Tuần 50 - Ngày 17/07/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Phát triển công nghiệp Việt Nam
Vùng TP HCM những bất cập trong phân bố các cơ sở công nghiệp và sự phát triển bền vững
25/09/2007

1. Những bất cập về sự phân bố các cơ sở công nghiệp và các hệ quả về môi trường với sự phát triển bền vững
Tính đến tháng 12/2005 vùng TP. Hồ Chí Minh (VHCM) có 57 khu công nghiệp (KCN) tập trung đã được cấp phép, chiếm tỷ trọng khoảng 49,6% so với tổng số KCN cả nước.
Các KCN này tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh: 14, Đồng Nai: 15, Bình Dương: 12, Bà Rịa Vũng Tàu: 7. Các tỉnh còn lại có số lượng hạn chế như: Bình Phước: 1, Long An: 3, Tây Ninh: 4, Tiền Giang: 1. Trong tổng số đó có 43 KCN đã đi vào hoạt động (chiếm 53% các KCN đang hoạt động cả nước) với tổng diện tích là 18.483 ha (đã cho thuê được 75% (9.370 ha) thu hút 845.110 người lao động); 24 khu đang xây dựng (tổng diện tích là 10.329 ha) đã cho thuê được 12% đất công nghiệp (797 ha).
Tuy có tỷ lệ cao về số lượng cũng như quy mô các KCN, song sự phân bố các cơ sở công nghiệp này chưa hiệu quả và còn nhiều bất cập: vị trí, tính chất, chức năng và mật độ của các KCN chưa phù hợp với tiềm năng và lợi thế khai thác của từng địa phương và hơn thế nữa, không đảm bảo sự phát triển bền vững trong hiện tại và tương lai.
Các KCN tập trung phần lớn quanh khu vực giáp ranh TP. Hồ Chí Minh và ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu… sự phân bố thiếu hợp lý này tạo ra nhiều bất cập về hạ tầng kỹ thuật, phát triển không gian, phân bố lực lượng lao động cũng như đang gây những tác động có hại cho môi trường.
Những bất cập đó còn tạo nên những nguy cơ tương lai về sự phát triển thiếu bền vững.
1.1. Các cơ sở công nghiệp đan xen các khu dân cư gây ô nhiễm đến môi trường sống, đe dọa về cháy nổ và cản trở giao thông đô thị
- Ô nhiễm môi trường từ các cơ sở sản xuất công nghiệp
Theo số liệu được công bố tại hội thảo khoa học về “bảo vệ môi trường và phát triển bền vững tại Việt Nam” (Hà Nội, tháng 9/2003), thì TP. Hồ Chí Minh có 28.573 cơ sở sản xuất, trong đó có gần 3.000 cơ sở gây ô nhiễm, riêng cơ sở gây ô nhiễm nặng phải di dời có gần 1.000.
Tại các khu vực các quận Tân Bình, Bình Tân, quận 6, quận 10 có nhiều cơ sở công nghiệp nằm đan xen các khu dân cư, nhất là khu vực lưu vực kênh Tân Hóa - Lò Gốm, Kênh Đen, Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè. Theo thống kê của dự án kênh Tân Hóa - Lò Gốm, chỉ riêng trong khu vực lưu vực kênh khoảng 1.700 ha, có đến 30 cơ sở công nghiệp xen lẫn vào khu dân cư, và đa số trong số đó là các cơ sở gây ô nhiễm.
Từ các cơ sở công nghiệp này nước thải công nghiệp không được xử lý thải trực tiếp xuống kênh gây ô nhiễm nguồn nước kênh. Khu vực dân cư quanh đó luôn bị sự ô nhiễm tiếng ồn, không khí (bụi, mùi hôi, khói…) ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và sức khỏe. Nhịp sống người dân tại chỗ bị xáo trộn vì những ô nhiễm này diễn ra ngày đêm, nhất là vào thời gian cao điểm.
- Nước thải
Sự tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là nguồn nước.
