Nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển công nghiệp nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp là phương hướng cần đạt tới.
5 năm gần đây, công nghiệp nông thôn tuy đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng chủ yếu quy mô nhỏ, đầu tư tài sản cố định thấp, phát triển lệch ngành nghề, thiếu vốn và khả năng tiếp cận vốn hạn chế, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, khả năng cạnh tranh kém.
Đặc biệt, do thu nhập nông thôn thấp nên sức mua trì trệ dẫn đến kinh tế khu vực này thiếu thị trường để phát triển. Lao động nông thôn chiếm 75% lao động toàn xã hội nhưng chỉ tạo ra 20,8% giá trị GDP.
Thời gian nông nhàn chiếm 21%/năm, xấp xỉ 8 triệu lao động thất nghiệp. Khoảng cách giàu nghèo giữa đô thị và nông thôn năm 1996 là 2,71 lần; 2001: 4,45 lần; 2003: 4 lần; và 2005 là 5 lần. Hiện tại, giá trị sản xuất công nghiệp nông thôn ( công nghiệp nông thôn) chỉ chiếm 22,35% toàn ngành.
Bài viết xin giới thiệu một số ý kiến nhằm tìm ra giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn.
Nâng cao vai trò các ban, ngành, tổ chức.
Ông Bùi Xuân Khu, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp
Phát triển công nghiệp nông thôn sẽ thu được nhiều cái lợi.
Thứ nhất, động viên và huy động được các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia vào chương trình này.
Thứ hai, góp phần lớn vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng thu nhập, tạo việc làm và phân công lại thị trường lao động.
Thứ ba, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư vào công nghiệp nông thôn có điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh, chuẩn bị tốt cho hội nhập.
Thứ tư, nâng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp nông thôn lên 32% toàn ngành và kim ngạch xuất khẩu hàng tiểu thủ công nghiệp đạt 1 tỷ USD vào 2010.
Thứ năm, đóng góp lớn cho tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân từ 2006-2010 là 15-15,5%/năm, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng/DP là 42-43% vào 2010; tăng kim ngạch xuất khẩu sản phầm công nghiệp giai đoạn 2006-2010 là 14-16%/năm; giảm lao động nông nghiệp dưới 50% vào 2010, tạo việc làm cho 8 triệu lao động; giảm chênh lệch thu nhập giữa đô thị và nông thôn xuống 3,5 lần vào 2010.
Nghị định 134/2004/NĐ-CP về hoạt động khuyến công hay còn gọi là phát triển công nghiệp nông thôn đã được Chính phủ ban hành và triển khai từ 2005. Với nguồn kinh phí quốc gia không nhiều nhưng chúng ta đã triển khai được 7 nội dung phục vụ các chương trình hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở vùng nông nghiệp và nông thôn. Nhiều địa phương đã biết gắn chương trình khuyến công với việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng hiện đại hoá-công nghiệp hoá.
Trong đó, đưa chế biến nông, lâm, thuỷ sản vào chương trình phát triển công nghiệp tại địa phương và bước đầu đã gặt hái được những thành công nhất định.
Để chuẩn bị cho giai đoạn II (2006-2010), Bộ Công nghiệp đã xây dựng chương trình khuyến công quốc gia trình Chính phủ xem xét thông qua với 8 chương trình sau: đào tạo nghề, truyền nghề và phát triển nghề; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp mới; nâng cao năng lực quản lý cho các cơ sở công nghiệp nông thôn; hỗ trợ mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật; chương trình mỗi xã một sản phẩm; phát triển hoạt động tư vấn, cung cấp thông tin; hỗ trợ liên doanh, liên kết, hợp tác kinh tế, hình thành các cụm liên kết doanh nghiệp công nghiệp; nâng cao năng lực quản lý, tổ chức thực hiện các hoạt động khuyến công.
Chúng tôi cho rằng, chương trình khuyến công quốc gia 5 năm tới trong điều kiện nền kinh tế tham gia hội nhập ngày càng sâu vào kinh tế thế giới và đặc biệt là sự cởi mở của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10: đảng viên được làm kinh tế, đã mở ra một động lực mới, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng. Đồng thời, điều này càng có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề ở nông thôn.
Để triển khai nhiệm vụ, vai trò của Bộ Công nghiệp mà trực tiếp là Cục công nghiệp địa phương đã được Chính phủ giao làm đầu mối để triển khai nhiệm vụ trên. Nhưng quan trọng hơn, để thúc đẩy kinh tế phát triển công nghiệp nông thôn thì vai trò của lãnh đạo 64 tỉnh thành, các sở công nghiệp, hiệp hội, nhất là hiệp hội ngành hàng, làng nghề, hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa cực kỳ quan trọng.
