Năm 2006, ngành Công nghiệp đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ: Giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 490.819 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 2005. Tỷ trọng Công nghiệp và xây dựng năm 2006 đã chiếm tới 41,52% GDP của cả nước. Để bạn đọc hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của ngành Công nghiệp trong năm 2006 và phương hướng phát triển trong năm tới, đặc biệt là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tạp chí Công nghiệp đã có bài phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
PV: Xin Bộ trưởng đánh giá khái quát về tình hình hoạt động của ngành Công nghiệp trong năm vừa qua, năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm (2006-2010) và cũng là năm kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Bộ trưởng Hoàng Trung Hải: Năm 2006 là năm đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng, đặt nền móng cho việc thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 2006 - 2010. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như giá các loại nguyên, nhiên liệu liên tục biến động ở mức cao, nhiều thiên tai và dịch bệnh hoành hành, nhưng dưới chỉ đạo kiên quyết của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, nhiều giải pháp đã được triển khai thực hiện nhằm kiểm soát và hạn chế tác động tiêu cực để phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh. Do vậy, kinh tế của cả nước đã đạt được thành tích tốt, tăng trưởng GDP năm 2006 đạt 8,17%, cao hơn gần 0,2% so với kế hoạch đề ra.
Năm 2006, ngành Công nghiệp đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Công nghiệp và xây dựng năm 2006 đã chiếm tới 41,52% GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 10,37%, trong đó riêng công nghiệp tăng 10,18%. Giá trị sản xuất công nghiệp toàn Ngành năm 2006 ước đạt 490.819 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 2005. Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch theo hướng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước là 31,8% (giảm 2,3% so với năm 2005); khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 30,0% (tăng 1,7% so với năm 2005); khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng công nghiệp, chiếm tỷ trọng 38,2% tổng giá trị sản xuất toàn Ngành (tăng 0,6% so với 2005). Nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu năm 2006 đều tăng so với cùng kỳ, như: điện sản xuất tăng 13,4%, than sạch 18,7%, quặng apatit 21,4%, phôi thép 25,0%, xe máy lắp ráp 44,0%,...
Có 6/8 vùng kinh tế và 42/64 địa phương đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng bình quân cả nước, trong đó có những tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp lớn như: Vĩnh Phúc 25,6%, Bình Dương 25,3%, Hà Tây 23,3%, Hải Dương 23,2%, Cần Thơ 22,0%, Đồng Nai 22,0%, Hải Phòng 18,1%, Quảng Ninh 18,0%... đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của toàn Ngành.
Năm 2006 cũng là năm Việt Nam hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Việc thực hiện nhiều cam kết trong AFTA, trong khuôn khổ Hiệp định thương mại (BTA) Việt Nam - Hoa Kỳ, APEC, WTO và các cam kết song phương khác là sức ép lớn đối với các ngành sản xuất trong nước và hoạt động thương mại. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu năm 2006 vẫn tăng trưởng cao, ước đạt 39,6 tỷ USD, tăng 22,1% so với năm trước. Ngành Công nghiệp đã có những đóng góp lớn, kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp năm 2006 ước đạt 30,12 tỷ USD, tăng 22,4% so với năm 2005, chiếm 76,1% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến, chế tác chiếm 52,0% kim ngạch xuất khẩu cả nước và 68,2% kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp.
Năm 2006 đã chứng kiến nhiều sự kiện công nghiệp quan trọng. Chúng ta có thể kể đến sự ra đời 4 tập đoàn kinh tế mạnh của ngành Công nghiệp, là các tập đoàn: Dầu khí, Điện lực, Than và Khoáng sản, Dệt - May. Công tác đổi mới và sắp xếp lại DNNN tiếp tục được đẩy mạnh, thực hiện vượt kế hoạch 31,4% số lượng doanh nghiệp (46/35 DN) với tổng vốn điều lệ là 5.973,5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp công nghiệp lên sàn chứng khoán đạt kỷ lục, chiếm tỷ trọng 14% về số lượng doanh nghiệp và 32,54% về tổng giá trị niêm yết. Việt Nam khai thác tấn dầu thương mại đầu tiên ở nước ngoài từ mỏ Sendor (Malaysia). Việt Nam khởi công xây dựng nhà máy thuỷ điện đầu tiên ở nước ngoài (dự án thuỷ điện Sekaman 3 tại Lào). Việt Nam đã đóng được tầu chở dầu trọng tải lớn nhất (13.500 tấn), được Đăng kiểm Nhật Bản giám sát cấp chứng nhận. Việt Nam có dự án công nghệ cao đầu tiên trị giá 1 tỷ USD do Tập đoàn Intel đầu tư. Đây là 1 trong 5 nhà máy lớn nhất thế giới và là nhà máy lớn nhất của Intel. Việt Nam cũng đạt kỷ lục về thu hút vốn FDI vào ngành Công nghiệp. Trong 797 dự án cấp mới với số vốn đăng ký 7,5 tỷ USD, ngành Công nghiệp chiếm 490 dự án (bằng 61,5% tổng số dự án), với số vốn 5,05 tỷ USD (bằng 66,8% tổng vốn đăng ký).
