1. Những bất cập về sự phân bố các cơ sở công nghiệp và các hệ quả về môi trường với sự phát triển bền vững
Tính đến tháng 12/2005 vùng TP. Hồ Chí Minh (VHCM) có 57 khu công nghiệp (KCN) tập trung đã được cấp phép, chiếm tỷ trọng khoảng 49,6% so với tổng số KCN cả nước.
Các KCN này tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh: 14, Đồng Nai: 15, Bình Dương: 12, Bà Rịa Vũng Tàu: 7. Các tỉnh còn lại có số lượng hạn chế như: Bình Phước: 1, Long An: 3, Tây Ninh: 4, Tiền Giang: 1. Trong tổng số đó có 43 KCN đã đi vào hoạt động (chiếm 53% các KCN đang hoạt động cả nước) với tổng diện tích là 18.483 ha (đã cho thuê được 75% (9.370 ha) thu hút 845.110 người lao động); 24 khu đang xây dựng (tổng diện tích là 10.329 ha) đã cho thuê được 12% đất công nghiệp (797 ha).
Tuy có tỷ lệ cao về số lượng cũng như quy mô các KCN, song sự phân bố các cơ sở công nghiệp này chưa hiệu quả và còn nhiều bất cập: vị trí, tính chất, chức năng và mật độ của các KCN chưa phù hợp với tiềm năng và lợi thế khai thác của từng địa phương và hơn thế nữa, không đảm bảo sự phát triển bền vững trong hiện tại và tương lai.
Các KCN tập trung phần lớn quanh khu vực giáp ranh TP. Hồ Chí Minh và ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu… sự phân bố thiếu hợp lý này tạo ra nhiều bất cập về hạ tầng kỹ thuật, phát triển không gian, phân bố lực lượng lao động cũng như đang gây những tác động có hại cho môi trường.
Những bất cập đó còn tạo nên những nguy cơ tương lai về sự phát triển thiếu bền vững.
1.1. Các cơ sở công nghiệp đan xen các khu dân cư gây ô nhiễm đến môi trường sống, đe dọa về cháy nổ và cản trở giao thông đô thị
- Ô nhiễm môi trường từ các cơ sở sản xuất công nghiệp
Theo số liệu được công bố tại hội thảo khoa học về “bảo vệ môi trường và phát triển bền vững tại Việt Nam” (Hà Nội, tháng 9/2003), thì TP. Hồ Chí Minh có 28.573 cơ sở sản xuất, trong đó có gần 3.000 cơ sở gây ô nhiễm, riêng cơ sở gây ô nhiễm nặng phải di dời có gần 1.000.
Tại các khu vực các quận Tân Bình, Bình Tân, quận 6, quận 10 có nhiều cơ sở công nghiệp nằm đan xen các khu dân cư, nhất là khu vực lưu vực kênh Tân Hóa - Lò Gốm, Kênh Đen, Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè. Theo thống kê của dự án kênh Tân Hóa - Lò Gốm, chỉ riêng trong khu vực lưu vực kênh khoảng 1.700 ha, có đến 30 cơ sở công nghiệp xen lẫn vào khu dân cư, và đa số trong số đó là các cơ sở gây ô nhiễm.
Từ các cơ sở công nghiệp này nước thải công nghiệp không được xử lý thải trực tiếp xuống kênh gây ô nhiễm nguồn nước kênh. Khu vực dân cư quanh đó luôn bị sự ô nhiễm tiếng ồn, không khí (bụi, mùi hôi, khói…) ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và sức khỏe. Nhịp sống người dân tại chỗ bị xáo trộn vì những ô nhiễm này diễn ra ngày đêm, nhất là vào thời gian cao điểm.
- Nước thải
Sự tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là nguồn nước.