Công nghiệp nông thôn là động lực kinh tế của địa phương.
Bà Đào Thu Vịnh, Phó giám đốc Sở Công nghiệp Hà Tây
Trong đường lối phát triển kinh tế, tỉnh Hà Tây xác định: Huy động mọi nguồn lực, tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp -tiểu thủ công nghiệp, trở thành ngành kinh tế chủ lực của tỉnh.
Để đạt được mục tiêu này, trong 2005, Hà Tây đã thực hiện tốt 7 chương trình phát triển công nghiệp: đào tạo nghề và nhân cấy nghề; hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp; tham quan học tập, trao đổi kinh nghiệm về phát triển công nghiệp –tiểu thủ công nghiệp, thành lập Hiệp hội ngành nghề; hỗ trợ lập đề án xin chủ trương đầu tư cụm-điểm công nghiệp tiểu thủ công nghiệp; xúc tiến đầu tư công nghiệp, hướng dẫn hỗ trợ các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn, nâng cao năng lực quản lý, hợp tác hoá sản xuất, hạ giá thành sản phẩm; hướng dẫn, tư vấn các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn, đầu tư dây chuyền sản xuất mới, mở rộng sản xuất, đổi mới và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường; quản lý quỹ khuyến công.
Chương trình khuyến công tại Hà Tây đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tỉnh, nhất là khu vực nông thôn. Theo đó, giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp năm 2005 tăng 23,06% , giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp đạt 8.371,8 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 38,1% GDP của tỉnh.
Theo tôi, việc phát triển công nghiệp nông thôn nói chung và phát triển tiểu thủ công nghiệp nói riêng phải gắn với phát triển nông nghiệp, công nghiệp và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần chú ý lựa chọn phát triển những ngành nghề có tiềm năng và lợi thế so sánh; lựa chọn công nghệ, thiết bị phù hợp, kết hợp giữa truyền thống và tiên tiến; đầu tư nâng cao chất lượng, phát triển các mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của thị trường; mở rộng thị trường xuất khẩu, chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, kết hợp hài hoà nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ chức trong phát triển tiểu thủ công nghiệp.
Đồng thời, phát triển tiểu thủ công nghiệp phải phù hợp với chiến lược phát triển ngành công nghiệp, và gắn kết quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung với quy hoạch phát triển công nghiệp địa phương nói riêng.
Công nghiệp nông thôn chuyển dịch cơ cấu lao động
GS.TS Nguyễn Đình Phan, Trường đại học Kinh tế quốc dân
Quá trình phát triển công nghiệp nông thôn theo tôi, có 4 vấn đề cần chú ý.
Thứ nhất, cần có chiến lược, quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn gắn với chiến lược phát triển ngành, vùng và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Trong đó, cần chú ý về thị trường ưu tiên ngành nghề, sản phẩm, chất lượng và trình độ kỹ thuật của sản phẩm.
Thứ hai, đào tạo lao động quản lý và lao động làm việc. Tình hình chung cho thấy, so với doanh nghiệp ở thành thị và khối doanh nghiệp Nhà nước thì nhân lực công nghiệp nông thôn ít được đào tạo và trình độ thấp hơn.
Trên thực tế, tỷ lệ giám đốc công nghiệp nông thôn có trình độ cao đẳng, đại học chỉ chiếm 31% và phần lớn trong số họ xuất phát từ lao động thực tiến, hầu như không có ai được đào tạo làm giám đốc. Đối với lao động trực tiếp, đa số không được đào tạo qua trường lớp mà chủ yếu qua truyền nghề, tỷ lệ được đào tạo thấp. Vì vậy, để cải thiện chất lượng nhân lực cho công nghiệp nông thôn, cần kết hợp với chương trình đào tạo hỗ trợ nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa ban hành, sắp xếp lại hệ thống dạy nghề và gắn chương trình giảng dạy với lao động thực tiến.
Thứ ba, cần nâng cao năng suất lao động để đạt được hiệu suất sử dụng lao động và tăng khả năng cạnh tranh khi hội nhập. Để làm được điều này, phải sử dụng các biện pháp đồng bộ sau: đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ công nghệ, nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động; phát triển các khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề để tách khu vực sản xuất ra khỏi khu dân cư.
