Sản xuất thủ công mỹ nghệ của nước Việt cổ đã có từ rất sớm, nhưng việc hình thành làng nghề thủ công mỹ nghệ, theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì mãi đến đầu thế kỷ XV mới xuất hiện ở vùng đồng bằng sông Hồng. Cũng vào thời gian này, thợ thủ công mới hội tụ về Hà Nội và tập trung lại trong một khu vực gọi là phường. Thành Hà Nội xưa có 36 phố phường, tiêu biểu cho 36 phường nghề khác nhau.
Dưới các triều đại phong kiến, để phục vụ cho sự phát triển của kinh thành, một số lượng lớn thợ thủ công đã đổ về kinh đô Huế và thành Thăng Long và chính những người thợ tài hoa này đã sáng tạo ra các công trình kiến trúc, văn hoá và sản phẩm mỹ nghệ tinh xảo và những kỹ thuật sản xuất này vẫn được truyền lại cho đến ngày nay.
Tới thế kỷ XIX, số làng nghề thủ công ở miền Bắc đã tăng lên với số lượng khá lớn, trong đó riêng nghề dệt vải chỉ mới tính trong 4 địa phương Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây và Bắc Ninh đã có tới 58 xã, thôn làm nghề này.
Hoạt động xuất khẩu của các sản phẩm thủ công được bắt đầu khá sớm, bắt đầu từ thế kỷ XI thời nhà Lý và tới thế kỷ XIV, nhà Tây Sơn. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu lúc bấy giờ là đồ gốm, đồ gỗ nội thất, các sản phẩm mây tre đan, giấy, lụa, bạc, ngà voi… Hàng hoá được giao từ các bến cảng Vân Đồn, Vân Ninh và sau này là từ các cảng khác như phố Hiến, Hội An, Phan Thiết, Bến Nghé, Nhà Rồng…
Sau khi bị thực dân Pháp xâm lược, nước ta đã trở thành thị trường tiêu thụ các hàng hoá của chính quốc, vì vậy đã làm hạn chế sự phát triển của một số nghề thủ công truyền thống như dệt, nấu rượu… Tuy nhiên, các mặt hàng công nghiệp và hàng nhập khẩu từ nước Pháp không thể làm mất đi hoàn toàn các nghề thủ công trong các làng xã, vì nhu cầu sử dụng, tiêu thụ hàng hoá khá lớn, nhất là đối với những hàng hoá rẻ, vừa với túi tiền của người nông dân.
Năm 1954, sau hoà bình lập lại, sản xuất thủ công nghiệp giữ một vai trò rất quan trọng trong việc khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc. Trong 3 năm (1954-1957) sản xuất thủ công nghiệp đã nhanh chóng được khôi phục. Tính đến cuối năm 1957, toàn miền Bắc đã có trên 15 vạn cơ sở sản xuất thủ công nghiệp. Giá trị sản lượng thủ công nghiệp chiếm tới 63% tổng giá trị hàng công nghiệp sản xuất trong nước.
Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, do những khó khăn về kinh tế xã hội và tác động của cơ chế quản lý bao cấp nên sản xuất của nhiều làng nghề bị giảm sút, mai một. Nhưng từ khi đất nước bước vào đổi mới, làng nghề đã từng bước khôi phục và phát triển, đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là trong việc giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Để được công nhận là làng nghề, theo Liên minh HTX Việt Nam thì phải thoả mãn được tiêu chí là thu nhập, từ nghề đạt từ 50% trở lên trong tổng thu nhập của làng và thu hút từ 30%-50% số lao động hoặc số hộ gia đình trong làng nghề. Với tiêu chí này, đến tháng 6 năm 2006, cả nước có 1451 làng nghề. Trong đó tập trung chủ yếu ở miền Bắc với 1068 làng nghề, chiếm hơn 73,6% làng nghề của cả nước; miền Trung có 116 làng, chiếm 8% và còn lại miền Nam có 267 làng, chiếm 18,4%.
