1. Chính sách về khoa học công nghệ
Các định hướng cơ bản của chính sách khoa học công nghệ trong ngành công nghiệp là: - Đẩy mạnh hoạt động chuyển giao và tích hợp công nghệ; các hoạt động nghiên cứu hướng đến khai thác và nội địa hóa công nghệ, giải quyết những vấn đề nhân rộng công nghệ ngoại nhập. - Nghiên cứu sản phẩm công nghệ phải gắn với thị trường, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, tạo ra sản phẩm mà thị trường đang có nhu cầu và được tính theo giá thị trường trở thành nguyên tắc xuyên suốt.
- Hướng đến các công nghệ hoàn chỉnh, các công nghệ tốt nhất sẵn có, nhằm phổ biến và tiếp cận nhanh công nghệ tiên tiến, hiện đại. Các nghiên cứu công nghệ mới nên dành cho các viện nghiên cứu quốc gia. Đây chính là điểm tạo nên sự khác biệt giữa chính sách KHCN công nghiệp và chính sách KHCN chung.
Các giải pháp cơ bản của chính sách là:
- Chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là cách tiếp cận nhằm tạo ra đội ngũ chuyên gia nắm bắt được công nghệ và các bí quyết công nghệ thông qua hoạt động thực tiễn tại các dự án ĐTNN. Muốn vậy, giải pháp phải gắn các định hướng đào tạo ngay từ đầu, các cán bộ kỹ thuật hay giữ cương vị trọng trách của phía Việt Nam trong liên doanh hoặc dự án ĐTNN phải là những cán bộ có năng lực hoặc am hiểu hoặc có chuyên ngành đào tạo gần với các công nghệ đang sử dụng; và các cán bộ đó sẽ được giao nhiệm vụ cụ thể trong việc tiếp thu công nghệ và được trọng dụng trong các dự án của phía Việt Nam.
- Giải pháp chuyển giao công nghệ thông qua dự án ODA về cơ bản cũng có nội dung như giải pháp thông qua ĐTNN, khác biệt là dự án ODA tới đây phải gắn với các lựa chọn công nghệ, bên Việt Nam phải có tiếng nói lớn hơn trong việc lựa chọn đó. Mô hình hợp tác kết hợp chuyển giao công nghệ như Dự án Cầu Mỹ Thuận là mô hình tốt cần nhân rộng. Thông qua các dự án như vậy, đội ngũ công nhân, kỹ thuật của Việt Nam có thể làm chủ công nghệ và nhân công nghệ đó cho các dự án cầu khác. Việt Nam cần có định hướng sử dụng hiệu quả các nguồn ODA trong việc tiếp thu các công nghệ mới mà Việt Nam chưa có.
- Giải pháp chuyển giao công nghệ thông qua trao đổi, thuê mướn chuyên gia, nhằm tạo dựng và khai thác kênh chuyển giao hiệu quả trong bối cảnh hội nhập. Các cá nhân cần trao đổi là các chuyên gia giỏi về lĩnh vực công nghệ mà Việt Nam đang quan tâm. Cần phải nhấn mạnh rằng, tri thức chuyên gia là tri thức tổng hợp không chỉ công nghệ, mà còn liên quan đến đầu vào công nghệ (nguyên liệu, thiết bị mua đâu giá rẻ) và đầu ra bán ở đâu, cho ai, bán thế nào, mẫu mã thương hiệu… Những kiến thức như vậy có thể tạo ra giá trị gia tăng không dễ có được. Hơn thế nữa, ngay trong lĩnh vực quản lý và tổ chức nhân sự như tuyển người ở đâu, năng lực thế nào để thích ứng với công nghệ, quản lý hệ thống… cũng là những tri thức rất đáng học hỏi. Xét trên khía cạnh này, chỉ có các chuyên gia cụ thể mới có đầy đủ các tri thức đó, hơn hẳn các dự án phát triển công nghệ mà thực chất chỉ là nhập thiết bị, chỉ hứa hẹn các kết quả kém cỏi.
