Tuần 18 - Ngày 07/12/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
NCKH khác
Kiến trúc nhà ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong quá trình ĐT hoá - Thực trạng và hướng giải quyết
10/03/2009

 

I. Dẫn luận

Vùng Đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB) hay còn gọi là vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, được hình thành do phù sa bồi đắp của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Đó là một vùng đất màu mỡ, phì nhiêu, nơi chủ yếu là người Việt sinh sống tạo thành các làng, xã. Vùng ĐBBB nằm trong hình tam giác kéo dài từ đỉnh là thành phố Việt Trì đến cảng thành phố Hạ Long ở phía cực Bắc cho đến điểm cực Nam là tỉnh Ninh Bình, có 108 huyện thị với tổng diện tích là 14.816,9 km2, dân số 14708.155 người, mật độ dân cư bình quân 1.313.2 người/km2; bao gồm 10 tỉnh thành: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.


Đồng bằng Bắc Bộ là nơi có nền văn hoá lâu đời, cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Tổ chức xã hội của ĐBBB hình thành trên cơ sở làng, dòng tộc và gia đình, là cộng đồng dân cư làm nông nghiệp, quần tụ gắn bó trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử. Mối quan hệ gắn bó giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, tình cảm láng giềng thân thiện “tắt lửa, tối đèn có nhau” được hình thành từ xa xưa đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong cộng đồng nông thôn ĐBBB.

Để có cái nhìn tổng quan về văn hoá kiến trúc nhà ở nông thôn vùng ĐBBB, chúng ta cần nhìn nhận lại ý nghĩa đặc trưng làng, xã, dòng họ và tổ chức gia đình của người Việt. Làng luôn là biểu tượng tốt đẹp và chứa đựng nhiều nền văn hoá truyền thống riêng biệt của mỗi vùng địa phương. Mỗi làng đều có hương ước quy định về điều lệ của làng mà mỗi người dân đều phải tuân theo “phép vua thua lệ làng”. Làng luôn tồn tại như một cấp cơ sở xã hội sau xã, bên trong mỗi làng được chia ra các thôn xóm, làng lớn có từ 4 – 6 thôn, làng nhỏ từ 3 – 4 thôn. Các làng được bao bọc bởi các luỹ tre xanh vừa tạo dựng yếu tố cảnh quan, vừa là thành luỹ bảo vệ an ninh cho dân làng. Với việc tổ chức quy hoạch không gian đóng kín như vậy, các làng tại châu thố sông Hồng có thói quen tự cung tự cấp về lương thực, thực phẩm, sản phẩm nông nghiệp và cả về việc cưới xin, ma chay hay giỗ chạp.

Các công trình văn hoá tiêu biểu của làng là Đình làng, nơi thờ cúng Thành Hoàng làng (thờ Ông tổ của làng, người sáng lập ra làng cũng là người đầu tiên truyền dạy cho dân làng những nghề thủ công hay nghề trồng lúa). Đình làng còn là nơi sinh hoạt văn hoá tinh thần và một số hoạt động hành chính của chính quyền cấp cơ sở đương thời, nơi hội họp của Hội đồng kỳ mục để bổ bán binh dịch, phân chia công điền, công thổ, đặt khoán ước và giải quyết tranh chấp, kiện cáo, xét xử, phạt vạ... Đình làng được xây trên khu đất cao giữa làng, kề với đường chính của làng nối với cổng làng và đường cái quan. Phía trước Đình làng thường có sân rộng, ao làng với khu đất rộng rãi, thoáng mát, trồng nhiều cây xanh. Đình làng là nơi chỉ dành cho trai tráng trong làng (nơi phụ nữ hay lui tới là Đền, Chùa, bến nước, chợ làng), mỗi vị trí ngồi trong đình được dành cho các chức sắc và phục dịch của làng. Mỗi làng đều lo xây dựng cho làng mình một ngôi đình lớn nhất, to nhất để biểu thị sự giàu sang, phát triển của làng. Làng giàu xây dựng ngôi Đình với nhiều hàng cột lớn bằng gỗ, mái lợp ngói mũi với những đầu đao cao vút, làng nghèo xây dựng đình bằng tre, nứa, mái lợp tranh (ngôi Đình lớn và đẹp nhất vùng ĐBBB là Đình làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh).

