thôn một cách sâu sắc và toàn diện. Khác với chúng ta, các nước phát triển có cả hàng trăm năm để xây dựng nếp sống, văn minh đô thị. Họ có đô thị với những cư dân đã quen đi làm theo thời gian biểu của nhà máy, công xưởng và đi lại bằng các phương tiện công cộng. Họ dần quen với các chức năng chung của đô thị và coi trọng các giá trị công ích của đô thị - vốn rất nhiều thành phần cho công cộng. Họ có văn hoá đô thị hình thành trong nhiều thế hệ.

Chính thời điểm công nghiệp hóa gần như phủ khắp Âu-Mỹ đầu thế kỷ 20, Le Corbusier đã đưa ra chủ thuyết công năng cho đô thị và đại chúng hóa nhà ở chung cư tập thể cho giới bình dân và công nhân. Mở đầu là việc xây dựng khu nhà ở chung cư Cité Radieuse, Marseille.  Sau thế chiến II, trước thách thức dân số thành thị trong đó lực lượng lao động công nghiệp  tăng nhanh, và cần cải thiện điều kiện sống, vệ sinh cho các khu nhà tập thể, Le Corbusier là người đã thành công trong việc xây dựng ba triệu căn hộ trong vỏn vẹn ba thập niên, với một tiêu chí: tạo không gian xã hội hài hòa, tiện nghi và bình đẳng cho tất cả mọi thành phần công dân, bằng cuộc cách mạng kiến trúc trong những khu nhà tập thể. Le Corbusier đã đưa ra phương thức xây dựng kiểu công nghiệp hóa các khu ở tập thể với năm nguyên tắc của chủ nghĩa công năng, Đặc biệt, với lý thuyết “thành phố trong thành phố”, các thiết kế khu nhà tập thể có đầy đủ chức năng công cộng, như một thành phố thu nhỏ. 

Sự đảo ngược - Việt Nam, đô thị hoá xảy ra nhiều năm trước công nghiệp hoá.

Ít ai nhận ra rằng ở Việt Nam quá trình đô thị hoá xảy ra nhiều năm trước quá trình công nghiệp hoá, khiến cho các mô hình và tư duy đô thị gặp sự khủng hoảng lớn. Chưa kịp phân tích nguyên nhân do đâu dẫn tới hiện tượng này (có thể do sức ép nhà ở, sau chiến tranh và giá quá hời do đầu cơ  nhà đất chăng?) nhưng ai cũng nhận thấy các đô thị Việt Nam càng phát triển càng bộc lộ các yếu kém gây tác hại lâu dài. Các căn bệnh đô thị như hạ tầng không theo kịp phát triển đô thị mới, giao thông tắc ngẽn, lũ lụt trên diện rộng, chất thải sinh hoạt khó chôn lấp, di dân tự do, an ninh xã hội…ngày càng trầm kha. Công tác hoạch định đô thị chưa bao giờ là đối tượng quan tâm hàng đầu của quốc gia. Kéo theo là hệ lụy thiếu nhà ở xã hội, ngay cả các khu công nghiệp tập trung cũng có vấn đề lớn với nhà ở cho công nhân của mình.

 Sự lệch pha lớn không giống ai này tạo hậu quả gì? Ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh và Hà Nội có tới hàng chục vạn người (nếu không nói là cả gần triệu người, riêng Bình dương tới cả gần nửa triệu) dân nhập cư, lao động tay nghề thấp trong công nghiệp và dịch vụ. Họ  sống chen chúc trong các khu trọ tối tăm, không được thoả mãn nhu cầu tối thiểu của họ và gia đình về nhà ở, việc làm, chưa nói đến các nhu cầu dịch vụ giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nước sạch và hạ tầng kỹ thuật…Điều này càng trở nên nan giải khi dòng người nhập cư không chính thức từ nông thôn ra thành phố và các khu công nghiệp càng tăng trong diễn biến đô thị hoá toàn diện hiện nay ở Việt Nam.

 Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu người nhập cư vào các thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh dân số là 7.109.251 người thì dân nhập cư chiếm 28,9 %, chưa kể số người nhập cư không chính thức. Còn theo TS. W. Frenner - Trưởng đại diện Viện Konrad – Adenouer tại Việt Nam “Đến 2020 dân số Việt Nam sẽ tăng khoảng gần 100 triệu và đến 2030 có 70% tức là 70 triệu người sẽ làm việc tại các khu vực công nghiệp và dịch vụ. Họ sẽ cư trú và làm việc tại đâu, phân bố trong mạng lưới đô thị nào hay sẽ chảy vào các thành phố và khu công nghiệp ?  Đây thật sự là thách thức lớn của thời đại. 

NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA NHÀ Ở CÔNG NHÂN  

Hiện trạng khó kiểm soát

Không chỉ ở Việt Nam, các quốc gia phát triển trên thế giới trong nhiều giai đoạn đều có các gói hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội, trong đó có nhà ở công nhân, những người mới rời bỏ làng quê lên làm việc tại các nhà máy, khu công nghiệp. Kinh nghiệm cho thấy, các gói hỗ trợ chính phủ thường chủ yếu để kích thích và giải quyết các phân khúc thị trường “nóng” này do đối tượng quá thiếu nhà ở và không có giúp đỡ cộng đồng.

Các chiến lược định cư quốc gia hiện nay đều chú trọng tính toán sự cân bằng của 6 yếu tố cơ bản sau trong xây dựng các khu ở mới, đặc biệt các khu vực mà đại đa số người lao động muốn tiếp cận: 1, Tích tụ nhiều việc làm như xây các khu công nghiệp và đô thị trong tương lai;  2, Giao thông đi lại giữa khu vực ở và làm việc; 3, Đủ nguồn nước sạch và thoát được nước thải; 4, Cung ứng năng lượng với tỷ trọng năng lượng rẻ và tái tạo cao; 5, Có chuỗi cung cấp thực phẩm tiện lợi và an toàn; 6, Xây dựng nhiều mô hình nhà ở đa dạng ( Là đối tượng của nhà ở xã hội hướng đến). Hoạch định này thường nghiên cứu nhiều năm trước khi tiến hành quy hoạch khu công nghiệp và đô thị mới.

Các dự án nhà ở công nhân hiện nay chủ yếu chủ đầu tư sử dụng các diện tích đất nông nghiệp hoặc có sẵn ở làng xã gần kề khu công nghiệp, hay phó mặc cho người dân xung quanh xây nhà trọ cho thuê. Các dạng này hầu như chưa trả lời câu hỏi: Cư dân sẽ làm việc ở đâu, đi lại bằng gì? Quĩ thời gian và các vấn đề xã hội được giải đáp trong tổ chức ở ?. Nghịch lý hiện nay ai cũng nhận rõ khi các dự án loại này nằm dàn trải ở các khu vực ngoại vi rất xa nơi làm việc  và các tiện ích công cộng đời sống. Một thế hệ công nhân sẽ sớm thành hai ba thế hệ trong vài chục năm và thành các vấn đề xã hội nan giải.

Lựa chọn địa điểm nhà ở công nhân thế nào để khỏi bị động, chỉ tính lợi ích  trước mắt, nhưng lâu dài người công nhân thu nhập thấp sẽ lựa chọn các khu nhà trọ giá rẻ do dân tự xây để thuê, mua trong khu đô thị công nghiệp, hay các nhà ở nhỏ lẻ cạnh việc làm. Hậu quả cóa thể là các khu ở tự phát to nhỏ lại mọc tràn lan khắp nơi như hiện nay. Đôi khi đến các khu công nghiệp tập trung, lổn nhổn những con phố tự xây bao quanh xây loại nhà ở kiêm cả nơi làm việc, bán hàng tạp hóa, quán cơm, quán nước, kiếm sống dịch vụ lẫn nhau.  

 An cư với cả gia đình là yếu tố hàng đầu để lựa chọn địa điểm cho nhà ở giá thấp.