Muốn vậy, cần tháo gỡ cơ chế lương và thù lao cứng nhắc, cho phép trả lương, thù lao xứng đáng cho một số cá nhân, chuyên gia giỏi về làm việc. Bên cạnh đó, các hạn chế hình thức trong bổ nhiệm và trao quyền đầy đủ cho các cá nhân xuất sắc không phân biệt quốc tịch cũng cần loại bỏ. Chính sách phải kết hợp các kênh ngoại giao, thương mại cũng như hiệp hội doanh nghiệp phát hiện các nguồn chuyên gia như vậy, lôi kéo họ về làm việc với các chương trình công nghệ của Việt Nam, tôn vinh và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia cống hiến.
Giải pháp hỗ trợ ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm đưa nhanh các các công nghệ đã hoàn thiện, các công nghệ có sẵn, tốt nhất trong nước và cả nước ngoài vào sản xuất. Các giải pháp chính sách cũng có thể hỗ trợ cho việc đào tạo công nghệ, thông qua các chương trình đào tạo tại các cơ sở có công nghệ gốc (giống như đào tạo để sản xuất vắc xin vừa qua) để có đủ khả năng tiếp nhận và phát triển công nghệ trong điều kiện Việt Nam.
Giải pháp đào tạo công nghệ thông qua dự án chuyển giao là cách đào tạo tốt nhất gắn nghiên cứu với thực tiễn và phát triển được tri thức công nghệ. Các doanh nghiệp phản ánh rằng, cái họ cần cái nhất là năng lực triển khai công nghệ. Giải pháp cho vấn đề này là huy động cả lực lượng khoa học của doanh nghiệp và Nhà nước cử đi đào tạo công nghệ để về giúp doanh nghiệp. Khoản kinh phí này có thể lấy từ chương trình đào tạo hỗ trợ công nghệ thay cho các khóa học nặng về lý thuyết.
Giải pháp thu hút các nguồn lực trong phát triển KHCN, trước hết là tạo sự bình đẳng trong tiếp cận các đặt hàng của Chính phủ, không phân biệt thành phần, chủ yếu dựa vào năng lực. Đổi mới cơ chế đặt hàng công nghệ, giá các hợp đồng phải là sự thỏa thuận giữa bên nhận và bên đặt hàng, không phải là giá ấn định từ trước. Hơn nữa, các đơn đặt hàng phải là nhu cầu thực của thị trường, được thị trường trả giá nếu được áp dụng.
Tạo thị trường sản phẩm khoa học công nghệ, khuyến khích các đặt hàng của doanh nghiệp, đặc biệt, vai trò môi giới khoa học công nghệ cần được khuyến khích phát triển, làm cầu nối thị trường.
2. Chính sách điều chỉnh phân bố công nghiệp
Định hướng của chính sách phân bố công nghiệp là nhằm tạo ra một không gian phân bố công nghiệp hợp lý hơn, kích thích công nghiệp phát triển, nhưng vẫn hài hòa được các lợi ích về môi trường. Dưới góc độ “phát triển bền vững”, không gian phân bố phản ánh “sức chứa” hay giới hạn chịu đựng của môi trường đối với các hoạt động kinh tế – xã hội nói chung, công nghiệp nói riêng theo từng vùng. Nhìn tổng thể, không gian đó vẫn còn sức chứa rất lớn, tuy nhiên do phân bố không hợp lý, nên đang tạo ra sự quá tải cục bộ tại một số vùng hay gọi là “Điểm nóng” môi trường không đáng có như khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Quan trọng hơn, cách thức phân bố như hiện nay đã không cho phép khai thác các lợi thế môi trường, đang và ngày càng trở thành “hàng hóa” có giá trị và góp phần làm tăng đáng kể sức mạnh cạnh tranh
Để khắc phục các vấn đề trên, nội dung cơ bản của chính sách phân bố công nghiệp cần hướng vào 3 điều chỉnh lớn sau đây.
- Định hướng phát triển tập trung, theo đó phân bố công nghiệp tại địa phương, tiếp tục quy hoạch định hướng về các KCN, KCX. Sự phát triển các KCN và KCX thời gian qua mặc dù còn nhiều bất cập, xong cũng đã góp phần làm giảm đáng kể các nguy cơ lan tỏa ô nhiễm. Nội dung chính sách tới đây cũng sẽ vẫn tiếp tục theo hướng tập trung, hạn chế tối đa các phân bố công nghiệp phân tán xen lẫn dân cư và ở ngoài các KCN. Theo định hướng này, các địa phương vẫn nên được khuyến khích hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất với các cơ chế chính sách ưu đãi.