Một công trình tôn giáo tín ngưỡng quan trọng nữa trong làng là Chùa hay Miếu làng, Chùa được xây dựng ở ven làng nơi có không gian rộng, vắng vẻ với nhiều cây xanh, gần bãi bồi ven sông hoặc sườn đồi, núi cạnh làng. Chùa hay miếu được thờ các vị thánh thần, những người có công với nước, với dân. Chùa là nơi người dân sinh hoạt tín ngưỡng, nơi tìm đến những niềm tin của cuộc sống trong muôn vàn những khó khăn vất vả của ngời nông dân làm nông nghiệp. Kiến trúc Chùa to hay nhỏ đều phụ thuộc vào sự giàu có hay nghèo khó của dân làng. Xung quanh Chùa còn được xây dựng thêm giếng, ao, vườn Chùa, cảnh sắc thiên nhiên như hồ nước, núi đá, đôi khi còn có thêm thuỷ đình ở hồ nước để biểu diễn múa rối nước truyền thống (như Chùa Thầy – Quốc Oai). Miếu làng thường gắn với bến nước, gốc đa, cổng làng. Ngoài những công trình tiêu biểu về sinh hoạt văn hoá nêu trên, còn có một số công trình phục vụ công cộng khác trong làng như Cổng làng, Chợ, Cầu qua sông, Giếng làng, Điếm canh đê... tất cả đều mang lại cho làng một bản sắc văn hoá rất riêng mà chỉ có ở cộng đồng người nông dân ĐBBB.

Ngoài tính chất tổ chức xã hội theo cộng đồng làng xã, người dân ĐBBB còn có loại hình tổ chức xã hội thu nhỏ nhưng vô cùng chặt chẽ đó là dòng tộc và gia đình. Mỗi một làng gồm nhiều dòng họ, mỗi dòng họ có một vị trưởng tộc chịu trách nhiệm chăm lo hương khói cho tổ tiên và đứng đầu toàn bộ số gia đinh trong dòng họ. Mỗi họ tộc đều có gia phả và hương ước quy định riêng cho dòng họ của mình. Để khẳng định dòng họ mình lớn và giàu có trong làng, mỗi họ đều xây dựng cho họ mình một Nhà thờ họ to hơn dòng họ khác. Phong cách kiến trúc các Nhà thờ họ mang lại cho làng xã ĐBBB những bản sắc văn hoá truyền thống rất riêng. Một xã hội thu nhỏ nữa trong tổ chức xã hội của ĐBBB là gia đình. Gia đình của người dân ĐBBB là những gia đình lớn, nhiều thế hệ sống chung với nhau trong ngôi nhà (thường có 3 – 4 thế hệ: ông, cha, con và cháu), họ cùng nhau sử dụng chung các tài sản trên khu đất của gia đình. Khi những người con lớn lập gia đình và sinh con đẻ cái, họ được chia cho tài sản, đất đai để dựng nhà và ở riêng tách thành các hộ độc lập.

Cấu trúc tổ chức xã hội cộng đồng của làng xã, thôn xóm, dòng họ; sự phát triển gia đình từ hạt nhân đến gia đình lớn và cơ cấu thành phần của gia đình chính là những yếu tố cơ bản để thiết kế quy hoạch kiến trúc, xây dựng nhà ở nông thôn vùng ĐBBB. Khi nói về văn hoá truyền thống, tính bản địa trong kiến trúc của nông thôn ĐBBB, ngoài các công trình sinh hoạt văn hoá cộng đồng như Đình, Chùa, Miếu... chúng ta phải nói đến một loại hình kiến trúc vô cùng phong phú và giàu tính sáng tạo đó là kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống.

