Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp năm 2006 đạt hơn 30 tỷ USD, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng 22,4% so với năm 2005. Trong đó, các mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu từ trên 1 tỷ USD đến hơn 8 tỷ USD như: dầu thô, dệt may, thủy sản, sản phẩm gỗ, hàng điện tử, máy tính.
Năm 2006, ngành công nghiệp cả nước tiếp tục đà tăng trưởng cao, phát huy vai trò đầu tầu của nền kinh tế, góp phần quan trọng bảo đảm tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) 8,17%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,1% so với năm 2005 đã đóng trong tốc độ tăng GDP chung trên đây. Trong cơ cấu sản xuất nội bộ ngành, công nghiệp khai thác tăng 1,1%; công nghiệp chế biến tăng 18,9%; điện, nước tăng 13%. Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp năm 2006 đạt hơn 30 tỷ USD, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng 22,4% so với năm 2005. Trong đó, các mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu từ trên 1 tỷ USD đến hơn 8 tỷ USD như: dầu thô, dệt may, thủy sản, sản phẩm gỗ, hàng điện tử, máy tính.
Tuy nhiên, giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng chưa bền vững. Trong 36 ngành hàng chủ yếu của cả nước có 14 ngành hàng giảm thấp từ 1-50%, như xe đạp, ô tô, quạt điện dân dụng, ắc quy, tivi, máy biến thế, máy công cụ, phân hóa học, thuốc viên, xút, đường mật, sữa hộp, dầu thô... Trong 15 địa bàn công nghiệp chủ chốt của cả nước, chỉ có 9 đơn vị đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm trước, còn lại có những trung tâm công nghiệp như Tp Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu đạt thấp hơn mức tăng chung của công nghiệp cả nước. Cơ cấu sản xuất nội bộ ngành chậm có những chuyển biến tích cực. Trong một số ngành chủ yếu, bên cạnh những doanh nghiệp ngoài nhà nước và DN có vốn ĐTNN tiếp tục tăng trưởng khá cao thì khu vực DN nhà nước lại đạt thấp hơn năm trước. Nói chung, sức cạnh tranh của nhiều DN trong nước còn yếu, nhất là DN nhỏ và vừa, sản phẩm làm ra với chất lượng thấp và giá thành còn cao ... Những hạn chế này đã tác động xấu tới tốc độ và chất lượng tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp, có nguy cơ giảm sút khả năng cạnh tranh trong bối cảnh phải thực hiện các cam kết của WTO.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2007 đã được xác định là: Phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao nhất GDP tăng 8,5%, nâng cao hiệu quả, tính bền vững, chất lượng tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực hiện mục tiêu đó, ngành công nghiệp có nhiệm vụ phấn đấu đạt tổng giá trị sản xuất công nghiệp 574.990 tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2006; phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, sử dụng cao nhất nguồn nguyên liệu, vật liệu sản xuất trong nước để giá trị tăng thêm của ngành tăng 10,5%; kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp đạt hơn 35 tỷ USD, tăng 17,7% so với năm 2006.
Bước vào kế hoạch năm 2007, thế và lực của nền kinh tế, của ngành công nghiệp nước ta có bước tiến mới, phát triển ổn định và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đầy đủ hơn. Nhiều cơ chế chính sách mới đã ban hành sẽ phát huy tác động tích cực; năm vừa qua những kết quả đầu tư đã tăng thêm năng lực sản xuất mới của nhiều ngành kinh tế quan trọng. Hơn nữa, chủ động tham gia WTO, ngành công nghiệp nước ta có những cơ hội mới về khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn, thu hút nhiều hơn vốn và công nghệ nước ngoài, thực hiện công bằng hơn những quy tắc của Tổ chức này về thương mại hàng hóa và dịch vụ... mở ra triển vọng to lớn phát triển công nghiệp. Song, những thắng lợi trên đây vừa tạo ra những cơ hội lớn, vừa đặt ra những yêu cầu mới và những thách thức không nhỏ trong tiến trình thực hiện mục tiêu phát triển công nghiệp thời gian tới.