- Đối với các doanh nghiệp địa phương, doanh nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề, cần khuyến khích tập trung về các cụm, điểm công nghiệp do địa phương quản lý. Tuy nhiên, xu hướng này ở một vài địa phương cũng đang bộc lộ những phát triển lệch lạc, biến tướng, nóng vội, cần phải có những điều chỉnh kịp thời.
- Theo chuyên ngành, sẽ hình thành các khu tập trung công nghiệp quy mô lớn liên hoàn như dầu khí, hóa chất và dệt may. Theo một số hướng chuyên biệt, hình thành các khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp phục vụ di dời, giải quyết giảm thiểu chất thải ở một số trung tâm đô thị.
3. Chính sách bảo vệ môi trường trong công nghiệp.
Chính sách bảo vệ môi trường trong công nghiệp lấy nguyên tắc chỉ đạo là phòng ngừa, trong đó doanh nghiệp là mắt xích quan trọng nhất. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là phòng ngừa ngay từ sớm, dựa trên các nội dung sau:
- Phòng ngừa từ doanh nghiệp là cấu thành quan trọng nhất của toàn bộ chính sách. Nội dung cơ bản là xây dựng năng lực tự kiểm soát và chủ động bảo vệ môi trường của doanh nghiệp. Bản chất của những vấn đề môi trường trong doanh nghiệp cũng vẫn là những vấn đề của sản xuất, mà mấu chốt là năng lực lựa chọn. Những điều chỉnh ngày nay về sản phẩm/công nghệ có xu hướng cùng lúc đạt cả lợi ích về môi trường và hiệu quả/cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là những đòi hỏi mới trong xu thế phát triển hội nhập nhiều biến động và trong bối cảnh khủng hoảng nguyên liệu, năng lượng luôn đe dọa. Bên cạnh đó, yếu tố quyết định không thể thiếu là những thay đổi trong định chế về tài chính của doanh nghiệp, làm sao đưa các hạch toán môi trường vào bảng cân đối chung như là những chi phí hợp pháp trước thuế. Không có những cơ chế tài chính thích hợp, doanh nghiệp cũng không thể giải quyết vấn đề tự đầu tư cho bảo vệ môi trường tại doanh nghiệp.
- Kiểm soát ô nhiễm công nghiệp, được đổi mới chuyển sang kiểm soát theo chuỗi hệ thống và tăng cường sự tham gia của cộng đồng thay thế cho tiếp cận kiểm soát đầu - cuối như trước đây. Hiện tại, cách thức kiểm soát dựa trên các cam kết của doanh nghiệp và đánh giá tác động môi trường là chưa đầy đủ. Vấn đề này sẽ được điều chỉnh, nhấn mạnh nhiều hơn tới chế độ báo cáo và quan trắc môi trường doanh nghiệp.
- Kiểm soát môi trường tại doanh nghiệp, sẽ bắt đầu từ kiểm soát nguyên liệu đầu vào, từ nguồn cung cấp (các vùng nuôi trồng, khai thác) đến quá trình sản xuất và đầu ra của sản phẩm. Các quy định và nội dung kiểm soát sẽ được lồng ghép trong Báo cáo môi trường bắt buộc của doanh nghiệp. Chế độ báo cáo bắt buộc sẽ được thể chế hóa thành các quy định/quy chế và chi tiết hóa theo đặc điểm từng ngành.
- Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào việc giám sát các hoạt động công nghiệp, các quá trình ra quyết định liên quan tới các dự án gây ô nhiễm. Khuyến khích doanh nghiệp có những cam kết với cộng đồng, tăng cường tiếp xúc và trao đổi thông tin với cộng đồng về những hoạt động sản xuất của mình.