Tại TP. Hồ Chí Minh chỉ có khoảng 65% lượng nước thải công nghiệp đã qua xử lý trước khi thải ra môi trường và chỉ có 6/15 KCN-KCX là có nhà máy xử lý nước thải tập trung. Kết quả kiểm tra đột xuất mới đây của thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường tại các KCN-KCX Tân Thuận, Tân Bình, Hiệp Phước, Cái Lái 2, Tây Bắc - Củ Chi, cho thấy trong số 48 mẫu nước thải đã qua xử lý có 45 mẫu không đạt tiêu chuẩn, nồng độ các chất BOD, COD vượt tiêu chuẩn cho phép gần 10 lần…
Kênh Tàu Hũ - Bến Nghé, mỗi ngày phải hứng hàng trăm nghìn mét khối nước thải từ sản xuất công nghiệp và khoảng 500 tấn rác sinh hoạt. Nồng độ SS trong nước thải đổ vào kênh là 845mg/lít - một chỉ số mà các nhà khoa học cho là không có khả năng duy trì sự sống. Một số con kênh TP. Hồ Chí Minh hiện là “kênh độc”, “kênh chết”…
Kết quả khảo sát của Viện Môi trường và Tài nguyên Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh vào đầu năm nay cho thấy, 44 KCN thuộc VHCM hàng ngày đã xả vào nguồn nước của hệ thống sông Đồng Nai 111.605m3 nước thải, trong đó có các chất độc hại như TSS, BOD, COD…
- Rác thải
Trong VHCM, nhiều KCN chưa có hệ thống xử lý rác thải công nghiệp tập trung. Có tới 300 cơ sở công nghiệp lớn trong vùng hàng ngày thải ra trên 200 tấn chất thải độc hại.
Sự ô nhiễm còn do quá trình chuyển đổi chức năng sử dụng đất: các loại đất khác thu hẹp, do bị chuyển đổi thành đất công nghiệp. “ở Bình Dương, những KCN phát triển mở rộng đã trở thành những lò xả chất thải tàn phá những vườn tược trù phú cả trăm năm nay ở vùng Lái Thiêu và dọc sông Sài Gòn”. Điều này không phù hợp và không chấp nhận được đối với quy hoạch kinh tế vùng.
- Đe dọa về cháy nổ
Các cơ sở công nghiệp nằm lẫn trong khu dân cư còn là mối nguy về cháy nổ cho cộng đồng. Trên thực tế, có nhiều vụ hỏa hoạn gây thiệt hại lớn về người và của mà nguyên nhân xuất phát từ các cơ sở công nghiệp.
- Tắc nghẽn giao thông
Các cơ sở công nghiệp nằm trong thành phố tạo ra luồng giao thông đi vào thành phố gây ách tắc và ô nhiễm. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở công nghiệp có sự tập trung số lượng lớn người lao động dẫn đến quá tải cho nhiều tuyến đường vào giờ cao điểm.
Theo báo cáo của công an TP. Hồ Chí Minh kẹt xe diễn ra thường xuyên tại các khu vực cửa ngõ của thành phố như: Ngã tư Hàng Xanh (hướng từ Biên Hòa về); ngã sáu Phú Lâm (hướng đi miền Tây về) ngã Sáu Gò Vấp (hướng từ Bình Dương về). Cũng theo báo cáo này, tại thời điểm các xe tải được phép vào thành phố, thường xuyên có tắc nghẽn giao thông trên những tuyến phố đó. Hơn nữa, xe tải còn là nguyên nhân của sự ô nhiễm tiếng ồn và không khí cho đô thị.
- Giải pháp tình thế - chưa hiệu quả
Toàn thành phố có 260 cơ sở trong “danh sách đen”, nghĩa là những cơ sở gây ô nhiễm nặng phải hoàn thành việc ra đi chậm nhất là vào cuối năm 2004.
Từ tháng 4/2002, UBND TP. Hồ Chí Minh đã có kế hoạch cụ thể về việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm, đồng thời cũng xác lập địa chỉ các khu công nghiệp tập trung nơi sẽ tiếp nhận các cơ sở gây ô nhiễm này. Cụ thể: các cơ sở gây ô nhiễm nước thải đến khu công nghiệp Hiệp Phước, các cơ sở gây nhiều tiếng ồn, hôi thối đến KCN Lê Minh Xuân, các cơ sở nhỏ có khu dân cư đan xen, quy hoạch theo mô hình làng nghề, đến KCN An Hạ…
Tuy nhiên theo ban chỉ đạo chương trình di dời các cơ sở gây ô nhiễm (thuộc UBND TP. Hồ Chí Minh) cho biết, từ 2002 đến tháng 9/2003 mới chỉ có 24 trong tổng số 260, chưa tới 10% số cơ sở thuộc diện đã thực hiện việc di dời.