Trải qua nhiều biến động của lịch sử, xã hội, sự gia tăng dân số, quá trình phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, điều kiện địa lý, môi trường và vấn đề đô thị hoá đã và đang làm cho kiến trúc nhà ở nông thôn vùng ĐBBB thay đổi cả về hình thức kiến trúc và công năng sử dụng. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự phát triển nhu cầu xã hội, quá trình tác động của đô thị hoá, sự buông lỏng quản lý trong vấn đề quy hoạch phát triển kiến trúc nhà ở nông thôn một cách tuỳ tiện đang làm mất đi hình ảnh văn hoá kiến trúc nhà ở truyền thống dân gian đầy bản sắc của vùng ĐBBB nói riêng và kiến trúc nhà ở nông thôn của Việt Nam nói chung. Do đó, các nhà quản lý, nhà quy hoạch kiến trúc cần phải quan tâm đánh giá thực trạng, các yếu tố tác động ảnh hưởng đến kiến trúc nhà ở nông thôn và đề ra các biện pháp bảo tồn, phát triển quy hoạch, kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống nhằm giữ gìn một nền văn hoá kiến trúc nông thôn đầy tính nhân văn của vùng ĐBBB.

II. Thực trạng kiến trúc nhà ở nông thôn vùng ĐBBB

1. Kiến trúc nhà ở nông thôn giai đoạn trước năm 1954

Nhà ở của người dân châu thổ sông Hồng thời xưa được xây cất đan xen với những luỹ tre làng hay dưới các tán cây xanh, bên cạnh sông suối, ao hồ, chúng hoà nhập với nhau đẹp tựa như một bức tranh thuỷ mặc. Những công trình kiến trúc có thể nhìn thấy nổi bật lên trên nền xanh của cây cối là những ngôi Chùa, Đình làng hay Điếm canh đê. Nhìn tổng thể, kiến trúc những ngôi nhà ở nông thôn vùng ĐBBB xưa rất giống nhau, chúng là những ngôi nhà một tầng thô sơ, nền làm sát mặt đất, vật liệu chủ yếu là tre, nứa lá, rơm rạ. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau về diện tích khu đất làm nhà ở, cách tổ chức tổng mặt bằng, vật liệu dựng nhà và mái lợp, đặc biệt là khác nhau về giàu nghèo của người dân.

Việc xây dựng nhà ở nông thôn ĐBBB được đặc biệt chú trọng đến điều kiện giải quyết vi khí hậu cho ngôi nhà, đón hướng gió mát cho ngôi nhà và che hướng gió lạnh, hướng có nhiều bức xạ mặt trời. Theo quan niệm phương Đông, hướng Nam là hướng sinh khí, hướng hưng thịnh, hướng cho gió nồm mát về mùa hè (Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng Nam ); hướng Đông là hướng của Thần linh, nơi có ánh bình minh chiếu vào mỗi buổi sáng làm cho không khí ngôi nhà quang sạch; hướng Bắc là hướng có gió lạnh về mùa đông, hướng Tây nóng do bức xạ nên hai hướng này không được chọn làm hướng xây dựng nhà cửa.

Nhà ở của người giàu thường nằm trong khuôn viên được bao bọc bởi tường gạch hoặc rào dâm bụt cắt tỉa, cổng ra vào có mái che lợp ngói, cánh bằng gỗ; khu đất có diện tích rộng từ 3 – 5 sào (1.000 – 3.000 m2) bên trong gồm có nhà chính, các nhà phụ, sân gạch, ao cá, vườn cây, các công trình chuồng trại, nhà vệ sinh... Nhà chính, nhà phụ được xây dựng giữa khuôn viên khu đất và quay mặt về hướng Nam hoặc Đông.

