“Phát triển bền vững công nghiệp” (PTBV), được đề cập đến trong nhiều văn bản của ngành Công nghiệp, thâm chí đã có cả một chiến lược về PTBV công nghiệp được sơ thảo. Bài viết dưới đây sẽ đề cập đến một vài ý kiến về vấn đề phát triển bền vững.
Phát triển bền vững được định nghĩa như là “sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu của họ”.
Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp quốc (UNIDO) trong nhiều năm đã cố gắng đưa ra các giải thích làm rõ nghĩa hơn khái niệm này giúp định hướng cho các hành động. Định nghĩa đầu tiên được đưa ra vào những năm 80 thế kỷ XX cho rằng, PTBV công nghiệp là một cách tiếp cận đối với phát triển công nghiệp, cho phép giải hoà giữa tăng dân số, tăng trưởng công nghiệp và bảo vệ môi trường.
Trong cố gắng đầu tiên này, khái niệm dường như bỏ qua tính hình thức mà đề cập thẳng đến vấn đề cốt lõi nhất của phát triển công nghiệp, đó là tăng trưởng công nghiệp, tăng dân số và bảo vệ môi trường. Phát triển công nghiệp tất yếu sinh ra phát thải ô nhiễm, phát triển cũng đồng nghĩa với những hy sinh nhất định về môi trường, đó là hai nội dung không tách rời, hết sức mâu thuẫn nhưng luôn tồn tại. Bên cạnh đó, công nghiệp góp phần quan trọng giải quyết vấn đề dân số bằng cách thoả mãn ngày càng cao các nhu cầu của họ. Song chính nhu cầu thái quá về tiêu dùng buộc ngành công nghiệp phải tạo ra nhiều sản phẩm hơn và hệ quả là làm gia tăng quá trình khai thác tài nguyên và tác động xấu tới môi trường là điều không thể tránh khỏi. Làm thế nào để hài hoà giữa các vấn đề hết sức mâu thuẫn nhưng lại thống nhất và đâu là giới hạn của sự bền vững cần phải tìm kiếm, đó là mấu chốt của tiếp cận phát triển công nghiệp bền vững.
ở Việt Nam, khi được hỏi thế nào là bền vững công nghiệp? Hay công nghiệp phải như thế nào mới coi là bền vững? Các chuyên gia đều cho rằng, phát triển bền vững công nghiệp đơn giản là khả năng tồn tại lâu dài và duy trì gia tăng lợi nhuận. Điều này đúng cả về khía cạnh doanh nghiệp và quốc gia. Tuy nhiên, khi bàn về vấn đề làm thế nào để duy trì được lâu dài cả về tăng trưởng và giá trị gia tăng thì câu trả lời trở nên phức tạp và bắt đầu khác nhau. Các ý kiến chung cho rằng, công nghiệp bền vững là quá trình hài hoà các lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường. Khó khăn ở chỗ, không dễ nhận diện/gọi tên các hành động đáp ứng của công nghiệp mang tính xã hội hay môi trường. Trong thực tiễn, đã có sự nhầm lẫn giữa tiêu chí và mục tiêu làm phát sinh một chiến lược riêng về phát triển bền vững, tồn tại song song và độc lập với các chiến lược phát triển với các mục tiêu riêng rẽ về kinh tế, xã hội, và môi trường. Có quan niệm cho rằng, phát triển bền vững là sự tổng hợp của 3 chiến lược là, phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Song liệu có thể cộng dồn một cách cơ học ba vấn đề đó được không? Trên thực tế, nhiều hoạt động công nghiệp vốn tự thân đã hàm chứa các nội dung bền vững rất khó phân biệt. Cụ thể, như vấn đề giảm tiêu hao năng lượng, nguyên liệu rất phổ biến trong sản xuất là vấn đề môi trường hay kinh tế do tính đa mục tiêu vừa hướng tới hiệu quả của sản xuất, nhưng đồng thời lại làm giảm phát thải. Những vấn đề cải thiện điều kiện, môi trường làm việc của công nhân, phát triển công nghiệp nông thôn, lâu nay vẫn đang được hiểu như là vấn đề môi trường và kinh tế hơn là xã hội. Rõ ràng, phát triển bền vững công nghiệp không thể là phép cộng máy móc của những vấn đề tách rời, mà chỉ có thể lồng ghép hoặc được nhấn mạnh hơn do tính chất và đặc trưng rất riêng của sản xuất công nghiệp.