Tại TP. Hồ Chí Minh chỉ có khoảng 65% lượng nước thải công nghiệp đã qua xử lý trước khi thải ra môi trường và chỉ có 6/15 KCN-KCX là có nhà máy xử lý nước thải tập trung. Kết quả kiểm tra đột xuất mới đây của thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường tại các KCN-KCX Tân Thuận, Tân Bình, Hiệp Phước, Cái Lái 2, Tây Bắc - Củ Chi, cho thấy trong số 48 mẫu nước thải đã qua xử lý có 45 mẫu không đạt tiêu chuẩn, nồng độ các chất BOD, COD vượt tiêu chuẩn cho phép gần 10 lần…
Kênh Tàu Hũ - Bến Nghé, mỗi ngày phải hứng hàng trăm nghìn mét khối nước thải từ sản xuất công nghiệp và khoảng 500 tấn rác sinh hoạt. Nồng độ SS trong nước thải đổ vào kênh là 845mg/lít - một chỉ số mà các nhà khoa học cho là không có khả năng duy trì sự sống. Một số con kênh TP. Hồ Chí Minh hiện là “kênh độc”, “kênh chết”…
Kết quả khảo sát của Viện Môi trường và Tài nguyên Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh vào đầu năm nay cho thấy, 44 KCN thuộc VHCM hàng ngày đã xả vào nguồn nước của hệ thống sông Đồng Nai 111.605m3 nước thải, trong đó có các chất độc hại như TSS, BOD, COD…
- Rác thải
Trong VHCM, nhiều KCN chưa có hệ thống xử lý rác thải công nghiệp tập trung. Có tới 300 cơ sở công nghiệp lớn trong vùng hàng ngày thải ra trên 200 tấn chất thải độc hại.
Sự ô nhiễm còn do quá trình chuyển đổi chức năng sử dụng đất: các loại đất khác thu hẹp, do bị chuyển đổi thành đất công nghiệp. “ở Bình Dương, những KCN phát triển mở rộng đã trở thành những lò xả chất thải tàn phá những vườn tược trù phú cả trăm năm nay ở vùng Lái Thiêu và dọc sông Sài Gòn”. Điều này không phù hợp và không chấp nhận được đối với quy hoạch kinh tế vùng.
- Đe dọa về cháy nổ
Các cơ sở công nghiệp nằm lẫn trong khu dân cư còn là mối nguy về cháy nổ cho cộng đồng. Trên thực tế, có nhiều vụ hỏa hoạn gây thiệt hại lớn về người và của mà nguyên nhân xuất phát từ các cơ sở công nghiệp.
- Tắc nghẽn giao thông
Các cơ sở công nghiệp nằm trong thành phố tạo ra luồng giao thông đi vào thành phố gây ách tắc và ô nhiễm. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở công nghiệp có sự tập trung số lượng lớn người lao động dẫn đến quá tải cho nhiều tuyến đường vào giờ cao điểm.
Theo báo cáo của công an TP. Hồ Chí Minh kẹt xe diễn ra thường xuyên tại các khu vực cửa ngõ của thành phố như: Ngã tư Hàng Xanh (hướng từ Biên Hòa về); ngã sáu Phú Lâm (hướng đi miền Tây về) ngã Sáu Gò Vấp (hướng từ Bình Dương về). Cũng theo báo cáo này, tại thời điểm các xe tải được phép vào thành phố, thường xuyên có tắc nghẽn giao thông trên những tuyến phố đó. Hơn nữa, xe tải còn là nguyên nhân của sự ô nhiễm tiếng ồn và không khí cho đô thị.
- Giải pháp tình thế - chưa hiệu quả
Toàn thành phố có 260 cơ sở trong “danh sách đen”, nghĩa là những cơ sở gây ô nhiễm nặng phải hoàn thành việc ra đi chậm nhất là vào cuối năm 2004.
Từ tháng 4/2002, UBND TP. Hồ Chí Minh đã có kế hoạch cụ thể về việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm, đồng thời cũng xác lập địa chỉ các khu công nghiệp tập trung nơi sẽ tiếp nhận các cơ sở gây ô nhiễm này. Cụ thể: các cơ sở gây ô nhiễm nước thải đến khu công nghiệp Hiệp Phước, các cơ sở gây nhiều tiếng ồn, hôi thối đến KCN Lê Minh Xuân, các cơ sở nhỏ có khu dân cư đan xen, quy hoạch theo mô hình làng nghề, đến KCN An Hạ…
Tuy nhiên theo ban chỉ đạo chương trình di dời các cơ sở gây ô nhiễm (thuộc UBND TP. Hồ Chí Minh) cho biết, từ 2002 đến tháng 9/2003 mới chỉ có 24 trong tổng số 260, chưa tới 10% số cơ sở thuộc diện đã thực hiện việc di dời.