Nhà chính từ 5 đến 7 gian, nhà hai mái hoặc hai chái, hai chái lợp ngói mũi, bên dưới có ngói liệt (cách lợp mái 2 lớp theo phương pháp này cho ta hiệu quả thông gió rất tốt về mùa hè). Kết cấu vì kèo của ngôi nhà bằng gỗ, vách tường gỗ hoặc xây bằng gạch đất nung, nền lát gạch bát. Gian giữa của ngôi nhà bố trí bàn thờ tổ tiên và bàn ghế tiếp khách, hai gian bên đặt giường ngủ cho chủ nhà và con trai lớn; hai phòng phụ còn lại, một phòng để đồ đạc quý hoặc lúa thóc, phòng kia là phòng ngủ của phụ nữ và con gái, sau này khi con trai lớn xây dựng gia đình thì phòng ngủ này sẽ dành riêng cho gia đình mới. Nhà chính quay mặt về hướng Nam nhìn ra sân rộng trước nhà; phía trước sân là ao, vườn cây ăn quả, bể nước mưa, giếng nước khơi... Phía vườn trước trồng cây cau, giàn trầu. Cây cau vừa có giá trị thẩm mỹ về cảnh quan, vừa lấy bóng mát về mùa hè ở, tán cây cau có tác dụng như cái ô che nắng nhưng vẫn cho gió nồm hướng Nam thổi vào trong nhà ở phía phần thân gỗ của cây cau. Phía sau ngôi nhà chính là hướng Bắc, là hướng gió lạnh về mùa đông, nên được trồng cây chuối có lá to bản, cây lại thấp nên có thể che bớt gió lạnh. “Chuối sau, Cau trước” là câu lưu truyền nhắc nhở các thế hệ sau này lưu tâm đến tổ chức cảnh quan ngôi nhà và cách giải quyết vi khí hậu cho ngôi nhà ở. Phía sau của ngôi nhà ở là các công trình phụ trợ như: chuồng trại chăn nuôi gia súc, nhà để dụng cụ làm nông nghiệp, nhà kho và nhà vệ sinh...

Nhà phụ hay còn được gọi là nhà ngang kéo dài 3 – 5 gian (từ 1 – 2 nhà), nền nhà phụ thường thấp hơn nền nhà chính, chiều cao mái cũng thấp hơn, mái lợp ngói đối với nhà giàu có và lợp rạ, cói đối với nhà trung lưu lớp dưới. Nhà phụ là nơi nấu ăn, bếp, phòng ăn, nơi ngủ của phụ nữ, người giúp việc trong nhà. Ngoài ra, nhà phụ còn là nơi làm các công việc thủ công lúc nông nhàn như dệt vải, dệt cửi, đan lát, thêu thùa; một không gian trong nhà phụ đặt cối xay thóc, cối giã gạo...

Một không gian nữa cũng cần được lưu ý vì nó chiếm diện tích khá lớn trong khuôn viên của ngôi nhà đó là sân phơi, nhà giàu thường có sân phơi rất rộng lát gạch bát, là nơi phới sản phẩm nông nghiệp vào ngày mùa và là không gian tổ chức đám cưới, đám ma của gia chủ. Từ sân lên nhà ở có một không gian đệm gọi là hiên, hiên có chức năng đệm ngăn gió lạnh về mùa đông và bức xạ về mùa hè. Giữa không gian hiên và sân phơi có hàng cột hiên ngăn không gian ước lệ (ranh giới theo phân vị tuyến đứng), cùng với hàng cột hiên, còn có thêm các tấm “chạt che” đan thành phên bằng tre. Tấm chạt che có tác dụng rất cao về giải pháp xử lý vi khí hậu trong nhà ở nông thôn ĐBBB, nó có nhiệm vụ nhằm che mưa, chống nắng hắt vào không gian bên trong nhà, đặc biệt là vào mùa đông nó ngăn được gió lạnh tràn vào trong nhà. Nhìn chung, không gian ở của người giàu nông thôn vùng ĐBBB là những không gian lý tưởng về cảnh quan và điều kiện tiện nghi về khí hậu, rất phù hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm như ở nước ta.