Nguyên nhân một phần là do nguồn vốn, nhưng nguyên nhân quan trọng khác là khả năng tiếp nhận của các KCN trên địa bàn thành phố rất hạn chế đối với các cơ sở công nghiệp bị di dời. Do hiện nay các KCN của thành phố dường như không còn đất để có thể cho thuê. Các KCN đang gặp khó khăn trong việc đền bù giải tỏa thu hồi đất, trong khi nhiều dự án đầu tư lớn còn xếp hàng chờ đợi được KCN giao đất. Bất cập này chỉ có thể giải quyết thỏa đáng được trên phạm vi VHCM.
1.2. Các cơ sở công nghiệp tập trung quá nhiều trong khu vực trung tâm và các cửa ngõ vào TP. Hồ Chí Minh
Các cơ sở công nghiệp và các KCN phần lớn tập trung ven các quốc lộ 1A, 22, 13, 51… và gần cửa ngõ vào TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận TP. Hồ Chí Minh trong bán kính từ 30km đến 50km. Trong khi đó các tỉnh như Bình Phước, Tây Ninh, Tiền Giang có nhiều dư địa để xây dựng KCN thì lại có rất ít KCN. Có nhiều nguyên nhân liên quan đến sự tập trung mật độ cao các cơ sở công nghiệp tại khu vực này, nhưng chủ yếu là do những lợi thế về thị trường, về dịch vụ sẵn có của TP. Hồ Chí Minh (ngân hàng, văn phòng); về đầu mối giao thông, cảng biển, hàng không, các cửa ngõ đi các nước láng giềng và thế giới. Bên cạnh đó, một lý do cũng khá quan trọng đó là sự đổi mới và năng động trong các chính sách thu hút đầu tư của các địa phương này.
Sự bất cập: luồng hàng và người ra vào và đi xuyên thành phố
Sự tập trung các cơ sở công nghiệp quá gần thành phố và bám vào các trục quốc lộ, trong khi những đường vành đai của thành phố còn quá ít (hiện nay mới chỉ có đường vành đai Xa Lộ Đại Hàn) đã tạo nên những luồng người và hàng ra vào và đi xuyên qua thành phố gây ách tắc giao thông trong đô thị.
Luồng hàng hóa với phương tiện vận chuyển là các xe tải nặng vẫn hàng ngày đi xuyên qua thành phố và xuất phát từ hai đầu mối chính là khu vực Chợ Lớn và cảng Sài Gòn đi theo trục Đông - Tây đã giao cắt với luồng người từ các quận ven thành phố vào ra nội thành theo hướng Bắc - Nam dẫn đến ùn tắc tại các nút giao thông.
Bên cạnh đó, luồng người mà đa số là công nhân làm việc tại các cơ sở công nghiệp quanh thành phố vào những giờ tan ca tỏa ra từ các hướng trên các đường quốc lộ hướng về thành phố đã tạo nên sự ùn tắc vào giờ cao điểm.
Những bất cập này đòi hỏi sự giải quyết triệt để từ những định hướng quy hoạch về phân khu chức năng của thành phố và đặc biệt những giải pháp về giao thông thành phố và VHCM.
1.3. Sự phân bố về chức năng của hệ thống các khu công nghiệp trong vùng chưa hợp lý
Một bất cập khác trong sự phân bố các khu công nghiệp trên địa bàn VHCM là về cơ cấu của hệ thống các khu công nghiệp chưa được định hình. Cụ thể là không có sự phân chia chức năng và xác định vai trò của từng khu công nghiệp trong hệ thống.
Tuy các tỉnh trong VHCM đều có quy hoạch tổng thể phát triển các cơ sở công nghiệp riêng, nhưng toàn vùng lại thiếu quy hoạch chung, thiếu định hướng của cả vùng. Mỗi tỉnh đều cố gắng “thu hút dự án đầu tư” theo cách của mình mà không quan tâm đến định hướng vùng, ưu tiên vùng.