Nhà ở giá thấp cho người công nhân cũng là một vấn đề rất phức tạp. Địa điểm xây dựng có vai trò quyết định tới hiệu quả của các dự án đầu tư xây dựng. Với các người thu nhập thấp, chi phí và thời gian đi lại được tính toán hàng đầu. Thay vì ở xa, họ có thể chọn ngay việc thuê lại các diện tích ở chật hẹp nhưng có sẵn trong đô thị, gần nơi làm việc như Định Công, Tứ Liên, Thanh Trì, Hà Đông, Vĩnh Tuy, Gia Lâm. Các khu ở này nếu ai khảo sát sẽ thấy gần với kiểu ổ chuột bám vào dịch vụ, khu công nghiệp, làng xã cũ. Nhà ở chưa bao giờ theo tiêu chuẩn mà chỉ để chui rúc. Mỗi người sư dụng riêng hay chia nhau căn hộ với chi phí thuê chỗ ở chỉ khoảng 300 – 400.000 đồng/1 người/1 tháng, dùng xe đạp, xe máy đến nơi làm việc. Với thu nhập tổng cộng cả tháng khoảng từ 3-4triệu đồng, hầu hết người dân lao động hiện nay hầu như không đủ thời gian và chi phí đi lại do làm nhiều giờ hơn nếu từ các nơi xa như Bắc An Khánh, Quốc oai, Vành đai 4…

Cần hiểu và xác định rõ hiện nay về hiện trạng nhu cầu thực tế về nhà ở của  bộ phận số đông người công nhân ra sao. Về cơ bản đây là lực lượng lao động từ di cư ra  kiếm sống hay làm việc theo thời vụ và những thành phần mới đi làm, chiếm khoảng 20-30% dân số đô thị. Theo nghiên cứu của Anh và Pháp thời kỳ công nghiệp hóa đầu thế kỷ 20, họ lại là những cư dân đóng góp lớn nhất để giảm sự đắt đỏ và đưa đến tiện ích của dịch vụ đời sống hàng ngày trong đô thị. Trong quá trình tích tụ  công nghiệp và đô thị, luôn song hành hai hình thức kinh tế: Kinh tế chính thức và phi chính thức. Trong đó kinh tế phi chính thức bao gồm các lực lượng lao động tự do, lao động nhập cư, buôn bán vỉa hè – có thể phần lớn họ đi theo lao động công nghiệp chính…Sở dĩ được định danh là phi chính thức bởi đây là các hoạt động kinh tế nhỏ, rất khó thống kê về thuế, bảo hiểm, bởi mang nhiều tính thời vụ, tự phát và chủ yếu nằm trong “bóng tối”. Do đó vấn đề nhà ở của nhóm cư dân thuộc thành phần kinh tế công nghiệp cần được tính cho việc họ có gia đình chứ không thể tính theo đầu lao động để xây nhà ở. Đây là một vấn đề nhạy cảm và là thước đo tính nhân văn của một xã hội. 

Từ đó có định hướng rõ ràng trong việc quy hoạch mới hoặc cải tạo xen cấy nhà ở công nhân, nhà ở giá thấp, đồng thời đảm bảo việc chỉnh trang các khu nhà trọ cho thuê . Việc đề xuất các địa điểm xây dựng, mô hình ở, loại căn hộ, chính sách hỗ trợ, tín dụng nhà ở, tiết kiệm nhà ở...phải tính trong  bài toán chung cho phù hợp. Hiện tại, quá trình thực hiện phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân vẫn chưa thực hiện đồng bộ 2 yếu tố căn bản là khảo sát xã hội học của người sử dụng và xác lập không gian cư trú và việc làm bền vững cho các khu công nghiệp hay khu đô thị công nghiệp. Làm tốt các yếu tố này sẽ tạo nên sức hấp dẫn tự nhiên cho công nhân-người mua, thuê nhà tụ họp sinh sống trong các khu vực có qui hoạch và phát triển đồng bộ như dang đô thị công nghiệp thời công nghiệp hóa. Có như vậy, quá trình phát triển nhà ở công nhân và nhà ở giá thấp mới đúng đối tượng và bền vững.  