Nhà ở người nghèo nông thôn khác biệt hoàn toàn so với người giàu, khuôn viên khu đất nhỏ, diện tích thường chỉ khoảng 1 – 2 sào (350 – 700 m2), xung quanh khuôn viên nhà ở trồng các loại cây, hàng rào được làm sơ sài bằng các thanh tre hoặc để trống có thể đi sang được nhà hàng xóm. Nhà ở cũng chia thành hai không gian nhà chính và nhà phụ, những gia đình quá nghèo chỉ có một ngôi nhà nhỏ duy nhất, tất cả mọi sinh hoạt của gia đình đều diễn ra ở đây. Nhà chính quay mặt về hướng Nam, gồm 2 – 3 gian có chái hoặc không được dựng bằng tre, nứa, mái lợp rạ dày 0,3 – 0,5 m (nhà ở vùng ven biển như Tiền Hải - Thái Bình, Hải Hậu – Nam Định, Kim Sơn – Ninh Bình thường lợp bằng cây cói, độ dày của mái lợp cói từ 0,5 – 0,9 m); tường vách tre, nứa đan phên, bên trong và bên ngoài vách phên trát bằng bùn nhuyễn trộn với rơm; nền nhà đắp bằng đất. Gian giữa cả ngôi nhà cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, phía trước có bộ chõng tre để tiếp khách, gian bên cạnh là phòng ngủ của cả nhà (không có không gian riêng cho phụ nữ và con gái). Nhà phụ cũng dựng bằng tre nứa, mái lợp rạ, vách phên trát bùn, nền đắp bằng đất (vùng nông thôn ven biển, vách nhà ở dùng đất sét trộn với cói chặt ngắn nện chặt thành tường, độ dày từ 0,5 – 0,7 m ). Phần chuồng trại chăn nuôi gia súc được sử dụng một phần bán mái kéo dài của nhà bếp xuống thấp gần mặt đất. Phía trước nhà là sân bằng đất đầm chặt, nhà có ao nhỏ hoặc cây ăn trái, trồng rau phía trước sân nhà.

Nhà ở người nghèo kém tiện nghi hơn so với nhà giàu, chẳng hạn như không có hiên trong nhà hoặc nếu có thì hiên nhà cũng quá hẹp, không đảm bảo điều kiện sử dụng; chiều cao của ngôi nhà quá thấp, các cửa sổ thường nhỏ, hẹp nên thiếu ánh sáng trong nhà; chiều cao những ngôi nhà vùng ven biển cũng rất thấp, mục đích để tránh gió bão. Tuy vậy, nhà ở lợp bằng rạ, cói với tường trình bằng đất lại mang lại một hiệu quả sử dụng rất tốt đó là đảm bảo mát về mùa hè và ấm vào mùa đông.

Quá trình xây dựng nhà ở nông thôn vùng ĐBBB xưa là sự tích luỹ vốn sống hàng ngàn đời của người nông dân, nhà cửa của họ khi xây dựng phải phù hợp với môi trường thiên nhiên, nương nhờ vào thiên nhiên tạo nên một hệ sinh thái bền vững. Kiến trúc nhà ở nông thôn có nhiều ưu điểm như: sử dụng vật liệu sẵn có của địa phương, tận dụng kỹ thuật xây dựng truyền thống, đáp ứng điều kiện môi trường khí hậu nóng ẩm, giải pháp phù hợp với hệ thống cảnh quan của các vùng nông thôn như cây xanh, mặt nước ao hồ, sông ngòi, đồi núi... tất cả hoà quyện với nhau tạo nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình, đầy thơ mộng của nông thôn trù phú vùng châu thổ sông Hồng.

2. Kiến trúc nhà ở nông thôn giai đoạn 1954 - 1986

Giai đoạn này, tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn do chiến tranh, tất cả sức người, sức của tập trung cho tiền tuyến. Vấn đề kiến trúc nhà ở nông thôn vùng ĐBBB nói riêng và cả nước nói chung chưa được chú trọng phát triển. Nông thôn thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, người dân làm việc và sinh hoạt trong các hợp tác xã, lương thực và đất đai nhà ở được phân chia theo số hộ dân. Tại các làng xã ở miền Bắc vào những năm 1957 đến 1965 được quy hoạch chỉnh trang lại điền thửa, làng xóm, nhà ở. Các khu dân cư làng xóm được quy hoạch gọn gàng, đất nghĩa địa được thu gom để dành cho đất canh tác. Một trong những ưu điểm của tất cả mọi người dân đều được cấp đất làm nhà sau khi lập gia đình, quá trình xây dựng nhà ở dãn dân đều được quy hoạch trước, không làm ảnh hưởng nhiều đến quy hoạch chung của làng xã.