- Thực hiện sản xuất sạch hơn (SXSH) là nội dung quan trọng trong chiến lược phòng ngừa bởi cùng lúc đem lại lợi ích kinh tế và môi trường. Nếu như tiếp cận đầu-cuối làm tăng chi phí giá thành, thì SXSH tự nó có thể tạo ra các lợi ích, trang trải chi phí. Quan trọng hơn, tiếp cận SXSH phù hợp với triết lý phòng ngừa là bảo vệ môi trường từ ngay trong quá trình sản xuất, nhấn mạnh đến tiết kiệm và giảm chi phí, trên cơ sở đó giảm chất thải. Đó còn là một chiến lược liên tục gắn sản xuất với bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh phù hợp với các loại hình doanh nghiệp. Điểm chốt trong chiến lược SXSH ở Việt Nam là phải chọn bước đi phù hợp, hướng đến diện rộng trước mắt, với các giải pháp ít tốn kém hơn là tiếp cận sao chép, nhưng khó khả thi.
4. Chính sách tiêu dùng bền vững công nghiệp
“Tiêu dùng bền vững công nghiệp” là một khái niệm mới, mở rộng, bao hàm các khía cạnh tổng hợp về “tiêu dùng” sao cho hiệu quả và ít ảnh hưởng nhất. Hoạt động công nghiệp không tránh khỏi tiêu dùng tài nguyên, là nhân tố quyết định hiệu quả và cạnh tranh của công nghiệp. Không dừng ở đó, tiêu dùng bền vững đặt ra mục tiêu giảm thấp nhất chất thải công nghiệp trong quá trình tiêu dùng kể cả từ sản phẩm sau sản xuất, trên nguyên tắc “vòng đời sản phẩm” và chịu trách nhiệm đến cùng.
Trong nguyên tắc “tiêu dùng bền vững”, không chỉ đầu vào công nghiệp; đất đai, khoáng sản, năng lượng và nguyên liệu công nghiệp mà toàn bộ đầu ra cũng phải được “chi tiêu” một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả, bảo đảm giữ được cân bằng sinh thái, tạo khả năng tái tạo những nguồn tài nguyên có thể tái tạo được và giảm những mất mát đối với tài nguyên không tái tạo.
Những nội dung của chính sách này bao hàm:
- Tiêu dùng bền vững tài nguyên đất, hướng tới việc sử dụng hợp lý tài nguyên, chống suy giảm và suy thoái đất là định hướng mục tiêu rất quan trọng. Công nghiệp Việt Nam do phân bố không hợp lý nên đang góp phần làm ô nhiễm thoái hóa đất. Các vùng “đất đai dành cho công nghiệp” theo nghĩa nào đó đã không được tận dụng, trong khi những vùng đất phù sa châu thổ quý giá lại bị lãng phí cho các mục đích công nghiệp. Nhiều vùng khai thác khoáng sản khó có thể khôi phục lại, do cách khai thác thiếu cân nhắc, dẫn đến mất đất, mất rừng. Rõ ràng, cách thức tiêu dùng đất hiện nay cần phải thay đổi, nhằm khắc phục những bất cập nêu trên mới có thể tạo ra các đảm bảo cho phát triển bền vững.
- Tiêu dùng bền vững tài nguyên nước đặt ra mục tiêu khai thác như bảo tồn được khả năng tái tạo và chống ô nhiễm làm suy giảm nguồn. Đây là vấn đề rất bức xúc, bởi nguồn tài nguyên nước lâu nay vẫn được coi như là của cải vô tận của thiên nhiên ban tặng và không phải trả phí, chính vì vậy đã bị lạm dụng và khai thác hết sức lãng phí. Kết quả là, không những tài nguyên bị suy giảm mà còn bị ô nhiễm nghiêm trọng tại một số khu vực sông, các tầng chứa nước. Một số khu vực làng nghề hiện tại đã xuất hiện nguy cơ thiếu nước rất nghiêm trọng, do ảnh hưởng của các hoạt động công nghiệp. Chính vì vậy, tiết kiệm và sử dụng hợp lý các nguồn nước trở thành nội dung chiến lược quan trọng không thể tách rời.
- Tiêu dùng bền vững năng lượng, hướng tới một cơ cấu sử dụng hợp lý, tiết kiệm, cân bằng các nguồn năng lượng mới sạch hơn, giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Những nội dung đó đã thể hiện rõ trong cơ chế phát triển sạch, hướng tới mục tiêu quan trọng mà chiến lược bền vững công nghiệp đang thực hiện.