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NHÀ Ở XÃ HỘI HAY NHÀ Ở GIÁ THẤP CHO CÔNG NHÂN HOẶC NHỮNG NGƯỜI MỚI GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG CÔNG NGHIÊP, DỊCH VỤ  

Singapore có thể coi là một bài học thực tiễn thành công cho phát triển đô thị từ thập niên 60 của thế kỷ 20 đến bây giờ. Giai đoạn đầu tiên, chính phủ cho xây các khu đô thị ven trung tâm cũ để giải tỏa tái thiết lại trung tâm. Giai đoạn hai: xây dựng các loại hình tăng việc làm trong đô thị: Ưu tiên bố trí thêm các xưởng lắp ráp điện tử quy mô vừa và nhỏ trong các nhà cao tầng xây xen lẫn trong các khu ở. Khi cư dân quần tụ đông đúc, dựa trên các quy hoạch mở rộng từ ban đầu, chính quyền một lần nữa đầu tư xây dựng mở rộng các khu công viên khoa học – Scien park ( Dịch vụ nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao và thí nghiệm...), Khu Đại học quốc gia, trung tâm dịch vụ đường biển, công viên quốc gia, khu sản xuất rau sạch.... tạo ra chỗ làm cho chính cư dân nơi đó, tiết kiệm và giãn được mật độ giao thông đi lại vào trung tâm đô thị. Giai đoạn 3: Chính cách làm tự cung tự cấp tại chỗ về nơi ở và việc làm đã hấp dẫn dân cư ra ở vòng ngoài đô thị, tạo ra cơ hội để tái thiết khu trung tâm thành các khu CBD siêu cao tầng cho dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, hội thảo, hội nghị quốc tế. Không gian trung tâm được tổ chức cho kinh tế trí thức và là bộ mặt cua quốc gia. Người dân quốc đảo cứ có việc làm là được mua nhà trả góp nên tài chính cho nhà ở luôn dồi dào và nhiều hình thức tín dụng cùng tồn tại. Quĩ nhà ở cho thuê của hệ thống an sinh đô thị dần dần trở thành quĩ nhà cho thuê lớn nhất  trong các loại hình nhà ở.  Đây cũng là lý do họ luôn có tiền để đổi mới đô thị và tăng chất lượng tiện nghi cho nhà ở.

Đây chính là cách làm phát triển thành công nhà ở xã hội bằng cách gắn việc làm với các khu ở tạo ra cơ hội phát triển kinh tế, tích lúy tài chính nhà ở dồi dào cho người dân trong tương lại.  

Một số kinh nghiệm có thể sử dụng ở VN giai đoạn này:  

Xây xen cấy nhà cao tầng tại nội đô cạnh các khu nhiều việc làm: Có thể ưu tiên áp dụng cải tạo các khu vực thấp tầng, lô đất diện tích quá nhỏ trong nội đô, kết hợp với kết quả khảo sát xã hội học, tiến hành đầu tư theo hướng xây chen, xen cấy các khu nhà ở cao tầng giá thấp vào khu trung tâm nhiều việc làm hiện hữu. Quá trình này có thể thực hiện kết hợp với công cụ điều chỉnh đất đai (Land readjustment), cải tạo các diện tích nhà ở nhỏ theo dạng phân bổ lại đất đai theo kiểu hiện đại hóa các chung cư hiện nay. Xây nhà cao tầng để tái định cư tại chỗ, còn lại cho người thu nhập thấp thuê, mua. Đây cũng là cách để cải tạo kiến trúc và cảnh quan cho đô thị  có chất lượng sống tốt, dẹp bỏ các khu ổ chuột đang tồn tại hiện nay.  