Thực ra, phát triển bền vững không phải là mục tiêu, mặc dù có vẻ như mọi quá trình, hành động phát triển đang hướng đến đó. Trong các định nghĩa của UNIDO, phát triển bền vững được giải thích như là một cách tiếp cận hay mô hình đối với phát triển công nghiệp. Với tư cách là thước đo hay tiêu chuẩn, hay cách tiếp cận, phát triển bền vững được đem ra soi rọi các chiến lược đã có, xem xét các quan điểm, hành động dưới góc nhìn rộng hơn, với những yêu cầu đòi hỏi toàn diện hơn mà có thể trước đây nhiều khía cạnh chưa được tính đến. Phát triển bền vững giống như sự bổ sung các điều kiện của bài toán phát triển, đặt ra các điều kiện, tiêu chí nhằm tìm kiếm các nghiệm thích hợp; sàng lọc và kiểm chứng các quan điểm và hành động hướng đến các lựa chọn tốt hơn, cân bằng được nhiều mục tiêu hơn không chỉ là những lợi ích kinh tế duy nhất. Vì vậy, phát triển bền vững góp phần định hướng cho các hành động nhằm tạo ra nhiều hơn các đảm bảo cho phát triển lâu dài. Một chiến lược phát triển công nghiệp được xét qua lăng kính hay tiêu chí của phát triển bền vững có thể phải thay đổi, làm mới, bổ sung và điều chỉnh, song đó vẫn chỉ là chiến lược phát triển. ở đây, sự điều chỉnh hữu cơ xảy ra bên trong nội hàm của chiến lược không phải là phép cộng 3 nội dung chiến lược.
Rõ rệt nhất có thể thấy, trước đây, nguồn lực (tự nhiên và xã hội) chỉ được xem xét thuần tuý như một hình thức đầu vào của quá trình sản xuất, được đánh giá đơn giản là “đủ hay thiếu” như một nhu cầu đối với phát triển công nghiệp, thì nay trong cách tiếp cận mới, nguời ta bắt đầu chú trọng nhiều hơn đến cách thức khai thác và sử dụng chúng sao cho ít “ảnh hưởng nhất”, tiết kiệm nhất và lâu dài hơn là đem lại hiệu quả tổng thể cao nhất. Cũng như vậy, sản xuất trước đây mới chỉ tập trung vào mục tiêu sản phẩm và lợi nhuận, thì nay đã cân nhắc nhiều hơn đến ảnh hưởng của phát thải và ô nhiễm, cố gắng tìm kiếm các tiếp cận thân thiện hơn. Những vấn đề phân bố công nghiệp ngày nay được xem xét toàn diện hơn, bởi mỗi phương án hàm chứa các nội dung và những tác động kinh tế-xã hội và môi trường khác nhau phản ánh các xu hướng lựa chọn. Rõ ràng, sự phân bố sai lệch có thể ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp xét trên khía cạnh kinh tế-môi trường và xã hội cần phải cân nhắc. Cũng từ trong cách nhìn mới, người ta bỗng nhận thấy rằng, cùng một đầu vào, nhưng bằng những cách thức hay lựa chọn khác nhau, vẫn có thể vừa đảm bảo tăng trưởng nhưng phát thải ô nhiễm lại ít hơn, góp phần lớn hơn trong giải quyết những vấn đề xã hội. Chính vì vậy, sự lựa chọn càng ngày càng nghiêng về những cách thức mới bền vững.
Phát triển công nghiệp được xem như là tập hợp các lựa chọn, và có thể tạo ra những hiệu ứng bền vững khác nhau. Rõ ràng, một sự phát triển cân đối hợp quy luật sẽ có những đảm bảo lâu dài hơn là sự phát triển thái quá chỉ nhằm đến mục tiêu trước mắt. Làm thế nào để hỗ trợ cho quá trình ra quyết định và lựa chọn, phát triển bền vững công nghiệp đặt ra các tiêu chí làm thước đo để xem xét. Xét về lý thuyết, các chuẩn mực hay thước đo cũng có thể thay đổi cho phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển, thậm chí có cả đột biến như những thay đổi ở Mỹ sau sự kiện “11 tháng 9”. Các phân tích chiến lược của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp đã phác thảo ra 5 tiêu chí định hướng cho phát triển bền vững công nghiệp Việt Nam như sau:
1- Tăng trưởng bền vững;
2- Tạo vị thế trong phân công quốc tế;
3- Tiêu dùng bền vững công nghiệp;
4- Doanh nghiệp bền vững;
5- Chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội, phù hợp thể chế chính trị và an ninh.