Ở miền Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung nhiều nhất các làng nghề, có tới 821 làng nghề. Trong đó Hà Tây có 196 làng, tiếp đến là Thái Bình 159 làng, Ninh Bình 78 làng, Hải Dương 72 làng, Bắc Ninh 66 làng, Hà Nam 49 làng, Vĩnh Phúc 48 làng, Hà Nội 44 làng, Nam Định 43 làng, Hưng Yên 42 làng và Hải Phòng 24 làng.
Hà Tây là tỉnh có nhiều nghề truyền thống nhất trong cả nước. Từ chỗ chỉ khoảng 80 làng nghề vào năm 1986, đến nay, toàn tỉnh đã có 196 làng nghề với khoảng 160 nghìn lao động. Giá trị sản xuất của các làng nghề năm 2005 đạt khoảng 3 nghìn tỷ đồng. Thu nhập bình quân một hộ năm 2005 là 14,7 triệu đồng. Các làng nghề truyền thống tiêu biểu là làng dệt lụa Vạn Phúc, làng rèn dao kéo Đa Sĩ (Hà Đông), làng điêu khắc Dư Dụ, Thanh oai, làng mộc Chàng Sơn, Thạch Thất, làng nghề sơn khảm Ngọ Hạ, Phú Xuyên, nón làng Chuông, Thanh oai…Tại Vạn Phúc Hà Đông, ngoài nghề truyền thống là dệt lụa tơ tằm, còn phát triển thêm các nghề nhuộm, in hoa, số lao động tham gia nghề khoảng 2400 người, chiếm 45% dân số toàn xã. Làng nghề rèn Đa Sĩ thu hút gần 3000 người, chiếm gần 60% số lao động trong xã, thu nhập một hộ là 13 triệu đồng/năm. Làng nghề cơ khí xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất số lao động tham gia làm nghề là 3.200 người, chiếm 52,2% dân số của xã, thu nhập bình quân của hộ là 10 triệu đồng/năm.
Ở miền Trung, đứng đầu là Quảng Nam có 66 làng nghề, tiếp đến là Bình Định 19 làng, Phú Yên 11 làng, Quảng Ngãi 11 làng… Tại Quảng Nam, các làng nghề đã thu hút khoảng 20 nghìn lao động tham gia trực tiếp. Tiêu biểu là các làng dệt lụa Mã Châu, làng dệt Duy Trinh huyện Duy Xuyên, làng mây tre đan Âu Cơ huyện Núi Thành, làng nghề trà hương thị xã Tam Kỳ và làng khai thác đá Tràng Thạch huyện Đại Lộc đã thu hút tới 60%-80% số hộ và đóng góp tới gần 90% giá trị sản xuất chung của làng.
Ở Nam bộ, An Giang là tỉnh có nhiều làng nghề nhất với 70 làng, tiếp theo là Đồng Tháp 31 làng, Tây Ninh 25 làng, Cần Thơ 24 làng, Cà Mau 20 làng, Bình Thuận 19 làng, thành phố Hồ Chí Minh 12 làng…Tại An Giang, thời gian qua ngoài việc khôi phục, ổn định sản xuất làng nghề dệt ở Văn Giáo huyện Tịnh Biên, dệt thổ cẩm Châu Phong huyện Tân Châu, rèn Phú Mỹ huyện Phú Tân, sản xuất đường thốt nốt ở một số địa phương của hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn… còn phát triển thêm nghề thắt bím lục bình ở Chợ Vàm, huyện Phú Tân.
