Trong giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng liên tục và đạt mức 5,4%/năm (chỉ tiêu Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8%/năm). Năm 2006, chuyển dịch cơ cấu trong nông thôn có nhiều tiến bộ…góp phần làm tổng sản phẩm trong nước khu vực nông, lâm nghiệp tăng 2,77%..
Tính đến đầu năm 2006 đã có hơn 98% số xã có đường ô tô tói khu trung tâm: Số thuê bao điện thoại ở khu vực nông thôn đạt hơn 4 máy /100 người dân; 58% số dân nông thôn được sử dụng nước sạch; Đến đầu năm 2007, điện quốc gia đã cung cấp đến 100% huyện, 96% số xã và 91,5% số hộ nông thôn. Điện đã tác động mạnh đến sản xuất công nghiệp nông thôn, trong đó đặc biệt là lĩnh vực chế biến, nông lâm sản. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp được cơ giới hoá như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn 80%, vận chuyển làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thuỷ sản, tổng công suất tàu thuyền đánh bắt đạt hơn 4 triệu tấn sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thuỷ sản được trang bị các máy móc, thiết bị đảm bảo cho công nghệ nuôi trồng tiên tiến.
Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản tăng trưởng bình quân 12-14%/năm. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn tăng bình quân 15%/năm. Hiện cả nước có 2.971 làng nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao động (trong đó có khoảng 1,5 triệu người làm hàng mỹ nghệ).
Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh theo nhu cầu thị trường để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến. Sản xuất cây công nghiệp tăng nhanh trong 5 năm qua; diện tích cao su tăng 9,5%, sản lượng tăng 37,6%; diện tích hồ tiêu tăng 83,2%, sản lượng tăng 87,8%; diện tích điều tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; diện tích cây chè tăng 35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng 1,4 lần; diện tích bông vải tăng 42,5%, sản lượng tăng 57,4%; diện tích đậu tương tăng 47,1%, sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản từng bước được nâng cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất chất lượng nông sản, thuỷ sản. Đến nay, có hơn 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới…được sử dụng giống mới. Công nghệ sử dụng mô hom được đưa nhanh vào sản xuất giống cây rừng, nên năng suất chất lượng rừng được cải thiện. Ngành thuỷ sản đã sản xuất và đưa vào sản xuất một số loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao.
Tổ chức sản xuất được xây dựng ngày càng phù hợp. Cả nước hiện có hơn 72 nghìn trang trại, tăng bình quân 10%/năm, kinh tế trang trại đã góp phần đáng kể trong việc phát triển công nghiệp nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2004 có hơn 15.600 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động trên địa bàn nông thôn, bình quân một doanh nghiệp thu hút khoảng 20 lao động.
Công nghiệp hoá nông thôn gắn liền với phát triển nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp, mà ngày nay dựa trên sự phát triển đồng thời các loại hình kinh tế sau: Hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng tại các địa phương (gọi tắt là các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn). Đây chính là những hạt nhân cho sự phát triển nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp; một số trong đó sẽ là DN lớn trong tương lai. Xét về phương diện xã hội thì các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn đã giải quyết việc làm cho một lượng lao động lớn cho xã hội, tăng thu nhập cho một bộ phận nhân dân, góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, tốc độ phát triển nghề, làng nghề và các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn trên cả nước vẫn ở mức thấp, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, chủ yếu theo hộ gia đình; khả năng tài chính yếu ớt; khả năng tiếp cận thông tin khoa học công nghệ và thị trường còn nhiều hạn chế, dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức rõ tầm quan trong của việc phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn trong nền kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước đã xây dựng chương trình khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Chương trình này đã được cụ thể hoá bởi Nghị định 134/2004/NĐ-CP ngày 09/6/2004 về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn và Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn.