Quá trình quy hoạch phát triển kiến trúc nhà ở nông thôn giai đoạn này được quản lý chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương. Nhà cửa đều được xây dựng trên cơ sở khuôn viên khu đất có diện tích bình quân từ 500 - 700 m2. Trong khuôn viên khu đất, người dân trồng cây dâm bụt xén tỉa hoặc xây bằng tường gạch đất nung, tường gạch đá ong làm hàng rào. Bên trong bố trí nhà chính từ 3 - 5 gian, tường xây gạch quét vôi trắng theo phong cách kiến trúc mới, mái lợp ngói hoặc tranh, đôi khi có nhà đổ mái bằng bê tông cốt thép hoặc đổ mái bằng một phần lồi và phần hiên. Nhà có sân rộng nhìn ra sân lát gạch, phía trước sân là ao rộng nuôi cá. Nhà phụ 2 - 3 gian, tường xây gạch, mái lợp ngói hoặc tranh. Các ngôi nhà ở đều được xây dựng một tầng cao ráo, thoáng mát, phù hợp với kiến trúc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm.

Nhìn chung, kiến trúc nhà ở nông thôn vùng ĐBBB giai đoạn này không thay đổi nhiều so với giai đoạn trước đây. Các yếu tố cấu thành nên hình thái khuôn viên khu đất và kiến trúc công trình đều phát triển theo phong cách đặc thù của kiến trúc nhà ở nông thôn. Chỉ có vật liệu xây dựng nhà cửa và trang thiết bị nội thất là có thay đổi cho phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội.

3. Thực trạng kiến trúc nhà ở nông thôn từ 1986 - đến nay

Ngày nay, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng theo xu hướng phát triển của xã hội, nền kinh tế thị trường tác động đến tất cả các lĩnh vực như: kinh tế, kiến trúc, xây dựng, con người, mức sống, lối sống, nhu cầu tiện nghi... Mặt trái của đô thị hoá làm thay đổi nhiều nhất đến bộ mặt xã hội nông thôn, trong đó ảnh hưởng nhiều là văn hoá xã hội, phong tục tập quán và kiến trúc nhà ở. Các khu đô thị mới, khu công nghiệp ngày càng được mở rộng thay thế dần các cánh đồng lúa mỏi cánh cò bay. Một vài cây đa cổ thụ bên cạnh miếu hoang nơi mà người nông dân hóng mát lúc buổi trưa hè nắng chói chang, những luỹ tre xanh xào xạc cuối thu, cái Cổng làng đứng trầm mặc khoác lên mình tấm áo lịch sử nhiều đời của làng... Tất cả đều lùi về quá khứ để nhường chỗ cho những khu nhà cao đẹp nhưng quá đỗi xa lạ, những ống khói nhà máy suốt ngày nhả khói và những khu nhà dãn dân với mái lợp tôn đầy màu sắc. Ven con đường làng nhỏ bé được xây dựng những dãy nhà ở giống hệt như nhà ống trên phố, cái nhô lên cái thụt xuống, cái ra cái vào trong đó là quán net, quán karaoke, quán gội dầu.... Người nông dân chất phác như thế mà giờ đây đã thay đổi hẳn thói quen sống, tình làng nghĩa xóm dần phai nhạt, những tệ nạn, tiêu cực, thói xấu của thị thành tràn ngập trong thôn xóm.

Kiến trúc nhà ở nông thôn ở vùng ĐBBB cũng không tránh được sự xoay vần của quy luật, điều này thấy rõ từ việc quy hoạch làng xã một cách tự phát đến những công trình kiến trúc xô bồ của nhà ở nông thôn mới. Do dân cư của làng ngày càng tăng nên nhu cầu về nhà ở ngày càng cao, việc mở rộng xây dựng các khu dãn dân là tất yếu. Các khu nhà ở để có hiệu quả kinh tế cao phải bám vào các trục đường làng, trục đường liên thôn, xã hay huyện. Khu đất dãn dân tự phát không có hệ thống hạ tầng, không có quy hoạch, khu đất thường bám vào trục đường nên kéo dài thành tuyến.