Theo ngành nghề, nhiều nhất vẫn là làng nghề thủ công mỹ nghệ, có 952 làng, chiếm tới 65,6% tổng số, trong đó làng nghề sản xuất mây tre đan có 276 làng, tiếp đến sản xuất chiếu cói 131 làng, gỗ mỹ nghệ và các sản phẩm từ gỗ123 làng, thêu ren 98 làng, thảm đay, thừng chão, bao đay 41 làng, gốm sứ 35 làng, chạm bạc đồng 7 làng, đúc đồng nhôm 4 làng…Chế biến nông, lâm, thuỷ sản và sản xuất thực phẩm có 264 làng nghề chiếm 18,2% tổng số, trong đó có 112 làng nghề chế biến thực phẩm (bún, phở, bánh đa, miến…), 27 làng nghề chế biến đường, 16 làng nghề nấu rượu, 15 làng nghề xay xát, sát, sấy nông sản (thóc, ngô, khoai, sắn…), 10 làng nghề chế biến tinh bột, củ quả, 12 làng nghề chế biến chè, 19 làng nghề chế biến nước mắm, 8 làng nghề chế biến thuốc nam… Tiểu, thủ công nghiệp có 153 làng, chiếm 10,5% tổng số, trong đó gia công cơ khí 61 làng, gò hàn đồ gia dụng 31 làng, may quần áo, may đồ da, giả da 31 làng, sơ chế bông, lông vũ 13 làng… Sản xuất vật liệu xây dựng có 82 làng nghề, chiếm 5,7% tổng số, trong đó sản xuất gạch, ngói, vôi, cát 79 làng nghề và sản xuất đá xây dựng 3 làng.
Về sản phẩm, hiện nay cả nước có khoảng 200 loại sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ các làng nghề truyền thống khác nhau, trong đó đa phần các sản phẩm đã trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm song song với quá trình phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước cũng như lịch sử phát triển của khu vực Đông Dương. Hầu hết những sản phẩm này ban đầu đều được sản xuất để phục vụ sinh hoạt hàng ngày hoặc là các công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đối với các sản phẩm làm từ tre, ban đầu các sản phẩm này chỉ là các dụng cụ phục vụ sinh hoạt của người dân rất đơn giản như gầu múc nước, giỏ đánh bắt cá, các loại rổ rá và dụng cụ nông nghiệp khác. Các sản phẩm làm từ gỗ thường là đồ nôị thất, tượng gỗ sử dụng trong đình chùa, lễ hội, bộ đồ ăn, vật dụng trang trí… Các sản phẩm gốm sứ thường là bát đĩa và đồ trang trí. Còn các sản phẩm theu ren là quần áo, trang phục hàng ngày, lễ hội… Kỹ thuật sản xuất cơ bản để làm ra các sản phẩm này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được phát triển hoàn thiện cho tới ngày nay.
Mặc dù đã phục hồi và phát triển, song hiện nay làng nghề Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém như: phát triển tự phát, quy mô sản xuất nhỏ; thiết bị, công nghệ lạc hậu; thiếu mặt bằng sản xuất, hầu hết các hộ đều sử dụng nhà ở làm nơi sản xuất; sản xuất không ổn định do thiếu nguyên liệu; khả năng cạnh tranh yếu do giá thành cao; một số mặt hàng do sản xuất theo yêu cầu của khách hàng đang mất dần tính văn hoá truyền thống; vệ sinh môi trường làng nghề chưa được quan tâm đúng mức đang là mối quan ngại lớn đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của các địa phương.
Theo khảo sát năm 2006 của Trung tâm Khoa học công nghệ môi trường thuộc Liên minh HTX Việt Nam thì tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều làng nghề rất đáng lo ngại, không những ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ của người dân mà còn làm giảm năng suất cây trồng, vật nuôi.
Tại làng tái chế sắt Đa Hội Bắc Ninh, hàng ngày có từ 350-400m3 nước thải, trong đó nước thải từ các xưởng mạ chứa kim loại nặng, axít, kiềm không qua xử lý, được xả trực tiếp vào sông Ngũ Huyện Khê. Kết quả phân tích cho thấy, nước thải từ các làng nghề đổ ra sông Ngũ Huyện Khê, có hàm lượng BOD lớn gấp 7 lần và hàm lượng COD lớn gấp 8 lần tiêu chuẩn cho phép.