Nguyên nhân một phần là do nguồn vốn, nhưng nguyên nhân quan trọng khác là khả năng tiếp nhận của các KCN trên địa bàn thành phố rất hạn chế đối với các cơ sở công nghiệp bị di dời. Do hiện nay các KCN của thành phố dường như không còn đất để có thể cho thuê. Các KCN đang gặp khó khăn trong việc đền bù giải tỏa thu hồi đất, trong khi nhiều dự án đầu tư lớn còn xếp hàng chờ đợi được KCN giao đất. Bất cập này chỉ có thể giải quyết thỏa đáng được trên phạm vi VHCM.
1.2. Các cơ sở công nghiệp tập trung quá nhiều trong khu vực trung tâm và các cửa ngõ vào TP. Hồ Chí Minh
Các cơ sở công nghiệp và các KCN phần lớn tập trung ven các quốc lộ 1A, 22, 13, 51… và gần cửa ngõ vào TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận TP. Hồ Chí Minh trong bán kính từ 30km đến 50km. Trong khi đó các tỉnh như Bình Phước, Tây Ninh, Tiền Giang có nhiều dư địa để xây dựng KCN thì lại có rất ít KCN. Có nhiều nguyên nhân liên quan đến sự tập trung mật độ cao các cơ sở công nghiệp tại khu vực này, nhưng chủ yếu là do những lợi thế về thị trường, về dịch vụ sẵn có của TP. Hồ Chí Minh (ngân hàng, văn phòng); về đầu mối giao thông, cảng biển, hàng không, các cửa ngõ đi các nước láng giềng và thế giới. Bên cạnh đó, một lý do cũng khá quan trọng đó là sự đổi mới và năng động trong các chính sách thu hút đầu tư của các địa phương này.
Sự bất cập: luồng hàng và người ra vào và đi xuyên thành phố
Sự tập trung các cơ sở công nghiệp quá gần thành phố và bám vào các trục quốc lộ, trong khi những đường vành đai của thành phố còn quá ít (hiện nay mới chỉ có đường vành đai Xa Lộ Đại Hàn) đã tạo nên những luồng người và hàng ra vào và đi xuyên qua thành phố gây ách tắc giao thông trong đô thị.
Luồng hàng hóa với phương tiện vận chuyển là các xe tải nặng vẫn hàng ngày đi xuyên qua thành phố và xuất phát từ hai đầu mối chính là khu vực Chợ Lớn và cảng Sài Gòn đi theo trục Đông - Tây đã giao cắt với luồng người từ các quận ven thành phố vào ra nội thành theo hướng Bắc - Nam dẫn đến ùn tắc tại các nút giao thông.
Bên cạnh đó, luồng người mà đa số là công nhân làm việc tại các cơ sở công nghiệp quanh thành phố vào những giờ tan ca tỏa ra từ các hướng trên các đường quốc lộ hướng về thành phố đã tạo nên sự ùn tắc vào giờ cao điểm.
Những bất cập này đòi hỏi sự giải quyết triệt để từ những định hướng quy hoạch về phân khu chức năng của thành phố và đặc biệt những giải pháp về giao thông thành phố và VHCM.
1.3. Sự phân bố về chức năng của hệ thống các khu công nghiệp trong vùng chưa hợp lý
Một bất cập khác trong sự phân bố các khu công nghiệp trên địa bàn VHCM là về cơ cấu của hệ thống các khu công nghiệp chưa được định hình. Cụ thể là không có sự phân chia chức năng và xác định vai trò của từng khu công nghiệp trong hệ thống.
Tuy các tỉnh trong VHCM đều có quy hoạch tổng thể phát triển các cơ sở công nghiệp riêng, nhưng toàn vùng lại thiếu quy hoạch chung, thiếu định hướng của cả vùng. Mỗi tỉnh đều cố gắng “thu hút dự án đầu tư” theo cách của mình mà không quan tâm đến định hướng vùng, ưu tiên vùng.
