Cạnh tranh dựa vào công nghệ cao trở thành thách thức lớn nhất đối với sản xuất công nghiệp. Hơn nữa, cạnh tranh dựa trên các tiêu chí môi trường và xã hội đang trở thành xu thế đặc trưng theo hướng bền vững, bởi môi trường và xã hội trong doanh nghiệp là hệ quả của những “vấn đề công nghệ”. Đa phần các công nghệ lạc hậu là các công nghệ không thân thiện môi trường, công nghệ nhiều phát thải, tiêu tốn nguyên liệu, năng lượng và kém cạnh tranh. Công nghệ – môi trường – cạnh tranh ngày nay trở thành những vấn đề không thể tách rời trong xu thế toàn cầu hóa. Cạnh tranh ngày nay không chỉ phản ánh chỉ số giá cả, chất lượng thông thường mà càng có xu hướng bị ràng buộc bởi những quy định xuất xứ về môi trường. Quá trình tự do hóa thương mại đặt ra mục tiêu tiến dần tới xóa bỏ các hàng rào thuế quan và kỹ thuật thông thường, thì những ràng buộc về môi trường trở thành rào cản kỹ thuật quyết định nhất ảnh hưởng đến thương mại. Hướng tới một nền sản xuất cạnh tranh dựa trên sự sáng tạo và công
Gia tăng lượng thải là áp lực môi trường phải giải quyết cùng với quá trình công nghiệp hóa. Trung Quốc hiện đang phải trả giá do phát triển công nghiệp quá nóng thời gian qua. Dự tính Trung Quốc sẽ phải chi khoảng 450 tỷ USD cho việc làm sạch môi trường, tương đương 15% tổng sản phẩm nội địa (GDP). Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với những vấn đề tương tự do gia tăng lượng thải và ô nhiễm trong công nghiệp. Theo dự báo của Ngân hàng thế giới, với mức tăng GDP khoảng 7-8%/năm như hiện nay, thì mức độ ô nhiễm môi trường bởi chất thải có thể gấp 4-5 lần hiện nay vào năm 2020. Cũng theo dự báo đó, nhu cầu nước cho công nghiệp có thể tăng trưởng 7%/năm trong giai đoạn đến 2020.
Phát thải chất thải rắn công nghiệp dự báo sẽ vẫn tăng, bất chấp những cố gắng trong việc áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn do việc gia tăng nhanh hơn số lượng các cơ sở công nghiệp từ đây đến 2020. Đặc biệt, tính chất của chất thải rắn công nghiệp cũng sẽ thay đổi theo hướng tăng dần tỷ lệ chất thải nguy hại do phát triển thêm nhiều ngành công nghiệp mới, như hóa chất, điện tử, lọc hóa dầu, dệt nhuộm… Dự báo đến năm 2010, tổng lượng chất thải rắn công nghiệp có thể lên tới 3,2 triệu tấn, trong đó 15% là chất thải nguy hại.
Phát thải khí nhà kính, năm 1994, ngành công nghiệp và năng lượng đã phát thải tổng 29,4 triệu tấn quy đổi CO2, chiếm 28,4% tổng phát thải của cả nước. Tuy nhiên, lượng phát thải đã tăng lên nhanh chóng, và đến năm 2000 lượng thải của ngành đã gấp đôi thời điểm 1994, đạt mức 45,9 triệu tấn CO2 chiếm 45% tổng lượng thải cả nước. Năm 2002, tổng tải lượng khí CO2 toàn ngành công nghiệp đạt 70,5 triệu tấn, tăng 1,5 lần so với năm 2000. Trong đó, lĩnh vực năng lượng là nơi phát thải khí CO2 nhiều nhất, chiếm 87% lượng thải khí toàn Ngành và xấp xỉ 40% lượng thải cả nước. Mức tăng trưởng lượng khí thải ước khoảng 17%/năm.
Theo dự báo của Văn phòng công ước về Biến đổi khí hậu, lượng phát thải khí từ hoạt động công nghiệp và năng lượng có thể lên tới 105,5 Tg CO2 vào năm 2010 và 196,9 Tg CO2 vào năm 2020.