Để thực hiện nhiệm vụ phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn và công nghiệp địa phương nói chung, ở các địa phương, các tỉnh, thành trên cả nước đã thành lập các Trung tâm khuyến công trực thuộc Sở Công nghiệp. Trung tâm khuyến công là đơn vị hoạt động dịch vụ khuyến công, có chức năng và nhiệm vụ thực hiện mọi hoạt động khuyến công trên địa bàn.
Đến nay, cả nước đã có 61/64 tỉnh, thành phố thực hiện hoạt động khuyến công và tư vấn phát triển công nghiệp. Hoạt động khuyến công tại các địa phương hiện nay chủ yếu tập trung vào một số nội dung, đó là đào tạo nghề và phát triển nghề; Tổ chức thông tin tuyên tuyền về hoạt động khuyến công, các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước; Tổ chức các lớp tập huấn, bối dưỡng cán bộ về khởi sự doanh nghiệp, quản trị kinh doanh; tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm của các địa phương; Hỗ trợ đầu tư mở rộng sản xuất, áp dụng tiến bộ KHKT, xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn, năm 2006 đã đào tạo, bồi dưỡng nghề được 66.270 lượt người, chuyển giao và xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất sản phẩm mới tại 167 cơ sở, đào tạo kiến thức khởi sự doanh nghiệp 1800 học viên, đào tạo quản trị DN và cán bộ khuyến công cho hơn 2726 học viên; hỗ trợ tham gia hội chợ, triển lãm; hỗ trợ lãi suất đầu tư cho hàng trăm doanh nghiệp. Kết quả khảo sát tại 61 tỉnh, thành phố có triển khai hoạt động khuyến công cho thấy, giá trị SXCN dân doanh năm 2006 tăng 27,4% so với năm 2005 và đạt cao hơn so với mức bình quân cả nước (23,9%).
Có thể nói, công tác khuyến công ra đời đúng vào thời điểm đòi hỏi cấp thiết cho việc hỗ trợ và khuyến khích phát triển nghề, làng nghề và cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn. Công tác khuyến công đã góp một phần không nhỏ vào phát triển nghề, làng nghề và cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn trên phạm vi cả nước, góp phần cùng đất nước đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn.
Gần đây chương trình khuyến công nông thôn, còn có sự tham gia của Đoàn kinh tế-quốc phòng, tập trung vào nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới. Chương trình này đã chú ý đưa khoa học kỹ thuật vào phát triển công nghiệp nông thôn, sản xuất và chế biến các mặt hàng nông phẩm (như chế biến mủ cao su, cà phê, chè, miến dong, ngô, sắn, sản xuất nguồn thức ăn gia súc, gia cầm…), giúp đồng bào các dân tộc thiểu số xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động khuyến công còn một số tồn tại. Thứ nhất, các chính sách của Nhà nước về phát triển ngành nghề, công nghiệp nông thôn chưa thống nhất và có sự chồng chéo (Quyết định 132/2002/QĐ-TTg, Nghị định 134/2004/NĐ-CP và Nghị đinh 66/2006/NĐ-CP), trong khi chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện đồng bộ, nên chưa nhận được sự đồng thuận cao của các ngành liên quan, đặc biệt là các cơ quan tài chính, kế hoạch. Thứ hai, nguồn kinh phí dành cho hoạt động khuyến công còn quá ít, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế (Nguồn kinh phí khuyến công quốc gia năm 2005 được cấp 2,9%, năm 2006 được cấp 12,6% so với nhu cầu), do vậy, chưa tập trung được nguồn kinh phí hỗ trợ cho các dự án khuyến công có tầm ảnh hưởng lớn, có vai trò làm hạt nhân thúc đẩy, trong khi các thủ tục thanh toán, giải ngân theo quy định của Luật Ngân sách còn khá phức tạp, ít nhiều ảnh hưởng đén tiến độ thực hiện các đề án khuyến công. Việc hỗ trợ đầu tư xây dựng các mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất sản phẩm mới, kỹ thuật mới để nhân rộng cũng bị hạn chế, do hỗ trợ tối đa không quá 150 triệu đồng/mô hình, trong khi vốn đầu tư của các doanh nghiệp cần hàng tỷ đồng…Tại nhiều địa phương, kinh