Đồng thời, đẩy mạnh chuyển các hộ kinh doanh sang các công ty TNHH, tư nhân, cổ phần để minh bạch hoá quản lý; tạo điều kiện mở rộng quan hệ với thị trường và quy mô sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, cần có chính sách giải quyết tốt các vấn đề xã hội tại khu vực nông thôn như việc làm, thu nhập quá chênh lệch giữa hai khu vực nông thôn và thành thị, bảo hiểm, y tế…
Bốn vấn đề trong phát triển công nghiệp nông thôn.
Ông Vũ Quốc Tuấn, thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng
Phát triển công nghiệp nông thôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo tôi, phải có hướng đi cụ thể.
Thứ nhất, phải hướng vào các ngành nghề chế biến nông lâm thuỷ sản, nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp trong xuất khẩu; trước hết là nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp dùng làm nguyên liệu cho các ngành nghề chế biến và tiếp theo đó là nâng cao giá trị hàng hoá xuất khẩu, giảm nhanh và hết sức hạn chế việc xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản chưa qua chế biến.
Ngoài ra, cần đặc biệt chú trọng các ngành tiểu thủ công nghiệp (TTCN), mỹ nghệ, dệt may, da giày,cơ khí nhỏ, thuỷ điện nhỏ ở vùng sâu, vùng xa. Các ngành dịch vụ chủ yếu như tài chính, ngân hàng, xúc tiến thương mại, dịch vụ khoa học kỹ thuật, đào tạo thông tin, tư vấn, xây dựng, vận tải phải được chú trọng phát triển để góp phần thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nông thôn.
Thứ hai, công nghiệp nông thôn phải phải nằm trong chiến lược phát triển công nghiệp trong phạm vi cả nước, theo định hướng chiến lược phù hợp với đặc điểm tình hình nước ta và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới.
Nói cách khác, phát triển ngành nghề, quy mô, trình độ công nghệ, phân bố trên địa bàn lãnh thổ cũng đều phải được quy hoạch một cách tổng thể với tầm nhìn dài hạn, không thể chủ quan duy ý chí, càng không thể manh mún theo lợi ích cục bộ.
Vì lẽ đó, công tác quy hoạch cơ cấu các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ở nông thôn rất quan trọng. Những quy hoạch này phải tiến hành đồng bộ, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Theo tôi, đây là một công việc to lớn, cần có sự hợp tác của nhiều ngành, nhiều cơ quan và là cơ sở cho việc xác định chương trình khuyến công cả nước cũng như của mỗi vùng.
Thứ ba, trong báo cáo chương trình khuyến công quốc gia giai đoạn II (2006-2010) có 8 chương trình, đó là những chương trình cần thiết, bảo đảm không những củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh các sản phẩm, cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hiện có mà còn tạo thêm nhiều ngành nghề mới, cơ sở mới, tạo nên bộ mặt mới của nông thôn.
Tuy nhiên, cần có thứ tự ưu tiên trong các chương trình, những cơ sở sản xuất kinh doanh mới phải gắn chặt với quy hoạch phát triển đô thị và môi trường, lộ trình thực hiện sao cho mỗi năm làm được một việc thiết thực. Để tổ chức thực hiện hiệu quả, ngoài việc đề ra kiện toàn hệ thống khuyến công từ trung ương đến địa phương, tổ chức 4 trung tâm khuyến công vùng nhưng ở một góc độ khác, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngnàh công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch. Đồng thời, tập trung huy động mọi nguồn lực của xã hội vào các chương trình.
Thứ tư, đường lối phát triển kinh tế của Đảng gần đây đã có nhiều thay đổi căn bản, đặc biệt là tại hội đảng toàn quốc lần thứ X. Theo đó, các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng cuả nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân, đầu tư phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, kể cả các lĩnh vực quan trọng mà pháp luật không cấm. Theo quan điểm này, vào năm 2010, cả nước sẽ có 50 vạn doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Tuy nhiên, đó không phải là hệ thống doanh nghiệp nhiều số lượng mà phải chú trọng về chất, nâng cao tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có thương hiệu uy tín, đủ sức cạnh tranh trong nước và trên thị trường quốc tế. Mỗi doanh nghiệp phải được tổ chức và hoạt động theo đúng bài bản, của đơn vị kinh tế tự chủ, chủ động trong kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và lợi ích khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp. Ở đây, cần lưu ý là để doanh nghiệp tự chủ, chủ động nhưng phải hướng dẫn phát triển các quan hệ kinh doanh, liên doanh, liên kết.