Xây dựng nhà ở giá thấp do cộng đồng dân cư tự chịu trách nhiệm: Ở các làng xã ven đô, hoặc trong nội đô có các vị trí gần hơn, thuận lợi với việc làm thường dân tự xây nhà cho minh và nhà trọ cho thuê không đúng qui định. Nhà nước hỗ trợ cơ chế chính sách tạo dựng tín dụng và tài chính nhà ở theo hướng xã hội hóa và ban hành tiêu chuẩn nhà ở tiện nghi tối thiểu để tạo ra quỹ nhà ở do cộng đồng dân cư tự xây, sửa chữa, nâng cấp nhà ở ( Theo tín thác hoặc theo hợp tác xã tín dụng nhà ở...). Các cộng đồng dân cư tự bình chọn người được quyền mua nhà, thuê nhà. Trường hợp dự án lớn họ có quyền  định hướng xem các dự án của họ nên phát triển như thế nào. Cách làm này thực sự là công việc chỉnh trang đô thị, đồng thời cũng dễ áp dụng với quá trình phát triển nhà ở giá thấp do cộng đồng tự quản ở nước ta giai đoạn hiện nay. Bài học trợ giúp nhau xây nhà ở nông thôn VN rất đáng học hỏi để xây dựng chính sách và cơ chế. 

Quy hoạch đồng bộ giữa việc làm và nhà ở xã hội: Sau sốt đất, các dự án chuyển đổi từ thương mại sang nhà ở xã hội hiện nay như như Bắc An Khánh, Quốc Oai, Xuân Mai…hầu như đều chưa giải quyết tốt bài toán kết nối và giảm khoảng cách giữa nơi ở và chỗ làm việc, dẫn đến không có tính hấp dẫn với người sử dụng. Đặc biệt với các đối tượng thu nhập thấp vốn tối cần việc làm. Xa hơn, các khảo sát xã hội học định cư cần dự báo các nhu cầu giao thông bao gồm phát triển các tuyến giao thông kết nối nơi ở-việc làm để tăng các phương tiện công cộng cho đại bộ phận người dân. Giao thông không chỉ kết nối với trung tâm đô thị mà quan trọng hơn nó phải kết nối được các khu việc làm, trung tâm dịch vụ đời sống, công viên, trường học, bệnh viện. Với các khu nhà ở xã hội đồng bộ này, điểm mấu chốt cần tích hợp và thiết lập thành công một cộng đồng đủ để tự tạo ra sự sầm uất và thịnh vượng.

Cùng với tư duy trên, nếu được hoạch định và quy hoạch đồng bộ, các khu nhà ở xã hội ven đô xen ghép trong các dự án nhà ở thương mại có thể là một giải pháp tốt để giảm áp lực cho đô thị lõi, tạo cơ hội cải thiện cảnh quan đô thị và chất lượng sống cho người dân, đồng thời tạo nên những khu dân cư thịnh vượng.  

Xây nhà hay...nên Sản xuất nhà ở đa dạng và rẻ:

Những năm 91-93 thế kỷ 20, do biến động chính trị ở Liên xô cũ có đến 2 triệu người Do thái đến định cư tại Ixrael. Trong hai năm đất nước nhỏ bé này đã sản xuất và lắp ghép đủ chỗ ở cho trên 2 triệu người. Thật là vĩ đại. Tôi có trong tay tài liệu của quá trình công nghiệp hóa sản xuất nhà ở kiểu này, kêu gọi mãi mà chưa thấy cơ quan nào đứng ra nghiên cứu áp dụng cho VN - đang bước vào hiện đại hóa, tỉ lệ sản xuất công nghiệp và dịch vụ đang dịch chuyển đến 80% GDP, áp lực thiếu nhà ở tăng rất cao trong các thành phố mà chưa có điều tra xã hội học nhà ở trên toàn quốc để xác định trong chiến lược phát triển đô thị.  Bài toán này chỉ có thể giải đáp bằng công nghệ sản xuất nhà ở giá rẻ.

Đối với các cư dân có thu nhập trung bình và thấp, đặc biệt với nhóm cư dân thuộc thành phần công nhân lao động rất nhiều người không có nhu cầu sở hữu những căn hộ vĩnh cửu, nhưng lại rất cần những  chỗ ở có giá rẻ, tiện ích thiết yếu tối thiểu. Chính vì vậy, giải pháp các khu nhà ở giá rẻ cho thuê, mua trả góp cần lắm các công nghệ mới để “Sản xuất nhà” thay bằng  “ Xây nhà” như truyền thống. Đến nay chưa có văn bản nào công bố các qui chuẩn, tiêu chuẩn công nghệ sản xuất nhà ở VN cho các doanh nghiệp áp dụng. Chậm quá so với nhu cầu bức bách của dân cư đô thị - nguồn lực chính cho hiện đại hóa.