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch, tùy theo chức năng, nhiệm vụ của đơn vị mình, các cấp quản lý nhà nước về hoạt động công nghiệp, cộng đồng các doanh nghiệp công nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, ngay từ đầu năm 2007, cần tập trung nguồn lực triển khai đồng bộ những giải pháp chủ yếu dưới đây:
Một là, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, khai thác năng lực toàn ngành, nhằm duy trì mức tăng trưởng sản xuất hợp lý, liên tục giữa các tháng trong năm. Tập trung phát triển các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng mở rộng thị trường. Cần có biện pháp tổ chức sản xuất thích hợp để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng gia tăng các sản phẩm có hàm lượng chế biến, chế tạo; các sản phẩm xuất khẩu có giá trị lớn, có giá trị gia tăng cao. Quan tâm khai thác các mặt hàng sử dụng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động như chế biến nông, lâm, thủy sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ. Theo phương hướng ưu tiên trên, từng ngành hàng chủ lực hay từng doanh nghiệp có vai trò trọng yếu, cần xây dựng và thực hiện chương trình sản xuất kinh doanh thích hợp. Cùng với các ngành hàng, mỗi địa phương, nhất là trong vùng trọng điểm có những biện pháp cụ thể nhằm hỗ trợ, thúc đẩy các DN sản xuất trên địa bàn đạt mức tăng trưởng cao. Trong khi chú trọng thúc đẩy sản xuất những mặt hàng chủ lực có khối lượng và giá trị xuất khẩu lớn, cần phát triển các mặt hàng nhỏ, lẻ khác. thực tế năm qua các DN nhỏ và vừa đã tạo ra hàng nghìn tỷ đồng sản phẩm; chỉ riêng hàng trăm mặt hàng xuất khẩu có giá trị nhỏ của năm 2006 đã thu được hơn 6 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm trước.
Phát triển mạnh và bền vững công nghiệp nông thôn không chỉ là một nhiệm vụ trung tâm đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn mà còn là biện pháp quan trọng chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm giữ vững thị trường trong nước và xuất khẩu.
Gắn liền với hoạt động sản xuất, từng ngành hàng chủ lực cũng phải chăm lo củng cố xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm hợp lý. Khai thác thị trường trong nước. Tăng cường xúc tiến thương mại và chú trọng phát triển thị trường xuất khẩu truyền thống, thị trường tiềm năng... tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành hàng.
Hai là, đẩy mạnh hoạt động đầu tư xây dựng các công trình công nghiệp để nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Đầu tư cho công nghiệp phụ trợ để nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên, vật liệu trong nước. Khuyến khích mở rộng các quan hệ liên kết hợp tác sản xuất giữa các DN, các KCN, cụm công nghiệp trong vùng. Đầu tư vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và mở rộng hình thức liên kết “bốn nhà”. Triển khai thực hiện có hiệu quả các nguồn vốn của Nhà nước cần có giải pháp quản lý chặt chẽ các nguồn vốn này theo quy định của pháp luật hiện hành.
Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các dự án quy mô lớn, các dự án công nghệ cao.
Đối với đầu tư trong nước, phải tạo mọi điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư kinh doanh, phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên khắp các địa bàn.
Đối với các KCN, tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất cho các nhà đầu tư; khuyến khích các DN đang hoạt động bổ sung vốn đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nhanh chóng thực hiện dự án, sớm đưa các DN đi vào hoạt động và tạo thêm năng lực sản xuất mới trong năm.
Tập trung đầu tư và đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm, dự án lớn, kể cả triển khai công tác chuẩn bị đầu tư xây dựng công trình trọng điểm cho những năm sau.