Ngoài tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi tập trung nhiều cơ sở công nghiệp thiên về dầu khí và năng lượng, hầu hết các khu/cụm công nghiệp trên địa bàn Vùng đều có chức năng tổng hợp. Các khu công nghiệp gần như giống nhau, trong đó chủ yếu phát triển những ngành nghề truyền thống như giày dép, dệt may, chế biến…, còn những ngành có tính hiện đại hóa cao, có tính chất là động lực cho sự phát triển kinh tế của tỉnh và vùng thì không đáng kể.
Mặc dù một số địa phương đã có những cơ sở công nghiệp hình thành từ những lợi thế tiềm năng của địa phương: Bà Rịa - Vũng Tàu: dầu khí, năng lượng; Long An: công nghiệp chế biến nông sản… nhưng nhìn chung sự phân bổ các cơ sở công nghiệp chưa được thực hiện theo chiến lược chung trong đó khai thác tốt nhất các thế mạnh của từng địa phương.
Để có thể phát triển bền vững và tạo ra sức hút đầu tư lớn hơn, các cơ sở công nghiệp cần được phân bố hợp lý hơn trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương và nằm trong định hướng chiến lược chung của cả hệ thống cấp vùng.
Vì vậy về tổng thể số KCN vừa thừa lại vừa thiếu: thừa vì có quá nhiều KCN có tính chất giống nhau; mà thiếu những KCN có chức năng chuyên biệt. Chính vì bất cập này mà sự cạnh tranh trở nên gay gắt nhưng về tổng thể lại không phát huy tiềm năng của cả hệ thống.
1.4. Phân bố chưa đồng bộ với kế hoạch phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật, xã hội
Nhu cầu phát triển các KCN không đồng bộ với sự phát triển của hệ thống hạ tầng kỹ thuật dẫn đến những KCN không có sức hút. Ví dụ: Tỉnh Bình Phước được đánh giá là có lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, tài nguyên rừng và khoáng sản. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng đô thị còn yếu không giao lưu được với các tỉnh trong nội bộ Vùng, khó tiếp cận đến các cửa ngõ vùng. Mạng lưới giao thông 270km dọc theo tuyến biên giới hiện chỉ mới đầu tư được 71km, tuyến đường sắt Dĩ An - Lộc Ninh chưa xây dựng, đường 322 nối trung tâm Bình Phước với Đồng Nai cũng chưa được nâng cấp mở rộng.
Ngay cả khi các KCN hình thành, nhưng thiếu kế hoạch phát triển đồng bộ các hạng mục hạ tầng xã hội khác cũng dẫn đến những bất cập. Trong VHCM, do các khu ở công nhân không được chú ý nên đã xảy ra tình trạng tư nhân xây dựng tự phát trái phép tạo ra những khu dân cư ngổn ngang thiếu những hạ tầng kỹ thuật và xã hội tối thiểu, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, phát sinh các tệ nạn xã hội.
Khu vực quanh TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, nơi tập trung khá dày các cơ sở công nghiệp tình trạng quá tải về hệ thống giao thông, hệ thống cấp nước, thoát nước… Ngược lại, nơi mà các cơ sở công nghiệp phân bố quá phân tán, khó khăn trong việc cung cấp dịch vụ hạ tầng.
1.5. Phát triển các cơ sở công nghiệp không bền vững
Do thiếu quy hoạch vùng, sự phát triển các KCN không bền vững về lâu dài. Cụ thể là một số địa phương sau một thời gian phát triển quá nhiều KCN đến nay quỹ đất đã không còn nhiều, khó khăn trong đền bù giải tỏa, trong khi các KCN hiện hữu thì gặp phải sự cạnh tranh gay gắt vẫn chưa phủ kín.
Mặt khác, tiềm năng hạ tầng, nguồn nước, năng lượng hiện hữu của các địa phương có hạn và không theo kịp tốc độ phát triển các KCN, nên nhiều KCN lâm vào cảnh không thu hút được nhà đầu tư. Ví dụ do sự chậm trễ của công trình cấp nước cho KCN Hiệp Phước, Trạm điện cho KCN Vĩnh Lộc, Lê Minh Xuân, đã ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các doanh nghiệp KCN và ảnh hưởng không tốt đến việc thu hút đầu tư của các KCN TP. Hồ Chí Minh.