 Cần xây dựng nhà ở xã hội, giá thấp trên quy mô công nghiệp với các ứng dụng về thiết kế, sử dụng công nghệ lắp ghép tiền chế cho hệ khung, trần, tường, sàn; các tiêu chuẩn về diện tích cần nới lỏng theo nhu cầu, nhưng tiêu chuẩn tiện nghi phải thật cao để sáng tạo ra các căn hộ linh hoạt, thông minh hơn so với nhà ở thương mại - vốn rộng rãi. Các công nghệ về năng lượng mặt trời, gió... phải áp dụng cho các không gian công công vốn bị thiếu kinh phí chi trả do dân ở đây ít tiền: Các tiện ích như điện hàng lang, cầu thang, sảnh, thang máy, tiện ích công cộng. (Để giải bài toán này, nhà nước hỗ trợ công nghệ lắp đặt hệ thống pin năng lượng mặt trời để trợ giúp năng lượng cho cộng đồng, giảm chi phí năng lượng khi vận hành công trình). Đây cũng là một cái trào lưu mới đầu tư năng lượng tái tạo cho các công trình phục vụ cộng đồng.

Bê tông cốt thép là vật liệu phổ biến nhưng thi công toàn khối tại công trường khiến công trình có giá thành cao. Đây cũng là loại vật liệu sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, hết tuổi thọ lại gây ô nhiễm môi trường trong quá trình cải tạo và nâng cấp. Với nhà ở xã hội phân phối theo hình thức bán giá thấp hoặc bán trả góp hiện nay, chừng nào bài toán công nghiệp hóa xây dựng và xây dựng bền vững còn chưa được tính đến thì vẫn rất khó có được một giá bán hợp lý nhất cho người dùng. Các công trình nhà ở này cần được ứng dụng các công nghệ xây mới, tiên tiến hiện đại, có thời gian thi công ngắn sau thời gian sử dụng có thể được tái cải tạo bằng các loại vật liệu thay thê bê tông cốt thép và gạch xây hiện nay như thép, nhựa, composite…

Nhật Bản, New Zealand đã có nhiều phương án thay thế rất tốt kết cấu bê tông cốt thép bằng kết cấu gỗ hay thép để xây cao tầng (vách ngăn chia nhẹ, sàn thép tiền chế với lắp ghép hệ thống kỹ thuật trên trần…) và cho người dân tự xây dựng ngôi nhà của mình với giá thành hết sức hợp lý. Phương thức xây dựng vật liệu nhẹ còn giảm khoảng 60% giá thành móng nhà. Các chính sách hỗ trợ thúc đẩy việc ứng dụng và thay thế phương pháp thi công truyền thống cũng rất quan trọng. Một khi nhà nước có nghiên cứu và khống chế giá thành nhà ở xã hội ở mức độ phù hợp, các doanh nghiệp sẽ tham gia mạnh mẽ chủ động tìm và ứng dụng công nghệ. Nhưng các quốc gia tiến tiến làm việc này một cách chủ động và bài bản. Nhà nước bỏ tiền đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ, ban hành các tiêu chuẩn và cho doanh nghiệp các lộ trình để nhập công nghệ dần dần cho thị trường làm quen và hỗ trợ công nghệ trong thời gian đầu.

Chúng ta tại sao lại dậm chân tại chỗ về công nghệ sản xuất nhà, trong khi đa số người lao động khó tiếp cận nhà ở ?                                 

PGS.TS Nguyễn Hồng Thục 
Bài viết tại Hội thảo”Nơi ở CN KCN: Nhà ở, Sinh kế và Cộng đồng”, Hà Nội, 12/12/2018

 
 
Tin đã đưa:
“ Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com