Trong nội dung thứ nhất đề cập đến “ Tăng trưởng bền vững” bao hàm cùng lúc các đảm bảo tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng. Trong đó, các bảo đảm tăng trưởng đã được đề cập nhiều trong các nghiên cứu và nội dung chiến lược và cả quy hoạch phát triển công nghiệp thời gian qua, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng nhanh trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá đến năm 2020. Thực tế là, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao trong nhiều năm, tuy nhiên về chất lượng tăng trưởng vẫn chậm được cải thiện. Trong các công trình nghiên cứu, vấn đề này còn ít được đề cập hoặc chưa tương xứng với nội dung tăng trưởng. Rõ ràng, bền vững chỉ đạt được khi có tăng trưởng, nhưng phải có hiệu quả hay tạo ra các giá trị đóng góp ngày càng lớn.
Chất lượng tăng trưởng thể hiện ở 3 yếu tố chính: Giá trị gia tăng (VA), năng lực cạnh tranh và cơ cấu công nghiệp.
- Giá trị gia tăng - Value Added (VA) là chỉ tiêu quan trọng bậc nhất phản ánh chất lượng tăng trưởng. Hiện tại, do hệ thống thống kê của Việt Nam chưa thể hiện được các giá trị gia tăng nên chưa đưa ra được các tiêu chí định lượng đánh giá, trong khi đó giá trị sản xuất công nghiệp (GO) không phản ánh được các giá trị thật làm cơ sở cho các điều chỉnh về chất. Tuy nhiên, các nghiên cứu bước đầu đã cho thấy, có sự không tương xứng giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Giá trị gia tăng thấp có thể là một biểu hiện đặc trưng cho thời kỳ đầu phát triển công nghiệp hoá dựa vào gia công, song nếu không nhận diện và điều chỉnh kịp thời sẽ tạo ra các mầm mống không bền vững trong tương lai.
- Năng lực cạnh tranh phản ánh những giá trị lợi thế vô hình và hữu hình, những cơ hội tạo ra lợi nhuận của toàn bộ nền công nghiệp. Trong bối cảnh chứng khoán hoá nền kinh tế, các yếu tố cạnh tranh quyết định bởi giá trị được đánh giá trên thị trường chứng khoán. Các giá trị được xây dựng trên cơ sở niềm tin của các nhà đầu tư, bởi các dấu hiệu đảm bảo cho tăng trưởng lâu dài. Hiện tại, có rất nhiều cách đánh giá năng lực cạnh tranh như tính sáng tạo, hệ thống đổi mới, môi trường chính sách....Tuy nhiên, do số liệu thống kê chưa chính xác và còn hạn chế, hệ thống kiểm toán chưa trở thành bắt buộc và không đầy đủ nên chưa đưa ra được các yếu tố để điều chỉnh. Năng lực cạnh tranh trở thành yếu tố quan trọng trong đánh giá chất lượng tăng trưởng.
- Cơ cấu công nghiệp là một trong ba nội dung tạo nên chất lượng tăng trưởng. Cơ cấu bền vững là cơ cấu phản ánh được xu thế phát triển chung (sản phẩm/công nghệ), đảm bảo các cân đối nội tại thượng-hạ nguồn, công nghiệp phụ trợ...và xuất/nhập khẩu. Đó là cơ cấu đa dạng nhưng thống nhất và có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau, cho phép tạo ra các giá trị gia tăng lớn nhất. Trong đó, hàm lượng công nghệ và chế biến sâu trở thành động lực chính của tăng trưởng, quyết định nội dung về chất của cơ cấu. Bên cạnh đó, công nghiệp bền vững còn phải được hỗ trợ bởi hệ thống đổi mới và nghiên cứu triển khai có năng lực, cơ sở thúc đẩy năng suất và chất lượng.