Bên cạnh hai lý do trên, một lý do khiến sự phát triển các khu công nghiệp không bền vững là chiến lược về nguồn lao động đã không được chú ý đúng mức. Nhiều địa phương đang bị thiếu nguồn lao động trong khi nguồn lao động ngoại tỉnh thường không ổn định.
Sự không ổn định về thu hút đầu tư còn do các cơ sở công nghiệp phân bố theo địa giới hành chính, thiếu cơ chế phối hợp trong chiến lược sản phẩm của từng địa phương, tạo nên sự dư thừa tương đối về sản phẩm, năng lực sản xuất nhưng lại thiếu nguyên liệu trong từng địa phương. Điều này đang dần làm mất đi sức hút đầu tư của cả vùng.
Sự phát triển không bền vững chỉ có thể giải quyết trên bình diện vùng, với sự phối hợp chặt chẽ về chiến lược tổ chức, phân bố các cơ sở công nghiệp trên toàn vùng.
2. Đề xuất giải pháp
Theo các phân tích chiến lược của Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp đã phác thảo ra 5 tiêu chí định hướng cho phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam như sau:
1. Tăng trưởng bền vững.
2. Tạo vị thế trong phân công quốc tế.
3. Tiêu dùng bền vững công nghiệp.
4. Doanh nghiệp bền vững.
5. Chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội, phù hợp thể chế chính trị và an ninh.
Chiến lược phân bố các cơ sở công nghiệp liên quan mật thiết đến sự phát triển bền vững vùng theo các tiêu chí trên. Dưới đây là một số đề xuất cho vấn đề này.
2.1. Phân bố lại hệ thống cơ sở công nghiệp đảm bảo sự phân định rõ và cân đối về chức năng các KCN trong hệ thống
Chức năng các KCN trong VHCM cần được xác định thông qua một chiến lược chung của cả vùng, trong đó xác định các ngành công nghiệp mũi nhọn của cả vùng cũng như của từng địa phương.
Ông Ronal Klause, giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt nam cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần phải đầu tư công nghiệp theo chiều sâu, tránh tình trạng đầu tư theo chiều rộng (dàn trải) như hiện nay. Trong đó, cần đặc biệt tập trung vào ngành công nghiệp chế biến (chế biến nông, thủy sản và chế biến nguồn khoáng sản) để mang lại giá trị gia tăng cao. Đây chính là nền công nghiệp mũi nhọn, có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh nhất của Việt Nam.
Đồ án Quy hoạch Vùng TP. Hồ Chí Minh đang được nghiên cứu là cơ hội rất tốt để định hướng phát triển hệ thống các cơ sở công nghiệp trong toàn vùng. Trong đó chiến lược phát triển chung của cả vùng sẽ được xác định; vai trò, chức năng của hệ thống cơ sở công nghiệp của từng địa phương cũng được định rõ làm cơ sở cho kế hoạch phát triển công nghiệp của địa phương mình:
- Với ưu thế sẵn có, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nên tiếp tục được định hướng là trung tâm công nghiệp năng lượng của vùng và cả nước.
- Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh cần đẩy mạnh hơn nữa vai trò đầu tàu về phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, hàm lượng tri thức cao (tin học, viễn thông, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vi sinh, công nghiệp sạch).
- Đồng Nai với ưu thế của mình về lực lượng lao động tại chỗ, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất thiết bị điện - điện tử, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước.
Sự phân công hợp lý các khu vực chức năng của hệ thống các cơ sở công nghiệp giúp toàn bộ hệ thống phối hợp được với nhau, bổ sung cho nhau tạo nên một sức mạnh mới cho toàn bộ vùng và giải quyết bài toán nan giải cho từng tỉnh. Ví dụ. Bài toán di dời các cơ sở công nghiệp trong nội đô và bài toán chất thải rắn TP. Hồ Chí Minh, bài toán năng lượng cho tỉnh Bình Dương…
2.2. Phân bố hợp lý các cơ sở công nghiệp đảm bảo sự phân tán lao động hợp lý hơn trong vùng, giải quyết sức ép lớn cho các đô thị
Trên cơ sở phân chức năng vai trò các cơ sở công nghiệp trong hệ thống toàn vùng, lực lượng lao động cũng cần được điều phối để giảm sức ép cho các đô thị lớn, các trung tâm đô thị:
Thành phố Hồ Chí Minh với sự tập trung các loại hình công nghiệp đòi hỏi ít nhân lực lao động (như công nghiệp có hàm lượng tri thức và công nghệ cao).