- Tiêu dùng bền vững tài nguyên, trước hết là khoáng sản đã được đề cập đến nhiều. Tài nguyên khoáng sản hiện nay đang được khai thác lãng phí như đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, mất mát lớn nhất là các nguồn tài nguyên không tái tạo này phần lớn không thể lấy lại được, do khai thác lựa chọn và không có công nghệ phù hợp. Mục tiêu chiến lược điều chỉnh tới đây là tăng cường hiệu quả khai thác, chế biến bằng các giải pháp công nghệ, khai thác tổng hợp khoáng sản, giảm thất thoát và ô nhiễm, đảm bảo khả năng phục hồi môi trường ở các vùng khai thác. Tiêu dùng bền vững trong sản xuất công nghiệp hướng tới mục tiêu sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và an toàn nguyên liệu, nhất là an toàn sử dụng hóa chất và an toàn vệ sinh thực phẩm. Bền vững nguyên liệu còn bao gồm cả quá trình nuôi trồng, khai thác các vùng nguyên liệu sao cho sạch và an toàn, chống làm suy giảm và thoái hóa đất, lạm dụng các phương thức nuôi trồng cao sản làm biến đổi chất lượng nguyên liệu (biến đổi gen). Đây là những định hướng gắn liền với hội nhập, trở thành tiêu chí cạnh tranh rất quan trọng.
- Tiêu dùng bền vững các sản phẩm công nghiệp bao gồm cả chất thải và sản phẩm công nghiệp “output” của toàn bộ quá trình sản xuất cũng phải được “tiêu dùng” sao cho bền vững, ít gây ảnh hưởng nhất tới môi trường. Nội dung đầu tiên của chiến lược đề cập đến các cách thức đối xử với chất thải như một loại sản phẩm đặc biệt và làm sao để có thể sử dụng lại chúng, tạo các giá trị mới. Theo hướng này, đã có rất nhiều sáng kiến được áp dụng như quay vòng tái sử dụng chất thải, tái chế và trao đổi chất thải.v.v… Về cơ bản, phải tạo ra ngày càng nhiều các ngành công nghiệp mới sử dụng lại chất thải của nhau như là nguyên liệu đầu vào của một chu trình sản xuất mới, hướng tới nền công nghiệp sinh thái.
Trong nội dung thứ hai, lần đầu tiên đưa ra khái niệm sản phẩm như là nguồn chất thải tiềm tàng trong tương lai khi hết thời hạn sử dụng. Câu hỏi đặt ra là: “Ai sẽ là người chịu trách nhiệm đối với “chất thải” đặc biệt đó?” và “Làm thế nào để giảm ảnh hưởng của nó tới môi trường?”. Cộng hòa Liên bang Đức là nước đi đầu trong việc thể chế hóa các tiếp cận đó thành quy định gắn trách nhiệm đến cùng của nhà sản xuất đối với sản phẩm cho đến khi tiêu huỷ. Khái niệm về “vòng đời sản phẩm” cũng sinh ra từ đây và ngày càng được phổ biến tại nhiều nước, như một tiếp cận mới đầy đủ hơn đối với chất thải. Từ đây nảy sinh hàng loạt các cách thức mới trong giải quyết các vấn đề chất thải sản phẩm đặt ra.
Sản phẩm công nghiệp không chất thải trở thành mục tiêu và định hướng chiến lược bảo vệ môi trường quan trọng trong kỷ nguyên mới. Trong cách thức tiếp cận này, đối tượng xem xét và trách nhiệm của nhà sản xuất đã mở rộng không chỉ chất thải trực tiếp, mà cả đối với sản phẩm ra khỏi nhà máy. Các nhà sản xuất buộc phải cân nhắc liên tục ngay từ đầu các loại nguyên liệu, cơ cấu sản phẩm để giảm thiểu ảnh hưởng lâu dài của đầu ra tới môi trường, lựa chọn các công nghệ, thiết kế sản phẩm hướng đến các sản phẩm thân thiện, ít chất thải, sản phẩm dễ quay vòng, tái sử dụng lại hay sản phẩm xanh.