Ba là, tăng cường các hoạt động khoa học, công nghệ và đào tạo. Đẩy mạnh quá trình đổi mới công nghệ toàn ngành đạt từ 15 đến 20%/năm; chú trọng phát triển và thu hút công nghệ cao. Cùng với nhiệm vụ, giải pháp chung của toàn ngành, đối với từng ngành hàng, nhất là những ngành chủ lực (các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn) nhất thiết phải xác lập chương trình ứng dụng khoa học công nghệ tiến bộ phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển của ngành, nhằm vào những hướng ưu tiên nâng cao trình độ áp dụng công nghệ cao, đổi mới công nghệ, tự động hóa sản xuất, áp dụng vật liệu mới... để tăng nhanh năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm chi phí sản xuất, hoàn thiện công tác quản trị, điều hành sản xuất...
Đi đôi với quá trình đổi mới công nghệ, cần xúc tiến thực hiện kế hoạch đào tạo mới, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, người lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng đủ nhu cầu cả về số lượng lao động cơ cấu ngành nghề, trình độ kỹ thuật và tác phong công nghiệp cho công nhân trong các DN. Xây dựng hệ thống trường lớp đào tạo nghề với nhiều loại hình thích hợp (trường chuyên nghiệp, trường cạnh doanh nghiệp hoặc trường trong KCN, trường liên kết giữa tổ chức đào tạo và doanh nghiệp); tăng thêm đầu tư cơ sở vật chất đào tạo nghề kể cả thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Bốn là, tiếp tục đổi mới sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước một cách sâu rộng và có hiệu quả; coi cổ phần hóa DNNN là trọng tâm thực hiện kế hoạch sắp xếp, đổi mới DNNN. Trong năm 2007, phải tiến hành cổ phần hóa hàng trăm DN công nghiệp kể cả một số tổng công ty, DN hoạt động công ích. Nâng cao chất lượng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các DN đã cổ phần hóa. Tiếp tục lành mạnh hóa tài chính, lao động và kiên quyết sắp xếp lại những DNNN sản xuất, kinh doanh không hiệu quả.
Năm là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vai trò quản lý nhà nước, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp.
Cùng với cơ hội có được do việc gia nhập WTO, cần thấy hết những thách thức mà ta phải đối đầu trong quá trình cạnh tranh thị trường diễn ra gay gắt trên nhiều bình diện. Để vượt qua những thách thức này, ngành công nghiệp và những DN phải nỗ lực cao nhất để tiếp tục đứng vững và phát triển, không những trong điều kiện cạnh tranh thị trường trong nước, mà còn phát triển, mở rộng thị trường ngoài nước, trên cơ sở phát huy mạnh mọi nguồn lực và tuân thủ cam kết với WTO, trước hết là về thương mại, đầu tư, về sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường...
Các DN cần nghiên cứu, xác lập và triển khai thực hiện chiến lược kinh doanh phù hợp với từng ngành hàng, thích ứng với yêu cầu mới hội nhập. Trong đó, DN phải nhanh chóng vươn lên nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mặt hàng, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất... với những biện pháp tổng hợp, thiết thực và hiệu quả. Chú trọng xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường, mở rộng liên kết và hợp tác sản xuất, kinh doanh, cải tiến hệ thống phân phối nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân DN.
Sáu là, đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình cải cách hành chính trong hệ thống công nghiệp. Tiếp tục rà soát để xóa bỏ các quy trình, thủ tục hành chính trùng chéo, gây phiền hà cho DN. Mở rộng áp dụng mô hình quản lý chất lượng trong cơ quan hành chính Nhà nước, từng bước xây dựng nền hành chính điện tử, thực hiện mô hình “một cửa” liên thông để rút ngắn thời gian cấp phép cho DN cần tiếp tục hoàn thiện quy chế làm việc với chế độ công vụ rõ ràng, minh bạch; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; tăng cường kỷ luật và kỷ cương trong giao dịch hành chính, phục vụ DN, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các DN hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Toàn ngành, địa phương và DN cần xây dựng và thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thật sự thiết thực, hiệu quả. Công tác phòng, chống tham nhũng phải được kết hợp chặt chẽ với cải cách hành chính ở từng cơ quan, địa phương, đơn vị.
Nguyễn Minh
(Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam)
|