Ngoài tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi tập trung nhiều cơ sở công nghiệp thiên về dầu khí và năng lượng, hầu hết các khu/cụm công nghiệp trên địa bàn Vùng đều có chức năng tổng hợp. Các khu công nghiệp gần như giống nhau, trong đó chủ yếu phát triển những ngành nghề truyền thống như giày dép, dệt may, chế biến…, còn những ngành có tính hiện đại hóa cao, có tính chất là động lực cho sự phát triển kinh tế của tỉnh và vùng thì không đáng kể.
Mặc dù một số địa phương đã có những cơ sở công nghiệp hình thành từ những lợi thế tiềm năng của địa phương: Bà Rịa - Vũng Tàu: dầu khí, năng lượng; Long An: công nghiệp chế biến nông sản… nhưng nhìn chung sự phân bổ các cơ sở công nghiệp chưa được thực hiện theo chiến lược chung trong đó khai thác tốt nhất các thế mạnh của từng địa phương.
Để có thể phát triển bền vững và tạo ra sức hút đầu tư lớn hơn, các cơ sở công nghiệp cần được phân bố hợp lý hơn trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương và nằm trong định hướng chiến lược chung của cả hệ thống cấp vùng.
Vì vậy về tổng thể số KCN vừa thừa lại vừa thiếu: thừa vì có quá nhiều KCN có tính chất giống nhau; mà thiếu những KCN có chức năng chuyên biệt. Chính vì bất cập này mà sự cạnh tranh trở nên gay gắt nhưng về tổng thể lại không phát huy tiềm năng của cả hệ thống.
1.4. Phân bố chưa đồng bộ với kế hoạch phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật, xã hội
Nhu cầu phát triển các KCN không đồng bộ với sự phát triển của hệ thống hạ tầng kỹ thuật dẫn đến những KCN không có sức hút. Ví dụ: Tỉnh Bình Phước được đánh giá là có lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, tài nguyên rừng và khoáng sản. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng đô thị còn yếu không giao lưu được với các tỉnh trong nội bộ Vùng, khó tiếp cận đến các cửa ngõ vùng. Mạng lưới giao thông 270km dọc theo tuyến biên giới hiện chỉ mới đầu tư được 71km, tuyến đường sắt Dĩ An - Lộc Ninh chưa xây dựng, đường 322 nối trung tâm Bình Phước với Đồng Nai cũng chưa được nâng cấp mở rộng.
Ngay cả khi các KCN hình thành, nhưng thiếu kế hoạch phát triển đồng bộ các hạng mục hạ tầng xã hội khác cũng dẫn đến những bất cập. Trong VHCM, do các khu ở công nhân không được chú ý nên đã xảy ra tình trạng tư nhân xây dựng tự phát trái phép tạo ra những khu dân cư ngổn ngang thiếu những hạ tầng kỹ thuật và xã hội tối thiểu, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, phát sinh các tệ nạn xã hội.
Khu vực quanh TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, nơi tập trung khá dày các cơ sở công nghiệp tình trạng quá tải về hệ thống giao thông, hệ thống cấp nước, thoát nước… Ngược lại, nơi mà các cơ sở công nghiệp phân bố quá phân tán, khó khăn trong việc cung cấp dịch vụ hạ tầng.
1.5. Phát triển các cơ sở công nghiệp không bền vững
Do thiếu quy hoạch vùng, sự phát triển các KCN không bền vững về lâu dài. Cụ thể là một số địa phương sau một thời gian phát triển quá nhiều KCN đến nay quỹ đất đã không còn nhiều, khó khăn trong đền bù giải tỏa, trong khi các KCN hiện hữu thì gặp phải sự cạnh tranh gay gắt vẫn chưa phủ kín.
Mặt khác, tiềm năng hạ tầng, nguồn nước, năng lượng hiện hữu của các địa phương có hạn và không theo kịp tốc độ phát triển các KCN, nên nhiều KCN lâm vào cảnh không thu hút được nhà đầu tư. Ví dụ do sự chậm trễ của công trình cấp nước cho KCN Hiệp Phước, Trạm điện cho KCN Vĩnh Lộc, Lê Minh Xuân, đã ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các doanh nghiệp KCN và ảnh hưởng không tốt đến việc thu hút đầu tư của các KCN TP. Hồ Chí Minh.