Việc xây dựng không phép và không quan tâm đến hệ thống hạ tầng kỹ thuật là yếu tố cơ bản làm cho môi trường nông thôn bị xâm hại nặng nề. Chất thải của con người và gia súc không có lối thoát do các ao, hồ tự nhiên đều bị san lấp để biến thành đất ở, do vậy ảnh hưởng đến môi trường nước và không khí của các vùng nông thôn.

Không chỉ các khu nhà ở dãn dân làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh kiến trúc nhà ở nông thôn mà các ngôi nhà ở phía sâu trong làng xưa cũng cùng chung số phận. Chúng bị thay đổi nhiều về hình thái khuôn viên truyền thống do người dân chia nhỏ khu đất ra làm nhiều nhà ống, mỗi lô đất chia đều cho các con cái làm nhà ở riêng, thói quen sống nhiều thế hệ trong ngôi nhà ở truyền thống không còn nữa. Cuộc sống tự do cá nhân đang làm mai một đi truyền thống văn hoá “lá lành đùm lá rách”, “chia ngọt sẻ bùi” của nông dân ĐBBB. Những sân dùng để phơi và làm mùa trong mỗi gia đình không còn nữa, người dân thu hoạch sản phẩm nông nghiệp ngay trên đường quốc lộ hay đường làng làm ảnh hưởng đến giao thông và môi trường sống.

Kiến trúc nhà ở nông thôn giai đoạn này ít được định hướng và quản lý sát sao của các cấp, các ngành. Các cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị làm tư vấn kiến trúc sư đang lo giải quyết hậu quả của nhà ở trong các thành phố lớn nên mảng kiến trúc nhà ở nông thôn đang còn bị bỏ ngỏ. Thực tế, dưới tác động của đô thị hoá, kiến trúc nông thôn ngày càng hỗn độn, tuỳ tiện. Mọi sự quan tâm về kiến trúc nông thôn sau này sẽ trở nên vô tác dụng vì luôn đi sau nhu cầu phát triển của quy luật xã hội.

Với hình thái khuôn viên 100 - 120 m2 cho một lô đất hình chữ nhật, chiều rộng các lô đất khoảng 5 m, chiều dài bình quân 20 m, sự phân chia này đã làm mất đi hoàn toàn ý nghĩa của nhà ở nông thôn mà trở thành bản sao mẫu nhà chia lô của các đô thị vào những năm 90 của thế kỷ trước. Người nông dân sống chủ yếu dựa vào làm nông nghiệp, làm nghề thủ công, chăn nuôi gia súc, làm kinh tế vườn - ao - chuồng gia đình. Do đó, họ cần có không gian cũng như khu đất xây dựng nhà ở sao cho phù hợp vừa để ngủ nghỉ, sinh hoạt, học tập, làm kinh tế phụ gia đình, chăn nuôi . . .

III. Một số kiến nghị cho giải pháp quản lý, phát triển kiến trúc nhà ở nông thôn

1. Nhà nước cần đưa ra các chính sách quản lý, định hướng quy hoạch, bảo tồn, phát triển kiến trúc nhà ở nông thôn giai đoạn mới hiện nay.

2. Bộ Xây dựng cần đề xuất ra các mẫu thiết kế tiêu chuẩn cho các loại hình nhà ở nông thôn sao cho phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội nông thôn trong thời kỳ đô thị hoá. Tránh tình trạng để cho phát triển tự phát rồi cải tạo, khắc phục hậu quả xảy ra sau này giông như các vùng ven đô hiện nay.

3. Các kiến trúc sư phải là những người có trách nhiệm tiên phong trong việc thiết kế các công trình văn hoá cộng đồng nông thôn và đặc biệt là loại hình kiến trúc nhà ở nông thôn mới.

4. Khuôn viên khu đất dành cho xây dựng nhà ở nông thôn phải đảm bảo đủ diện tích nhằm xây dựng phát triển hình thái nhà ở có vườn - ao - chuồng. Nhà ở phải giữ lại kiến trúc và công năng của ngôi nhà 3 gian 2 chái hoặc nhà 2 tầng, mái lợp ngói hoặc tôn 3 lớp cách nhiệt giả ngói màu đỏ.