phí khuyến công của tỉnh được phân bổ trong kế hoạch giao vốn hàng năm cho huyện, thị, nên Sở Công nghiệp chưa thực hiện được nhiệm vụ quản lý sử dụng nguồn kinh phí khuyến công địa phương như quy định tại Nghị đinh 134/2004/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 36/2005/BTC-BCN, trong khi hệ thống tổ chức khuyến công mới chỉ có ở cấp tỉnh, mà chứ có ở cấp huyện, cấp xã…nên hiệu quả các đề án khuyến công do huyện, thị thực hiện chưa cao. Các Trung tâm khuyến công hoặc Tư vấn phát triển công nghiệp, phần lớn mới được thành lập, cán bộ làm công tác khuyến công còn thiếu về số lượng (với mức biến chế bình quân ở các tỉnh miền Bắc là 5 người/trung tâm), lại không đủ trang thiết bị, cơ sở vật chất (một số trung tâm chưa có trụ sở làm việc chính thức), nên quá trình triển khai thực hiện các hoạt động chuyên môn còn gặp nhiều khó khăn.
Có thể nói, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước được thực hiện từ nông nghiệp, nông thôn và các TTKC ở các địa phương được ví như cánh tay kéo dài của Nhà nước trong công tác quản lý và thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển. Vì vậy, muốn đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả hoạt động khuyến công trong thời gian tới, bên cạnh việc nỗ lực và tâm huyết của những người làm công tác khuyến công ở các địa phương, rất cần sự quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn nữa từ các cơ quan nhà nước.
Xét về khía cạnh công nghệ, ngày nay, trong phần lớn các nghề thủ công, kỹ thuật sản xuất đã thay đổi nhiều so với truyền thống; một số nghề có điều kiện phát triển mạnh, kỹ thuật sản xuất gần như đã khác hẳn so với công nghệ truyền thống. Sự phát triển nhanh chóng của thị trường xuất khẩu đã đặt ra yêu cầu hoàn toàn mới đối với các nghề thủ công (số lượng, thời hạn giao hàng, sản phẩm phải phong phú, đa dạng hơn, chất lượng cao hơn, hình thức đẹp hơn). Sản phẩm thủ công ngày nay được sử dụng chung với các sản phẩm công nghiệp, đòi hỏi phải có tính hiện đại, hoà hợp được với phong cách của các sản phẩm công nghiệp. Nếu sự phát triển của thị trường xuất khẩu đặt ra yêu cầu, thì sự phát triển của công nghiệp và kỹ thuật mới lại tạo ra phương tiện để các nghề thủ công đáp ứng những yêu cầu đó. Đầu tiên, những người thợ thủ công nhận thấy, các công cụ hành nghề được chế tạo theo phương pháp công nghệ tiện lợi và hiệu quả hơn những công cụ thủ công do họ tự chế, nên họ đã nhanh chóng sử dụng công nghệ của công nghiệp vào các nghề thủ công; thông dụng nhất là các loại kìm, cưa, dao, kéo, đục, khoan, mỏ hàn. Gần đây, nhiều nghề đã sử dụng khá phổ biến các loại máy nhỏ trong sản xuất hàng ngày, đặc biệt trong nghề mộc, hầu như đã sử dụng máy trong tất cả các công đoạn của sản xuất. Nhiều người còn dựa theo máy của công nghiệp để tự chế tạo các máy đơn giản dùng động cơ điện, sử dụng rất hiệu quả trong sản xuất, như máy khuấy sơn ta, máy se tơ, dệt lụa. Các nghề thủ công rất chú trọng đến sử dụng máy và các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp để xử lý và chế biến nguyên liệu, như máy nghiền đất, nghiền men trong nghề gốm, kỹ thuật thấm các-bon trong nghề mây, tre, lò sấy gỗ…Các chế phẩm của công nghiệp cũng được khá phổ biến, như các loại keo dán, chất phủ bóng bề mặt, màu sơn, các loại nhựa ở những cơ sở sản xuất lớn, còn học theo cách tổ chức sản xuất của công nghiệp để phân chia quá trình sản xuất thành nhiều công đoạn liên kết với nhau, bố trí lao động chuyên môn hoá cao theo từng phần việc. Như vậy, việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào các ngành nghề ở nông thôn không những không làm mất đi nghề truyền thống, mà còn là cần thiết để bảo tồn và phát triển truyền thống và các nghề thủ công trong thời kỳ CNH, HĐH.