Bên cạnh hai lý do trên, một lý do khiến sự phát triển các khu công nghiệp không bền vững là chiến lược về nguồn lao động đã không được chú ý đúng mức. Nhiều địa phương đang bị thiếu nguồn lao động trong khi nguồn lao động ngoại tỉnh thường không ổn định.
Sự không ổn định về thu hút đầu tư còn do các cơ sở công nghiệp phân bố theo địa giới hành chính, thiếu cơ chế phối hợp trong chiến lược sản phẩm của từng địa phương, tạo nên sự dư thừa tương đối về sản phẩm, năng lực sản xuất nhưng lại thiếu nguyên liệu trong từng địa phương. Điều này đang dần làm mất đi sức hút đầu tư của cả vùng.
Sự phát triển không bền vững chỉ có thể giải quyết trên bình diện vùng, với sự phối hợp chặt chẽ về chiến lược tổ chức, phân bố các cơ sở công nghiệp trên toàn vùng.
2. Đề xuất giải pháp
Theo các phân tích chiến lược của Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp đã phác thảo ra 5 tiêu chí định hướng cho phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam như sau:
1. Tăng trưởng bền vững.
2. Tạo vị thế trong phân công quốc tế.
3. Tiêu dùng bền vững công nghiệp.
4. Doanh nghiệp bền vững.
5. Chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội, phù hợp thể chế chính trị và an ninh.
Chiến lược phân bố các cơ sở công nghiệp liên quan mật thiết đến sự phát triển bền vững vùng theo các tiêu chí trên. Dưới đây là một số đề xuất cho vấn đề này.
2.1. Phân bố lại hệ thống cơ sở công nghiệp đảm bảo sự phân định rõ và cân đối về chức năng các KCN trong hệ thống
Chức năng các KCN trong VHCM cần được xác định thông qua một chiến lược chung của cả vùng, trong đó xác định các ngành công nghiệp mũi nhọn của cả vùng cũng như của từng địa phương.
Ông Ronal Klause, giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt nam cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần phải đầu tư công nghiệp theo chiều sâu, tránh tình trạng đầu tư theo chiều rộng (dàn trải) như hiện nay. Trong đó, cần đặc biệt tập trung vào ngành công nghiệp chế biến (chế biến nông, thủy sản và chế biến nguồn khoáng sản) để mang lại giá trị gia tăng cao. Đây chính là nền công nghiệp mũi nhọn, có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh nhất của Việt Nam.
Đồ án Quy hoạch Vùng TP. Hồ Chí Minh đang được nghiên cứu là cơ hội rất tốt để định hướng phát triển hệ thống các cơ sở công nghiệp trong toàn vùng. Trong đó chiến lược phát triển chung của cả vùng sẽ được xác định; vai trò, chức năng của hệ thống cơ sở công nghiệp của từng địa phương cũng được định rõ làm cơ sở cho kế hoạch phát triển công nghiệp của địa phương mình:
- Với ưu thế sẵn có, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nên tiếp tục được định hướng là trung tâm công nghiệp năng lượng của vùng và cả nước.
- Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh cần đẩy mạnh hơn nữa vai trò đầu tàu về phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, hàm lượng tri thức cao (tin học, viễn thông, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vi sinh, công nghiệp sạch).
- Đồng Nai với ưu thế của mình về lực lượng lao động tại chỗ, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất thiết bị điện - điện tử, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước.
Sự phân công hợp lý các khu vực chức năng của hệ thống các cơ sở công nghiệp giúp toàn bộ hệ thống phối hợp được với nhau, bổ sung cho nhau tạo nên một sức mạnh mới cho toàn bộ vùng và giải quyết bài toán nan giải cho từng tỉnh. Ví dụ. Bài toán di dời các cơ sở công nghiệp trong nội đô và bài toán chất thải rắn TP. Hồ Chí Minh, bài toán năng lượng cho tỉnh Bình Dương…
2.2. Phân bố hợp lý các cơ sở công nghiệp đảm bảo sự phân tán lao động hợp lý hơn trong vùng, giải quyết sức ép lớn cho các đô thị
Trên cơ sở phân chức năng vai trò các cơ sở công nghiệp trong hệ thống toàn vùng, lực lượng lao động cũng cần được điều phối để giảm sức ép cho các đô thị lớn, các trung tâm đô thị:
Thành phố Hồ Chí Minh với sự tập trung các loại hình công nghiệp đòi hỏi ít nhân lực lao động (như công nghiệp có hàm lượng tri thức và công nghệ cao).