Các tỉnh còn nhiều dư địa như Long An, Bình Phước, Tây Ninh, Tiền Giang nên bố trí các cơ sở công nghiệp thu hút công nhân như dệt may, công nghiệp bổ trợ, cơ khí phục vụ nông nghiệp…
Các loại hình công nghiệp cần nhiều lao động, gây ô nhiễm, công nghệ lạc hậu cần bố trí xa khỏi khu vực đô thị, dân cư;
2.3. Phân bổ các cơ sở công nghiệp trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn nguyên liệu và thế mạnh của tiểu vùng, địa phương
Trên cơ sở khai thác tốt nhất nguồn nguyên liệu tại chỗ, việc phân bố các cơ sở công nghiệp cần gắn với sự phân bố về nguồn nguyên liệu; chế biến sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm: giảm vận chuyển, khai thác thế mạnh tại chỗ, tạo động lực phát triển. Ví dụ các ngành công nghiệp chế biến nông sản bao gồm công nghiệp chế biến cao su, cà phê, bắp, khoai mì, điều, cây ăn quả, thịt heo, thịt gà, sản xuất muối công nghiệp, là những loại sản phẩm nông nghiệp có sản lượng khá ở Long An, Tiền Giang; ngành lâm sản, cây công nghiệp phù hợp với tỉnh Bình Phước; trong khi ngành công nghiệp năng lượng phù hợp với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với chức năng là trung tâm năng lượng, tận dụng nguồn dầu khí để phát triển các ngành như sau:
Công nghiệp dịch vụ dầu khí bao gồm các ngành nghề: sửa chữa tàu biển, sửa chữa giàn khoan, sản xuất thay thế các cấu kiện kim loại trên giàn khoan, sản xuất hóa chất phục vụ cho việc khoan thăm dò và khai thác, chống ăn mòn kim loại, công nghiệp cơ khí phục vụ dầu khí.
Công nghiệp sử dụng khí đốt làm nguyên liệu, nhiên liệu bao gồm các ngành sản xuất điện năng, sản xuất hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, sấy hải sản, các loại chất dẻo, sản xuất phân phối khí hóa lỏng LPG và các loại công nghiệp sử dụng khí đốt khác.
Công nghiệp dịch vụ cảng, hàng hải như công nghiệp cơ khí, đóng sửa tàu biển, sản xuất các thiết bị nâng hạ, vận chuyển, bốc xếp, công nghiệp đóng gói, bao bì, công nghiệp chế biến gắn liền với việc xuất nhập khẩu nguyên vật liệu và thành phẩm qua các cảng… các loại hình công nghiệp này cần được ưu tiên phát triển tại KCN Phú Mỹ, Đông Xuyên, Cái Mép…
Ngoài ra, với tiềm năng hải sản to lớn, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng cần khai thác thế mạnh của mình với ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản.
Tỉnh Bình Phước với ưu thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, thế mạnh về nguồn nguyên liệu, cần ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sau:
Công nghiệp chế biến nông, lâm sản, đặc biệt là các sản phẩm từ cao su, nhựa, nhân hạt điều, tiêu, cà phê.
Công nghiệp sản phẩm cao cấp từ mây, tre, nứa;
Công nghiệp sản xuất xi măng và công nghiệp khoáng sản phi kim loại khai thác từ nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương.
Tỉnh Đồng Nai cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp sau:
Ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm và đồ uống;
Các ngành sản xuất mới và có nhu cầu tiêu dùng lớn, như chế biến các sản phẩm thịt từ gia súc, gia cầm, các loại thực phẩm từ rau quả và các loại thực phẩm đóng hộp;
Ngành công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng trên cơ sở nguồn nguyên liệu sẵn có.