Bên cạnh những ưu điểm, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn còn một số vấn đề tồn tại cần tập trung sức giải quyết, đó là:
- Năng suất chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm còn thấp. Việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ vào sản xuất còn chậm.
- Việc sắp xếp, đổi mới tổ chức và phát triển các thành phần kinh tế còn chậm. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, nhưng quy mô nhỏ bé, chủ yếu là dịch vụ (chỉ có 5% liên quan đến sản xuất) và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị, hoặc nơi có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.
- Chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Nếu áp dụng chuẩn nghèo mới dự kiến tỷ lệ nghèo cả nước là 26-27%, riêng ở nông thôn lên 31%, miền núi lên hơn 50%, có nơi lên hơn 60% (vùng Tây bắc)…
Công nghiệp nông thôn nói chung và các làng nghề nói riêng, phần lớn vẫn mang tính tự phát, phân tán, sản xuất manh mún, mẫu mã, bao bì lạc hậu đơn điệu, sản xuất đơn chiếc,…đã đến lúc cần tổ chức lại hoạt động công nghiệp nông thôn, làng nghề để phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần…
Tổ chức sản xuất công nghiệp nông thôn, làng nghề trước hết nhằm nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm tạo sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế, phát triển nhiều sản phẩm mang đậm bản sắc văn hoá dịa phương, văn hoá VN. Điều này cần có sự kết hợp giữa các doanh nghiệp, các nhà văn hoá, lịch sử, nhà quản lý cùng các cơ quan khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, mà vai trò nòng cốt thuộc các doanh nghiệp và sự quan tâm, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương. Mỗi địa phương cần tập trung xây dựng một vài doanh nghiệp đầu tàu dẫn dắt các tổ chức sản xuất kinh doanh khác và là lực lượng chủ công tổ chức các mối quan hệ liên kết, từ khâu sản xuất, xúc tiến thương mại, tiêu thụ sản phẩm.
Quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn cần được xây dựng và có tầm nhìn tổng thể có tính đến sự phát triển các làng nghề, ngành nghề nông thôn, trong đó có ưu tiên củng cố, đầu tư cơ sở hạ tầng: xưỏng sản xuất, hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, vệ sinh môi trường, đường giao thông, mở rộng mặt bằng sản xuất…Khuyến khích phát triển theo quy hoạch chung (cụm, điểm công nghiệp ), gắn bó giữa nguồn cung ứng nguyên liệu với thiết kế mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm cho từng ngành hàng, ngành nghề nông thôn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là một việc rất khó khăn, nhưng nó sẽ đem lại kết quả rất to lớn và quan trọng, không chỉ cho sự phát triển kinh tế đất nước, cho đời sống của nông dân, nhiều triệu thợ thủ công, mà còn thiết thực bảo tồn và phát triển truyền thống, phát triển du lịch, thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương.
Gần đây, Chính phủ đã chỉ đạo:
- Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, đảm bảo các xã đều có đường ô tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ô tô tới thôn bản; bảo đảm hơn 90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt; hơn 75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
- Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư…nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông, lâm thuỷ sản.
- Tập trung giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân và cho lao động nông thôn, đặc biệt quan tâm giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội…
(Nguồn: Bộ Công nghiệp)
|