Các tỉnh còn nhiều dư địa như Long An, Bình Phước, Tây Ninh, Tiền Giang nên bố trí các cơ sở công nghiệp thu hút công nhân như dệt may, công nghiệp bổ trợ, cơ khí phục vụ nông nghiệp…
Các loại hình công nghiệp cần nhiều lao động, gây ô nhiễm, công nghệ lạc hậu cần bố trí xa khỏi khu vực đô thị, dân cư;
2.3. Phân bổ các cơ sở công nghiệp trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn nguyên liệu và thế mạnh của tiểu vùng, địa phương
Trên cơ sở khai thác tốt nhất nguồn nguyên liệu tại chỗ, việc phân bố các cơ sở công nghiệp cần gắn với sự phân bố về nguồn nguyên liệu; chế biến sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm: giảm vận chuyển, khai thác thế mạnh tại chỗ, tạo động lực phát triển. Ví dụ các ngành công nghiệp chế biến nông sản bao gồm công nghiệp chế biến cao su, cà phê, bắp, khoai mì, điều, cây ăn quả, thịt heo, thịt gà, sản xuất muối công nghiệp, là những loại sản phẩm nông nghiệp có sản lượng khá ở Long An, Tiền Giang; ngành lâm sản, cây công nghiệp phù hợp với tỉnh Bình Phước; trong khi ngành công nghiệp năng lượng phù hợp với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với chức năng là trung tâm năng lượng, tận dụng nguồn dầu khí để phát triển các ngành như sau:
Công nghiệp dịch vụ dầu khí bao gồm các ngành nghề: sửa chữa tàu biển, sửa chữa giàn khoan, sản xuất thay thế các cấu kiện kim loại trên giàn khoan, sản xuất hóa chất phục vụ cho việc khoan thăm dò và khai thác, chống ăn mòn kim loại, công nghiệp cơ khí phục vụ dầu khí.
Công nghiệp sử dụng khí đốt làm nguyên liệu, nhiên liệu bao gồm các ngành sản xuất điện năng, sản xuất hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng, sấy hải sản, các loại chất dẻo, sản xuất phân phối khí hóa lỏng LPG và các loại công nghiệp sử dụng khí đốt khác.
Công nghiệp dịch vụ cảng, hàng hải như công nghiệp cơ khí, đóng sửa tàu biển, sản xuất các thiết bị nâng hạ, vận chuyển, bốc xếp, công nghiệp đóng gói, bao bì, công nghiệp chế biến gắn liền với việc xuất nhập khẩu nguyên vật liệu và thành phẩm qua các cảng… các loại hình công nghiệp này cần được ưu tiên phát triển tại KCN Phú Mỹ, Đông Xuyên, Cái Mép…
Ngoài ra, với tiềm năng hải sản to lớn, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng cần khai thác thế mạnh của mình với ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản.
Tỉnh Bình Phước với ưu thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, thế mạnh về nguồn nguyên liệu, cần ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sau:
Công nghiệp chế biến nông, lâm sản, đặc biệt là các sản phẩm từ cao su, nhựa, nhân hạt điều, tiêu, cà phê.
Công nghiệp sản phẩm cao cấp từ mây, tre, nứa;
Công nghiệp sản xuất xi măng và công nghiệp khoáng sản phi kim loại khai thác từ nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương.
Tỉnh Đồng Nai cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp sau:
Ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm và đồ uống;
Các ngành sản xuất mới và có nhu cầu tiêu dùng lớn, như chế biến các sản phẩm thịt từ gia súc, gia cầm, các loại thực phẩm từ rau quả và các loại thực phẩm đóng hộp;
Ngành công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng trên cơ sở nguồn nguyên liệu sẵn có.