Những điểm nóng về ô nhiễm môi trường đến năm 2010 có thể là:
(i) Ô nhiễm tại các khu công nghiệp;
(ii) Ô nhiễm làng nghề;
(iii) Ô nhiễm chất thải nguy hại,
Khu vực thành phố Hồ Chí Minh có thể biến thành Bangkok thứ hai với những áp lực gia tăng về môi trường, vấn đề xã hội và tắc nghẽn giao thông.
Hội nhập, chuyển đổi và thích nghi đồng nghĩa với ràng buộc bởi các cam kết song phương và đa phương. Những cam kết trong khuôn khổ WTO, ASEAN, EU… và với từng nước. Đặc biệt, gần đây, những cam kết về môi trường có xu hướng được thể chế hóa thành các luật và quy định như: quy định về hàm lượng các nguyên tố trong sản phẩm không chỉ liên quan tới sức khoẻ (theo yêu cầu của WHO) mà còn tới môi trường, các quy định ngày càng khắt khe về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, các quy định về nhãn sinh thái, trách nhiệm đến cùng… Các quy định cũng khác nhau ngay trong cùng nhóm nước, có những sản phẩm có khả năng lưu hành ở phần lớn các nước EU nhưng chưa chắc được bán ở các nước Bắc Âu. Việt Nam sẽ phải thích nghi dần với những vụ kiện tương tự diễn ra thường xuyên.
Các quy định mới còn liên quan đến các hạn chế về đầu tư, vốn vay, điều kiện sản xuất, xuất xứ của sản phẩm. Một số dự án đầu tư nước ngoài khi tiếp cận các nguồn vốn thông qua ngân hàng đòi hỏi phải có chứng chỉ về môi trường. Các nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến môi trường, không phải thuần tuý vì môi trường, nhưng nếu không có những đảm bảo về môi trường sẽ không thể phát triển bền vững, đe doạ đến các khả năng thanh khoản. Không chỉ như vậy, các chương trình hỗ trợ quốc tế còn ràng buộc với lĩnh vực xã hội: vấn đề về giới, xóa đói giảm nghèo, an toàn sức khoẻ. Một số thị trường đòi hỏi những chứng chỉ bắt buộc như SA 8000, an toàn hóa chất, HACCP.v.v… Tính phức tạp và lồng ghép ngày càng sâu rộng trong các quy định, ràng buộc bởi các yếu tố tổng hợp môi trường – kinh tế – xã hội phản ánh xu hướng phát triển bền vững của nhiều nước.
Quá trình hài hòa tiêu chuẩn cũng đang đặt ra nhiều thách thức phải đổi mới căn bản cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngành công nghiệp, các cơ sở thí nghiệm, chứng nhận, công nhận, quy cách kiểm tra, lấy mẫu, đến bao gói vận tải, nhãn mác, hệ thống báo cáo.v.v… Hòa nhập là quá trình thích ghi với những thông lệ quy định của mỗi nước và từng nhóm nước, đây là quá trình hết sức phức tạp. Tính khác nhau trong các quy định của mỗi nước là tồn tại khách quan buộc các nước khác phải xem xét điều chỉnh, thậm chí phải đấu tranh hoặc thoả hiệp trong nhiều trường hợp. Đối với các nước đang phát triển, sự bất công và có thể bị áp đặt bởi quy định của nước lớn là không tránh khỏi.
Khủng hoảng năng lượng cũng là vấn đề đáng quan tâm.
Theo dự báo, tổng nhu cầu năng lượng cả nước đã tăng từ 4,14 triệu TOE năm 1990 lên 12,2 triệu TOE năm 2000, năm 2004 ước khoảng 17,7 triệu TOE, mức tăng trung bình 10,8%/năm. Ba ngành tiêu thụ nhiều năng lượng là: công nghiệp, giao thông và thương mại dịch vụ, trong đó công nghiệp tiêu thụ nhiều nhất, chiếm khoảng 42% tổng tiêu thụ năng lượng năm 2004. Mức tăng tiêu thụ bình quân của công nghiệp giai đoạn vừa qua là 12,2%/năm.