Tại làng tái chế giấy Phong Khê, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, có 900 dây chuyền sản xuất, hàng ngày có khoảng 300 m3 nước thải không qua xử lý cũng được xả trực tiếp vào sông Ngũ Huyện Khê. Do ô nhiễm từ rác và nước thải nên 3 mẫu ruộng thuộc cánh đồng Cầu Tiễn đã phải bỏ hoang nhiều năm nay.
Làng giết mổ gia súc Phúc Lâm xã Hoàng Ninh, huyện Việt yên, Bắc Giang có 30 lò mổ hoạt động thường xuyên, thải khoảng 9000kg chất thải mỗi ngày. Ao, hồ trong làng là nơi tiếp nước thải và còn là nơi ngâm xương trâu, bò, nên có tới 90% ao, hồ không nuôi được cá. Giếng khơi có mùi tanh, nước đen và độ nhiễm khuẩn Coli gấp hàng chục lần so với tiêu chuẩn cho phép. Đặc biệt làng tái chế chì Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, Hưng Yên, luôn sống trong bầu không khí mờ sương vì khói chì. Tại các ao đãi, rửa phế liệu và đổ xỉ, hàm lượng Pb vượt tiêu chuẩn cho phép từ 32-65 lần. Hàm lượng chì trong bèo 430mg/kgCTKHKH hàm lượng chì trong rau màu 168-430mgPb/kg, hàm lượng bụi vượt tiêu chuẩn cho phép từ 5-10 lần.
Ở Hà Tây, theo Sở Tài nguyên Môi trường cho biết, hoạt động của các cơ sở sản xuất làng nghề năm 2005 đã gây ô nhiễm đáng kể tới chất lượng môi trường không khí, nguồn nước. Kết quả quan trắc tiếng ồn tại các làng nghề Phùng Xá, Vạn Phúc, Hữu Bằng, Chàng Sơn, có mức ồn cao hơn giới hạn cho phép nhiều lần. Đặc biệt là làng nghề sản xuất cơ khí Phùng Xá, Thanh Thuỳ, có thời điểm tiếng ồn lên tới 100dBA. Nồng độ bụi trung bình trong không khí tại các làng nghề về mùa khô lớn hơn giới hạn cho phép theo quy định của Tiêu chuẩn Việt Nam từ 3-4 lần. Tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm do việc xả bừa bãi các chất thải đã sinh ra mùi hôi thối khó chịu và gây ô nhiễm trên khu vực rộng. Đặc biệt là hầu hết các làng nghề đều chưa có các hệ thống xử lý nước thải, nên toàn bộ nguồn nước thải đều được xả trực tiếp vào sông ngòi, ao hồ. Đây là nguyên nhân làm ô nhiễm mặt nước và nước ngầm.
Theo Viện Khoa học công nghệ và môi trường , Đại học Bách khoa Hà Nội thì 100% mẫu nước thải ở làng nghề Bắc bộ đều cho thông số ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho phép. Trong khi đó theo kết quả nghiên cứu của Viện Bảo hộ lao động gần đây cho thấy, trong các làng nghề tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất liên quan đế hô hấp như viêm họng chiếm 30,56%, viêm phế quản 25%, đau dây thần kinh chiếm 9,72%. Tại làng nghề tái chế chì Đông Mai kể trên có tới 100% người lao động bị nhiễm chì, 65,6% dân số mắc bệnh về đường hô hấp, 19,4% dân số bị chứng giảm hồng cầu và số trẻ em bị dị tật nhiều nhất tỉnh, có tới 48 em. Còn tại làng nghề sản xuất rượu Vân Hà - Bắc Giang tỷ lệ người mắc bệnh ngoài da là 68,5% và các bệnh về đường ruột là 58,8%.
Để phát triển làng nghề Việt Nam bền vững, cần có những chính sách và giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết những khó khăn, yếu kém kể trên, trước mắt cần có giải pháp giúp làng nghề tạo mặt bằng sản xuất ổn định lâu dài; thuận lợi trong vay vốn và tiếp nhận công nghệ mới; tạo nguồn nguyên liệu, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực và xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường ./.
(Nguồn: Bộ công nghiệp) |