Long An vốn nổi tiếng là nơi sản xuất nhiều loại gạo thơm lại gắn với trục quốc lộ nối liền ĐBSCL, TP. Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Đông rất thích hợp với các KCN chế biến nông sản, kho bãi trung chuyển. Vì vậy các ngành công nghiệp sau đây là phù hợp với địa bàn tỉnh:
Công nghiệp xay xát lúa gạo;
Công nghiệp sản xuất đường, vải sợi, giấy, gạch xây dựng; thu hút nhiều lao động giản đơn, tận dụng nguồn nguyên liệu địa phương;
Công nghiệp cơ khí: nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, gắn với thị trường vùng ĐBSCL.
Nói tới Tiền Giang là nói tới vương quốc của trái cây Việt Nam với diện tích trên 75 ngàn ha, sản lượng trên 774 ngàn tấn (năm 2005). Do vậy nơi đây rất phù hợp với việc phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến rau quả. Bên cạnh đó, Tiền Giang còn có thế mạnh khác về thủy hải sản. Vì vậy, các ngành sau đây phù hợp để phát triển:
Công nghiệp chế biến rau quả;
Công nghiệp nuôi trồng và chế biến thủy hải sản;
Công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi;
Công nghiệp chế biến lương thực;
Công nghiệp dệt, may: với nguồn lao động dồi dào, đây là ngành đã được quan tâm đầu tư phát triển.
2.4. Phân bố các cơ sở công nghiệp đảm bảo tận dụng tốt hệ thống hạ tầng sẵn có
Việc bố trí các KCN khai thác lợi thế từ mạng giao thông và năng lượng sẵn có sẽ tạo thuận lợi cho các KCN rất nhiều trong việc thu hút đầu tư. Tuy nhiên, cần lưu ý đảm bảo sự phân bố này không quá tập trung vào một trục nhất định gây quá tải. Sự phát triển các khu công nghiệp cần đồng bộ với các chương trình, dự án phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Sự phân bố có định hướng các cơ sở công nghiệp cũng giúp cho việc triển khai các dự án phát triển hạ tầng và dịch vụ công nghiệp thuận lợi hơn và tập trung hơn.
Như trên đã phân tích, với lợi thế vị trí nằm tại cửa ngõ nối liền ĐBSCL, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông, Long An và Tiền Giang rất thuận lợi cho việc bố trí các cơ sở công nghiệp chế biến lương thực, kho bãi trung chuyển hàng hóa bằng đường thủy và bộ. ở Long An các hành lang sau có thể bố trí các KCN: Quốc lộ 1A qua Bến Lức, Thủ Thừa, thị xã Tân An (bố trí các KCN không ô nhiễm).
2.5. Phân bố các cơ sở công nghiệp tuân thủ theo chiến lược bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Phát triển công nghiệp luôn dẫn đến những tác động tiêu cực cho môi trường, vì vậy chiến lược phân bố các cơ sở công nghiệp cần được xây dựng với sự xem xét cẩn thận chiến lược bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên và an ninh năng lượng.
Cụ thể hơn, các yếu tố sau cần được chú ý khi quy hoạch phân bố các cơ sở công nghiệp: vấn đề bảo vệ nguồn nước; vấn đề khai thác hiệu quả nguồn nguyên liệu; vấn đề an ninh năng lượng; vấn đề bảo vệ sinh thái;
Có thể lồng ghép vào quy hoạch chiến lược phát triển vùng, quy hoạch chiến lược môi trường vùng.
Trong VHCM, cần hạn chế thành lập mới các KCN tại các địa phương: TP. Hồ Chí Minh, TP. Biên Hòa, Vũng Tàu… thay vào đó là khai thác hiệu quả hơn nữa những KCN sẵn có và tập trung phát triển các KCN cho những khu vực khác trong vùng đang có nhiều tiềm năng.
Dự thảo quy hoạch VHCM của Phân viện Quy hoạch Đô Thị - Nông thôn miền Nam có đề xuất khu vực bảo vệ nguồn nước thuộc địa bàn VHCM: kiến nghị các lưu vực chính sông Sài Gòn, sông Đồng Nai cần được bảo vệ chặt chẽ. Các cơ sở công nghiệp có nguy cơ xâm nhập, ô nhiễm phải bố trí ngoài vùng này.

(Lã Thị Kim Ngân - Tổng hội xây dựng Việt Nam)

Cập nhật ( 31/01/2011 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân.”

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com