Long An vốn nổi tiếng là nơi sản xuất nhiều loại gạo thơm lại gắn với trục quốc lộ nối liền ĐBSCL, TP. Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Đông rất thích hợp với các KCN chế biến nông sản, kho bãi trung chuyển. Vì vậy các ngành công nghiệp sau đây là phù hợp với địa bàn tỉnh:
Công nghiệp xay xát lúa gạo;
Công nghiệp sản xuất đường, vải sợi, giấy, gạch xây dựng; thu hút nhiều lao động giản đơn, tận dụng nguồn nguyên liệu địa phương;
Công nghiệp cơ khí: nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, gắn với thị trường vùng ĐBSCL.
Nói tới Tiền Giang là nói tới vương quốc của trái cây Việt Nam với diện tích trên 75 ngàn ha, sản lượng trên 774 ngàn tấn (năm 2005). Do vậy nơi đây rất phù hợp với việc phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến rau quả. Bên cạnh đó, Tiền Giang còn có thế mạnh khác về thủy hải sản. Vì vậy, các ngành sau đây phù hợp để phát triển:
Công nghiệp chế biến rau quả;
Công nghiệp nuôi trồng và chế biến thủy hải sản;
Công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi;
Công nghiệp chế biến lương thực;
Công nghiệp dệt, may: với nguồn lao động dồi dào, đây là ngành đã được quan tâm đầu tư phát triển.
2.4. Phân bố các cơ sở công nghiệp đảm bảo tận dụng tốt hệ thống hạ tầng sẵn có
Việc bố trí các KCN khai thác lợi thế từ mạng giao thông và năng lượng sẵn có sẽ tạo thuận lợi cho các KCN rất nhiều trong việc thu hút đầu tư. Tuy nhiên, cần lưu ý đảm bảo sự phân bố này không quá tập trung vào một trục nhất định gây quá tải. Sự phát triển các khu công nghiệp cần đồng bộ với các chương trình, dự án phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Sự phân bố có định hướng các cơ sở công nghiệp cũng giúp cho việc triển khai các dự án phát triển hạ tầng và dịch vụ công nghiệp thuận lợi hơn và tập trung hơn.
Như trên đã phân tích, với lợi thế vị trí nằm tại cửa ngõ nối liền ĐBSCL, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông, Long An và Tiền Giang rất thuận lợi cho việc bố trí các cơ sở công nghiệp chế biến lương thực, kho bãi trung chuyển hàng hóa bằng đường thủy và bộ. ở Long An các hành lang sau có thể bố trí các KCN: Quốc lộ 1A qua Bến Lức, Thủ Thừa, thị xã Tân An (bố trí các KCN không ô nhiễm).
2.5. Phân bố các cơ sở công nghiệp tuân thủ theo chiến lược bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Phát triển công nghiệp luôn dẫn đến những tác động tiêu cực cho môi trường, vì vậy chiến lược phân bố các cơ sở công nghiệp cần được xây dựng với sự xem xét cẩn thận chiến lược bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên và an ninh năng lượng.
Cụ thể hơn, các yếu tố sau cần được chú ý khi quy hoạch phân bố các cơ sở công nghiệp: vấn đề bảo vệ nguồn nước; vấn đề khai thác hiệu quả nguồn nguyên liệu; vấn đề an ninh năng lượng; vấn đề bảo vệ sinh thái;
Có thể lồng ghép vào quy hoạch chiến lược phát triển vùng, quy hoạch chiến lược môi trường vùng.
Trong VHCM, cần hạn chế thành lập mới các KCN tại các địa phương: TP. Hồ Chí Minh, TP. Biên Hòa, Vũng Tàu… thay vào đó là khai thác hiệu quả hơn nữa những KCN sẵn có và tập trung phát triển các KCN cho những khu vực khác trong vùng đang có nhiều tiềm năng.
Dự thảo quy hoạch VHCM của Phân viện Quy hoạch Đô Thị - Nông thôn miền Nam có đề xuất khu vực bảo vệ nguồn nước thuộc địa bàn VHCM: kiến nghị các lưu vực chính sông Sài Gòn, sông Đồng Nai cần được bảo vệ chặt chẽ. Các cơ sở công nghiệp có nguy cơ xâm nhập, ô nhiễm phải bố trí ngoài vùng này.
(Lã Thị Kim Ngân - Tổng hội xây dựng Việt Nam) |