PV: Thực trạng tăng trưởng GTSXCN năm 2006 là rất khả quan, nhưng giá trị gia tăng (VA) lại vẫn chưa đạt được như mong muốn. Xin Bộ trưởng cho biết nguyên nhân và giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
Bộ trưởng Hoàng Trung Hải: Bên cạnh những thành công đã đạt được, ngành Công nghiệp cũng nhận rõ những tồn tại, yếu kém cần khắc phục. Phát triển của công nghiệp tuy đạt tốc độ cao, nhưng chưa thật vững chắc, biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp (10,18%) còn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp (17%). Nguyên nhân một phần là do nền kinh tế hiện nay vẫn đang tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động phổ thông để giảm dần tỷ lệ thất nghiệp, góp phần đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn như dệt may, da giày, lắp ráp hàng điện tử... Đây là những ngành chủ yếu sản xuất theo phương thức gia công nên mức đóng góp cho GDP còn thấp. Một số dự án trọng điểm của quốc gia, có tác động đến tốc độ tăng trưởng của Ngành cũng như của toàn nền kinh tế còn đang trong giai đoạn xây dựng, chưa đi vào hoạt động nên chưa tạo được đòn bẩy cho sự phát triển của Ngành. Bên cạnh đó, tốc độ đổi mới và chuyển giao công nghệ của toàn Ngành trong năm 2006 còn chậm nên hiệu quả sản xuất chưa được cải thiện nhiều. Số dự án phát triển ngành công nghệ mới, sử dụng nhiều chất xám còn ít, nhiều dự án mới chỉ ở giai đoạn nghiên cứu... Xuất khẩu hàng nhiên liệu, khoáng sản thô vẫn còn chiếm tỷ trọng cao (23,4%).
Để nâng cao chất lượng phát triển Ngành và sản phẩm công nghiệp, bên cạnh việc phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên theo chiều sâu, mở rộng theo cả hai hướng thượng và hạ nguồn trên chuỗi giá trị gia tăng, chúng ta cần tích cực chuyển dịch cơ cấu công nghiệp sang các ngành tiềm năng theo hướng công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Có thể nêu một vài giải pháp, cụ thể như:
Tiếp tục phát triển với tốc độ cao các ngành công nghiệp dệt may, da giày để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm với những sản phẩm cao cấp, có giá trị gia tăng cao, đẩy mạnh thiết kế mẫu mốt, phát triển thị trường thời trang trong nước. Phấn đấu tham gia vào hệ thống phân phối toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.
Tiếp tục phát triển ngành chế biến nông, lâm, thủy hải sản theo hướng chế biến sâu, thoả mãn nhu cầu thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu. Phát triển ngành công nghiệp thực phẩm trên cơ sở công nghệ tiên tiến, sử dụng tối đa nguyên liệu trong nước, bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm theo chuẩn Việt Nam và quốc tế, trở thành ngành kinh tế mạnh, hội nhập vững chắc.
Tích cực tiếp nhận, chuyển giao công nghệ trong sản xuất, lắp ráp sản phẩm điện tử, từng bước vươn lên sản xuất linh kiện, phụ tùng để sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh.
Phát triển ngành năng lượng trên cơ sở khai thác hợp lý, tiết kiệm nguồn năng lượng sơ cấp trong nước, sử dụng các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo, kết hợp trao đổi có hiệu quả năng lượng với các nước trong khu vực.
Phát triển luyện kim với công nghệ cao, công nghệ phù hợp với quy mô nguồn nguyên liệu để bảo đảm thoả mãn nhu cầu thép xây dựng, thép tấm lá và một phần thép hợp kim.
Phát triển ngành hoá chất, hoá dầu, hoá dược, phân bón theo hướng khai thác lợi thế về nguyên liệu trong nước, sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường.
Phát triển ngành cơ khí chế tạo, thiết bị điện thành ngành nòng cốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với việc hợp tác hoá, chuyên môn hoá ngày càng cao.
Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực để phát triển các nhóm ngành công nghiệp tiềm năng như sản xuất chi tiết linh kiện điện tử, phần mềm và công nghệ; hoá dược, hoá mỹ phẩm; thiết bị viễn thông, tin học; sản phẩm từ công nghệ mới. Chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ; lấy khoa học - công nghệ và năng lực quản lý là chìa khoá cho việc nâng cao giá trị gia tăng cho mọi ngành và sản phẩm.