Cường độ năng lượng của Việt Nam có xu hướng tăng do quá trình tăng cường công nghiệp hóa, từ 350 (kgOE/1000 USD GDP) năm 1990 lên 487 năm 2000 và khoảng 545 năm 2004. Hiện tại, cường độ năng lượng Việt Nam gấp 1,5 lần Thái Lan và gấp 2 lần mức bình quân thế giới. Đa số các ngành công nghiệp là những ngành thuộc loại có cường độ năng lượng cao.
Dự báo đến 2020, tổng nhu cầu năng lượng cả nước vào khoảng 64 triệu TOE quy đổi, trong đó riêng nhu cầu công nghiệp vào khoảng 31 triệu, chiếm gần một nửa so với nhu cầu cả nước. Ngành Công nghiệp có tốc độ tăng nhu cầu năng lượng bình quân giai đoạn 2001- 2020 khoảng 9,7%-10,2%/năm; cả giai đoạn 2021-2050 là 4,8-4,9%/năm. Khả năng thiếu hụt xấp xỉ 30-40%. Dự báo, những xung đột giữa các quốc gia dầu mỏ có thể đẩy giá dầu mỏ lên cao nữa so với hiện nay.
Về điện, quy hoạch tổng sơ đồ điện V phê duyệt lần đầu dự báo tăng trưởng nhu cầu giai đoạn 2001-2010 là 10-13%/năm. Tuy nhiên, thực tế trong 2 năm gần đây, tăng trưởng mỗi năm đã đạt trên 17%. Để đáp ứng nhu cầu của các ngành trong tiến trình công nghiệp hóa, Chính phủ đã cho phép đưa ra dự báo điều chỉnh lên 15%/năm với tổng công suất đặt 13.600 MW. Mặc dầu đã có những nỗ lực đầu tư rất lớn nhằm thỏa mãn nhu cầu điện trong nước, dự báo đến năm 2010, bình quân điện/đầu người ở Việt Nam mới chỉ bằng Thái Lan hiện tại (khoảng 2000 kWh/người). Nguy cơ thiếu hụt năng lượng điện là không tránh khỏi, nếu không có chính sách tiết kiệm.
Về than, đến 2010 ước khai thác được khoảng 26-27 triệu tấn/năm, trong đó khoảng 50% dùng cho phát điện, khoảng 30% dành để xuất khẩu, còn lại dùng cho các nhu cầu khác. Kết quả điều tra địa chất cũng cho thấy, trữ lượng bể than Quảng Ninh của Việt Nam đang giảm dần, sau 2010 trữ lượng khai thác sẽ dần ổn định, không tăng, nếu không có những nguồn khác bù đắp.
Các dạng năng lượng khác mới như địa nhiệt, năng lượng gió, mặt trời… đang trong quá trình thử nghiệm, tuy nhiên giá thành còn đắt, nên chưa phổ biến.
Nguy cơ cạn kiệt nguồn nước đến 2020 do quá trình gia tăng dân số và nhu cầu cho sản xuất ngày càng tăng cao làm cho khả năng đáp ứng nhu cầu này giảm dần. Theo đánh giá của Viện Khí tượng thủy văn, mặc dù tài nguyên nước ở Việt Nam là khá phong phú, tuy nhiên, mức đảm bảo nước trung bình/đầu người một năm đã giảm từ 12.800 m3/người năm 1990 xuống còn 10.900 m3/người năm 2000, và có khả năng chỉ còn khoảng 8.500 m3/người vào năm 2020. Nguồn nước của Việt Nam nhìn chung phân bố không đồng đều giữa các vùng. Mức bảo đảm nước của một số hệ thống sông như sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã đạt 5.000 m3/người, thì Đồng Nai chỉ gần 3.000 m3/người. Theo những đánh giá gần đây, đến 2025 Việt Nam trở thành nước thiếu nước với mức nước trung bình dưới 4000m3/người.