Tiêu chí thứ hai Tạo vị thế trong phân công quốc tế được đặt ra trong bối cảnh hội nhập và tự do hoá thương mại. Xuất hiện xu hướng “ tiêu chuẩn hoá ”, phân đoạn sản xuất và số hoá nền công nghiệp toàn cầu, phân công quốc tế trở nên phổ biến, dễ chia sẻ hơn, nhưng cũng cạnh tranh hơn. “Buôn có bạn, bán có phường” trở thành nguyên tắc của Việt Nam trong cuộc cạnh tranh giành vị thế trên bản đồ công nghiệp thế giới. Nền công nghiệp Việt Nam mặc dù nhỏ bé, nhưng phải có chỗ đứng trong không gian chung, cân bằng được các quan hệ nhiều chiều, trở thành một mắt xích trong mạng lưới phân công quốc tế như đóng tầu, dệt may và tới đây có thể là một số ngành công nghiệp phụ trợ, công nghệ phần mềm... Muốn vậy, Việt Nam phải chấp nhận luật chơi chung, hoà nhập với các thông lệ và quy định quốc tế, tạo dựng năng lực thu hút đầu tư và trở thành sự lựa chọn của nhiều công ty đa quốc gia, giành giật các “phân đoạn quốc tế” có lợi cho phát triển trên một số lĩnh vực công nghiệp, nâng dần tỷ trọng sản phẩm “made in Vietnam” trong tổng GDP công nghiệp.
Nội dung thứ 3 đề cập đến tiêu dùng bền vững công nghiệp. Trung Quốc hiện đang phải trả giá cho những vấn đề môi trường bởi phát triển công nghiệp quá nóng. Điều đó đã trở thành bài học cảnh tỉnh cho các nước mới bước vào con đường phát triển công nghiệp hoá như Việt Nam. Nguyên tắc quan trọng của phát triển bền vững là hài hoà giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Trong công nghiệp, phát triển phải đi đôi với giảm thiểu ô nhiễm và phát thải như đã được đề cập trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Tuy nhiên, điểm chốt của vấn đề bảo vệ môi trường trong công nghiệp chính là tiêu dùng công nghiệp. Bởi tiêu dùng công nghiệp là nguyên nhân cơ bản tạo ra chất thải và các tác động tới môi trường và cả xã hội. Sản xuất công nghiệp không tránh khỏi tiêu dùng tài nguyên đất đai, nước, năng lượng và nguyên liệu khoáng và cả con người, song tiêu dùng thế nào để các tài nguyên tái tạo có thể tái tạo được và giảm thiểu thấp nhất sự lãng phí các nguồn tài nguyên không tái tạo. Tiêu dùng bền vững chính là cách phòng ngừa tốt nhất, đảm bảo cả ba lợi ích cho hiện tại và tương lai.
Có 2 nội dung “tiêu dùng công nghiệp” quan trọng: tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sản phẩm công nghiệp.
Tiêu dùng sản xuất bao hàm cả việc khai thác các nguồn tài nguyên phục vụ sản xuất cần phải được thực hiện sao cho tiết kiệm và hiệu quả, giảm thấp nhất chi phí tài nguyên trên 1 đơn vị sản phẩm hay giá trị công nghiệp tạo ra. Thay thế tài nguyên truyền thống bằng tài nguyên tri thức (tri thức công nghệ), phát triển con người nhằm tạo ra ngày càng nhiều các nguồn lực tri thức thay thế với khả năng lớn hơn. Giảm tiêu dùng tài nguyên chính là giảm phát thải và bảo vệ môi trường.
Tiêu dùng sản phẩm công nghiệp đang tạo ra lượng chất thải rất lớn như hàng tiêu dùng, bao gói, hoá chất ...nếu không được xử lý sẽ tạo ra ảnh hưởng ô nhiễm rất lớn, song nếu xử lý sẽ rất tốn kém. Tiêu dùng bền vững sẽ hướng tới các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm không chất thải, các mô hình công nghiệp sinh thái trong đó các sản phẩm và chất thải được quay vòng, tái sử dụng, trao đổi trong một “vòng đời khép kín”. Tiếp cận này hiện đang trở nên phổ biến và bước đầu được thực hiện ở Việt Nam.