PV: Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO, mở ra nhiều cơ hội nhưng không ít thách thức cho ngành Công nghiệp nói chung và các doanh nghiệp SXCN nói riêng. Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về công nghiệp, xin Bộ trưởng cho biết chương trình hành động cụ thể của ngành Công nghiệp trong thời gian tới. Các doanh nghiệp phải làm gì để nâng cao khả năng cạnh tranh và đón bắt những cơ hội làm ăn mới.
Bộ trưởng Hoàng Trung Hải: Để có thể tận dụng có hiệu quả mọi cơ hội mang lại khi gia nhập WTO, tham gia một cách chủ động, tích cực vào quá trình hội nhập và phân công lao động quốc tế nhằm phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế, ngành Công nghiệp đang và sẽ phát triển theo hướng lựa chọn, tập trung vào những ngành hàng, những nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh, huy động mạnh mẽ những năng lực còn tiềm ẩn, đẩy mạnh đầu tư và đầu tư có trọng điểm, kết hợp đầu tư mới và đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, áp dụng rộng rãi những phương pháp quản lý tiên tiến, áp dụng mọi giải pháp cần thiết để tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm... Tất cả đều nhằm tới đích cuối cùng là thoả mãn ở mức cao nhất những nhu cầu cơ bản của nền kinh tế và đưa ngành Công nghiệp trở thành ngành có sức cạnh tranh cao, tiếp tục là động lực phát triển kinh tế.
Với những định hướng như trên, Bộ đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý; Phát triển các ngành, các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng mở rộng thị trường đi đôi với phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp tiềm năng theo hướng công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu; Tiếp tục đẩy mạnh cải cách DNNN, khuyến khích mọi người đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ; Phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan tuyên truyền, phổ biến và bồi dưỡng kiến thức về sở hữu trí tuệ, hệ thống kiểm dịch động thực vật (SPS), hệ thống rào cản kỹ thuật (TBT), nhằm nâng cao nhận thức của công chức và doanh nhân;…
Các doanh nghiệp (DN) cần nỗ lực tối đa nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để đón bắt cơ hội làm ăn mới. Đây cũng là một nhân tố quan trọng có tính quyết định tới năng lực cạnh tranh quốc gia. Chính vì vậy, các DN Việt Nam nói chung và DN ngành Công nghiệp nói riêng phải khẩn trương xây dựng chương trình, hệ thống các giải pháp để vượt qua các thách thức, tận dụng có hiệu quả các cơ hội để phát triển. Cần tập trung hơn nữa việc đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị, xây dựng thương hiệu, hoạt động marketing, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào sản xuất - quản lý, đào tạo và thu hút nhân tài... Bộ Công nghiệp cũng hết sức khuyến khích, tạo điều kiện để phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp công nghiệp, khuyến khích việc hợp tác trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài, nhằm tận dụng thế mạnh của mỗi bên, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường. Bộ đã bắt đầu tổ chức các hội thảo, mở các lớp đào tạo kiến thức cơ bản về thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế; mở rộng hợp tác, trao đổi với các nước và tổ chức quốc tế để tìm hiểu, tham khảo kinh nghiệm về hội nhập; tổ chức tốt công tác thông tin thương mại phục vụ doanh nghiệp...
PV: Nhân dịp Tết Đinh Hợi, Bộ trưởng có nhắn nhủ điều gì với những người làm công nghiệp cả nước và bạn đọc của Tạp chí Công nghiệp ?
Bộ trưởng Hoàng Trung Hải: Nhân dịp Tết Đinh Hợi, thay mặt Ban Cán sự và lãnh đạo Bộ, tôi xin biểu dương những nỗ lực và cố gắng mà tất cả anh chị em, những người làm công nghiệp cả nước đã đóng góp xây nên những thành công chung của Ngành chúng ta trong năm qua. Mong các đồng chí tiếp tục có những đóng góp mới cho Ngành, cho sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước. Nhiệm vụ năm 2007 sẽ còn nhiều thách thức, khó khăn và nặng nề trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Tôi mong các đồng chí hãy sáng tạo hơn nữa, hiệu quả hơn nữa trong công tác của mình, để ngành Công nghiệp của chúng ta liên tục phát triển cao và bền vững.
Tôi chân thành gửi đến toàn thể những người làm Công nghiệp cả nước và bạn đọc của Tạp chí Công nghiệp lời chúc mừng năm mới tốt đẹp nhất. Chúc các đồng chí cùng gia đình sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
PV: Xin chân thành cảm ơn Bộ trưởng !
TCCN số tháng 2-3/2007 (trang 1)
|