Cơ cấu tiêu dùng bền vững là một cấu thành nội dung quan trọng của chiến lược tiêu dùng bền vững. Một cơ cấu cùng lúc phải đảm bảo tính cân đối và thân thiện. Trong đó có 2 nội dung nổi bật phải xem xét đến:
- Thay đổi thói quen tiêu dùng.
- Thay thế nguyên liệu bằng tài nguyên tri thức.
5. Chính sách phát triển công nghiệp môi trường.
Công nghiệp môi trường tự thân đã có trong các lĩnh vực công nghiệp và đang trở thành các thực thể kinh tế rõ nét. Chuyển sang cơ chế thị trường, nhu cầu bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng đòi hỏi phải có nền công nghiệp môi trường phát triển tương xứng. Tại một số quốc gia như Mỹ, Tây Âu, ngành công nghiệp môi trường đang ngày càng khẳng định vị thế, với doanh thu lên tới hàng chục tỷ USD mỗi năm.
Định hướng phát triển công nghiệp môi trường là tạo ra cân đối mới về cơ cấu công nghiệp theo hướng bền vững và thích ứng với cơ chế thị trường, góp phần giảm thiểu chất thải trong công nghiệp. Các bước đi cơ bản đến năm 2010 vẫn dựa trên nền tảng quan trọng của các ngành công nghiệp hiện nay. Sau năm 2010 và đến 2020, sẽ định hình các hướng chuyên sâu như tái chế, xử lý chất thải, sản xuất thiết bị và dịch vụ môi trường.
(1) Ngành công nghiệp tái chế: Chất thải, ngoài những lĩnh vực tái chế hiện nay như giấy, nhựa và kim loại, sẽ phát triển các các hình thức mới như tái chế, sơ chế và trao đổi chất thải thông qua doanh nghiệp trung gian. Trước hết, tập trung giải quyết vấn đề chất thải tại các khu công nghiệp và khu chế xuất, sau 2010 phát triển đa dạng các doanh nghiệp thu gom và tái chế phần lớn chất thải công nghiệp.
(2) Sản xuất các thiết bị đồng bộ/công nghệ về bảo vệ môi trường.
- Hình thành một số đầu mối doanh nghiệp chuyên sản xuất các thiết bị đồng bộ công nghệ và bảo vệ môi trường, quy mô công nghiệp.
- Hình thành một số hướng sản xuất các thiết bị thử, chất thử, các nguyên liệu thay thế nhập ngoại trong công nghệ bảo vệ môi trường. Phấn đấu tăng dần tỷ lệ thay thế các công nghệ thiết bị môi trường bằng sản phẩm trong nước đạt 30% vào năm 2010 và 50% vào năm 2015.
(3) Cung cấp dịch vụ môi trường đa dạng và theo xu hướng hình thành các doanh nghiệp dịch vụ.
- Thực hiện chiến lược phòng ngừa, chủ động hình thành các hướng dịch vụ về đào tạo, tư vấn, tăng cường năng lực, quan trắc và kiểm toán môi trường.
- Phát triển mạnh các dịch vụ tư vấn về chuyển giao công nghệ.
- Phát triển các môi trường doanh nghiệp dịch vụ thu gom và xử lý chất thải gắn với từng loại hình doanh nghiệp.
- Phát triển các dịch vụ phân tích và kiểm soát ô nhiễm, đánh giá rủi ro và tư vấn áp dụng ISO 14000, GMP.v.v…
Giải pháp chính sách cơ bản là phát triển ngày càng nhiều, đa dạng các doanh nghiệp môi trường, nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường hoạt động bảo vệ môi trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Doanh nghiệp công nghiệp về lâu dài sẽ phải trả phí cho các dịch vụ làm sạch môi trường, đó là cơ sở để tạo ra các nhu cầu phát triển ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, các chính sách quy định môi trường cần tiếp tục được hoàn thiện, nhằm tạo ra các nhu cầu mới.
TS. Phan Đăng Tuất
(Nguồn: Tạp chí Khoa học và Công nghệ số tháng 2/2007 (trang 4)) |