Theo kết quả đánh giá “cân bằng bảo vệ và sử dụng nguồn nước quốc gia”, thì tổng lượng nước cần dùng của cả nước chiếm 8,8% tổng lượng dòng chảy hàng năm đã tăng lên 12,5% vào năm 2000 và ước đạt 16,5% vào năm 2010. Đến năm 2010, nhu cầu nước dùng cho sản xuất công nghiệp sẽ tăng gần gấp đôi so với hiện nay, đạt mức 11 tỷ m3. Cùng với sự gia tăng nhu cầu sử dụng nước trong công nghiệp là nguy cơ ô nhiễm và làm cạn kiệt nguồn là rất lớn. Theo báo cáo của Liên hợp quốc, hiện khoảng 12.000 km3 nước sạch ô nhiễm do quá trình sản xuất không được kiểm soát. Nếu ngay từ bây giờ, Việt Nam không có biện pháp quản lý tốt tài nguyên nước, xử lý nước thải công nghiệp, nguy cơ khan hiếm và cạn kiệt nguồn nước đã được dự báo trước là không tránh khỏi.
Hơn nữa, nguy cơ tiềm tàng còn xuất phát từ chỗ 2/3 lưu vực các sông ở Việt Nam đều do các nước lân cận kiểm soát. Sự biến động dòng chảy và nhu cầu sử dụng tại các nước láng giềng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới cân bằng nước của Việt Nam. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm và trở thành thách thức rất lớn trong chiến lược sử dụng hợp lý tài nguyên.
Năng lực thể chế cho phát triển bền vững chưa tương xứng. Phát triển bền vững trong công nghiệp những năm qua mới chỉ mang tính kết hợp, chủ yếu tập trung cho mục tiêu kinh tế. Thách thức môi trường và phát triển bền vững ngày càng gia tăng cùng quá trình công nghiệp hóa đang đòi hỏi những thay đổi tương ứng trong quản lý và cả hệ thống chính sách để theo kịp xu hướng phát triển chung và đảm bảo hiệu quả bền vững trong công nghiệp. Tuy nhiên, theo đánh giá của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), tổ chức và quản lý môi trường công nghiệp như hiện nay là không tương xứng và chưa đáp ứng nhiệm vụ đặt ra. Quản lý môi trường ở các ngành và địa phương quá mỏng, không chuyên nghiệp. Thiếu hẳn tổ chức cần thiết ở cấp cơ sở (quận, huyện, phường, xã). Cả nước trung bình chỉ có 4 cán bộ môi trường/1 triệu dân (Trung Quốc 20/1 triệu dân, Thái Lan 30/1 triệu dân, Malaysia 100 người/1 triệu dân). Ngay ở Bộ Công nghiệp, hệ thống quản lý môi trường ngành cũng chưa được định hình rõ ràng. Kinh phí hàng năm quá ít, cộng với cơ sở hạ tầng yếu kém (con người và trang thiết bị) đang làm tăng thêm khó khăn trong quản lý.
Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường đã đi vào thực hiện nhưng còn thiếu các văn bản dưới luật. Hệ thống các cơ chế chính sách vẫn còn chưa đáp ứng với những thay đổi mới, thiếu hụt nghiêm trọng nhiều chính sách cơ sở làm nền tảng và công cụ cho việc quản lý, trong đó có chính sách và tiêu chuẩn bền vững vùng, các định chế tài chính tương thích. Các thể chế quy định, hướng dẫn lồng ghép chưa có, năng lực quản lý và nhân lực cũng chưa phát triển tương xứng. Năng lực quản lý theo hướng bền vững của doanh nghiệp còn xa mới đáp ứng yêu cầu. Hệ thống các đầu mối chuyên trách, đội ngũ cán bộ môi trường có năng lực thiếu hụt nghiêm trọng, trong khi đào tạo vừa ít, vừa không sát với thực tế. Đến nay, hệ thống tổ chức quản lý môi trường và phát triển bền vững theo chuyên ngành chưa được hình thành. Trong các chiến lược quy hoạch phát triển ngành, nội dung bảo vệ môi trường và phát triển bền vững chưa được các nhà quản lý quan tâm đúng mức.
Lê Minh Đức
(Nguồn: Tạp chí Công nghiệp Việt Nam)
|
|