Tiêu chí thứ 4 cho rằng, doanh nghiệp là cấu thành quan trọng nhất của công nghiệp, mỗi doanh nghiệp phải thực sự bền vững mới tạo ra nền công nghiệp bền vững. Khái niệm doanh nghiệp bền vững phản ánh năng lực tự điều chỉnh và thích nghi trong môi trường luôn biến động (bền vững động), hàm chứa không chỉ các nội dung về kinh tế mà còn trách nhiệm xã hội đầy đủ của doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội đầy đủ (CSR) chính là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường và xã hội, song lớn hơn, xu hướng mới mong muốn tạo ra các sắc thái văn hoá doanh nghiệp. Bền vững trước hết phải bắt nguồn từ trong ý thức, quyết định hành động và ứng xử của mỗi doanh nghiệp và chính văn hoá doanh nghiệp tạo ra các giá trị gia tăng vô hình của doanh nghiệp trong nhiều trường hợp lớn hơn giá trị hữu hình mà doanh nghiệp tạo ra. Đó chính là cách tiếp cận cạnh tranh mới trong một thế giới hội nhập và theo các chuẩn mực giá trị mới.
Nội dung cuối cùng gắn với chia sẻ cơ hội thực hiện công bằng xã hội đối với các nhóm lợi ích, sao cho mọi người đều có quyền bình đẳng tiếp cận và chia sẻ các thành quả của công nghiệp hoá.
Xét đến cùng, phát triển bền vững chính là nhằm đến con người và đạt được mức độ công bằng hơn trong chia sẻ phúc lợi xã hội đối với con người. Công nghiệp trong các lựa chọn của mình phải hướng đến hay tạo ra các cơ hội để thực hiện công bằng xã hội đang đặt ra.
Các vấn đề chính trị và an ninh được xem xét ở đây như là yếu tố không thể tách rời của bền vững công nghiệp. Xuất phát từ nhận thức rằng, những thành tựu phát triển đạt được hôm nay chính là nhờ sự ổn định chính trị và những giá trị lịch sử được thiết lập.
Những vấn đề an ninh trong phát triển trước đây còn ít được chú ý, nếu có chỉ là khía cạnh công nghiệp quốc phòng. Tuy nhiên, an ninh là vấn đề rộng hơn và đang có những ảnh hưởng trực tiếp tới công nghiệp.
Những luận cứ trên đây phác thảo các nội dung tiêu chí phát triển bền vững công nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất vẫn còn ở phía trước, do còn phải đo lường và định lượng được các tiêu chí đó làm cơ sở hướng dẫn các hành động. Trên thực tế, đánh giá ảnh hưởng của các tiêu chí không phải là việc dễ dàng, định lượng các mức độ ảnh hưởng càng khó hơn, trong đa phần các trường hợp cũng chỉ mang tính tương đối và rất nhạy cảm. Đối với một ngành, việc quy hoạch tính năng công nghiệp (lựa chọn công nghệ/sản phẩm) không chỉ phụ thuộc vào thị trường, mà còn phụ thuộc vào lựa chọn bối cảnh không gian và thời gian với các mức độ bền vững khác nhau. Làm thế nào định lượng được mức độ phù hợp của các phân bố không gian và thời gian, làm thế nào xác định được các sắc thái xã hội hoặc chất lượng cuộc sống vào trong các chỉ tiêu, làm thế nào đo lường các mức độ cải thiện hay đáp ứng môi trường của công nghiệp? Chưa nói, trong nhiều trường hợp, vấn đề lượng hoá còn đòi hỏi những chứng minh khoa học tốn nhiều thời gian và tiền của.
Thực tế ở Việt Nam, có rất nhiều phương án lựa chọn trong phát triển công nghiệp. Nguyên tắc đặt ra là phải ưu tiên các lựa chọn theo tiếp cận bền vững. Mặc dù điều này không dễ dàng thống nhất do cảm nhận khác nhau xuất phát từ việc “không thể định lượng” được, thậm chí nhiều trường hợp còn phải trả giá do mất thời gian để kiểm chứng. Chính vì vậy, tiếp cận phát triển bền vững mang tính tự nhiên, bản chất và không phải lúc nào cũng cần phải giải thích. Giống như cảm nhận “Sống chung với lũ” không phải xuất phát từ các chứng minh khoa học mà là cảm nhận tự nhiên của sự tồn tại vốn có.
Lê Minh Đức
|
(Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam)
|
|