5. Các khu dân cư mới phải được quy hoạch tổng thể và quản lý xây dựng từ hạ tầng đến kiến trúc công trình. Lựa chọn các loại vật liệu xây dựng địa phương cho phù hợp với loại hình nhà ở nông thôn mới.

6. Nhà ở nông thôn cần được quy định về diện tích chiếm đất, chiều cao công trình, diện tích sàn, khoảng lùi so với chỉ giới quy hoạch, các công năng phù hợp với nhu cầu nhà ở nông thôn mới, tỷ lệ % diện tích trồng cây xanh, mặt nước trong khuôn viên khu đất xây dựng nhà ở.

7. Cấp giấy phép xây dựng, quản lý quá trình xây dựng cũng như hình thức kiến trúc của nhà ở nông thôn.

8. Phân loại các làng cổ, các ngôi nhà ở nông thôn có giá trị để bảo tồn và định hướng cho phát triển lâu dài.

9. Đề xuất 5 tiêu chí đánh giá, xếp loại kiến trúc nhà ở nông thôn các làng, xã có giá trị nhằm bảo tồn và phát triển. Cụ thể như sau:

- Giá trị đặc biệt: Các làng cổ có giá trị đặc biệt về quy hoạch, kiến trúc cần bảo tồn nguyên gốc (ví dụ như Làng cổ Đường Lâm ở ngoại thành Hà Nội), tránh mọi tác động xấu ảnh hưởng đến quy hoạch và kiến trúc của làng.

- Giá trị rất cao: Các làng có giá trị cao về quy hoạch và kiến trúc công trình, có các làng nghề thủ công cần thiết phải giữ lại để bảo tồn kiến trúc nhà ở truyền thống, đặc biệt là các ngôi nhà cổ được xây dựng trước những năm 1930.

- Giá trị cao: Làng xóm có kiến trúc và quy hoạch mang bản sắc văn hoá truyền thống, có các làng nghề cần phải bảo tồn. Các ngôi nhà dân gian được xây dựng từ năm 1930 đến năm 1945. Lưu ý các làng nghề cần phải quy hoạch khu dãn dân và cụm công nghiệp nhỏ để đưa các làng nghề ra khỏi làng truyền thống nhằm tránh ảnh hưởng xấu của môi trường tác động đến đời sống dân cư của làng.

- Giá trị trung bình: Đó là các làng mới và nhà cửa được quy hoạch xây dựng từ năm 1945 đến năm 1986. Các làng này nên giữ lại quy hoạch, không cho cơi nới và phá vỡ cấu trúc hình thái không gian của làng và khuôn viên ngôi nhà.

- Giá trị thấp: Đó là các khu dãn dân tự phát bám theo các trục đường làng không có quản lý quy hoạch được xây dựng từ năm 1986 đến nay. Các khu nhà ở này cần phải đầu tư xây dựng cải tạo hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trồng cây xanh và nhất thiết phải hạn chế xây dựng các loại hình kiến trúc nhà ở kiểu hộp diêm (sản phẩm của nhà ở đô thị).

10. Để quản lý, quy hoạch phát triển bảo tồn nhà ở nông thôn vùng ĐBBB, cần thiết phải có sự quan tâm thích đáng của Nhà nước, các Bộ ngành có liên quan về hỗ trợ vốn, hỗ trợ kỹ thuật vật liệu và xây dựng, hỗ trợ tư vấn phương án kiến trúc để cùng với người dân xây dựng nhà ở nông thôn mới cho phù hợp với thực tiễn và nhu cầu của xã hội hiện nay.

Nguồn: Tham luận của TS. KTS Nguyễn Đình Thi, NCS. KTS. Lê Hồng Dân - Khoa KT&QH - Trường ĐHXD tại Hội thảo "Kiến trúc nông thôn thời kỳ đổi mới", tháng 12/2008

Cập nhật ( 02/12/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“ Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ.”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com