Giải quyết bài toán vốn và liên doanh liên kết.
Ông Nguyễn Văn Hoà, Phó chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc
Lâu nay, khi nhắc đến công nghiệp nông thôn, vấn đề vốn luôn được đặt lên hàng đầu và không ít kêu ca về việc khó tiếp cận vốn từ ngân hàng.
Tôi được biết, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa không lớn, bình quân số vốn của loại hình doanh nghiệp này chỉ khoảng 1,2 tỷ đồng/doanh nghiệp, trong khi một thống kê cho thấy chỉ có 32,38% số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận nguồn vốn Nhà nước, 35,24% doanh nghiệp rất khó vay và 32,38% doanh nghiệp không thể vay vốn.
Điều đáng lưu ý là 80% lượng vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa lại từ ngân hàng. Mặt khác, thị trường chứng khoán lại kém phát triển. Hiện tại có 30 công ty niêm yết thị trường chứng khoán nhưng tổng số tài khoản đầu tư chứng khoán rất nhỏ nhoi.
Trong vòng 5 năm tới, để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 8%/năm thì nhu cầu vốn lên tới 140 tỷ USD. Vì vậy, gánh nặng vốn trong thời gian tới, vẫn chủ yếu dựa vào ngân hàng. Những ngân hàng cũng là doanh nghiệp, họ cũng phải tính toán để thực sự cầm chắc không bị rủi ro mới cho vay. Những doanh nghiệp nào chứng minh được năng lực thực sự, có khả năng hoàn trả nợ vay và lãi suất đúng kỳ mới được vay. Nếu không thì sẽ rất khó vay ngân hàng.
Từ đây, các doanh nghiệp muốn giải quyết tốt bài toán vốn, cần phải chứng minh năng lực thật sự cũng như hướng phát triển khả thi: Sản xuất cái gì? Cho ai? Thị trường có cần không? Khẳng định được điều này, doanh nghiệp sẽ xác lập được niềm tin với ngân hàng và các kênh thu hút vốn khác.
Ngoài ra, để giảm bớt gánh nặng vốn cho ngân hàng, con đường lâu dài đối với doanh nghiệp là phải chứng khoán hoá nguồn vốn của mình, tiếp cận vốn thông qua trái phiếu là chính thay vì chỉ vay ngân hàng. Làm thế nào đó để cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp phải ở mức tự có 1/3; vay ngân hàng và phát hành trái phiếu 1/3; phần còn lại huy động từ thị trường chứng khoán. Nên tránh tình trạng, nguồn vốn doanh nghiệp có tới 80-90% vay ngân hàng.
Một vấn đề khác đặc biệt quan trong là doanh nghiệp phải có khả năng liên doanh liên kết thành những doanh nghiệp lớn. Trên thế giới, đây là xu hướng phổ biến, nhiều doanh nghiệp khi đứng riêng lẻ thì đơn độc, yếu ớt nhưng khi liên kết và có sự phân công cao trong sản xuất thì trở thành những tập đoàn mạnh mẽ. Sự hạn chế trong công đồng doanh nghiệp nông thôn ở nước ta là hoạt động theo dạng nhỏ lẻ.
Điều này đã không còn phù hợp trong xu thế hiện đại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nông thôn cũng phải tận dụng những hỗ trợ của Chính phủ dưới hình thức xúc tiến thương mại để tăng cường khả năng xuất khẩu; tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, năng lực quản lý, nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Hợp tác xã là hạt nhân của chương trình công nghiệp nông thôn
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó trưởng Ban chính sách và phát triển hợp tác xã, Liên minh hợp tác xã Việt Nam.
Theo những điều tra gần đây nhất, diện tích đất trồng trọt cho nông nghiệp ngày càng giảm, mỗi năm chuyển khoảng 20 vạn ha đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Vì thế, thời gian nông nhàn ngày càng tăng, tạo sức ép gay gắt về việc làm, thu nhập ở khu vực nông thôn.
Hợp tác xã là đối tượng của phát triển công nghiệp nông thôn, tham gia xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Khi tham gia thị trường, hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, bình đẳng với các doanh nghiệp và được nhìn nhận như là hạt nhân phát triển, gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Qua thống kê, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của các hợp tác xã tăng bình quân qua các năm là 20%, nhiều hợp tác xã đạt hiệu quả kinh tế cao, giải quyết việc làm và thu nhập cho hàng ngàn lao động.
Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tại 44 tỉnh, thành phố, có 1.024 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hoạt động trong các ngành nghề chế biến nông sản, thực phẩm, hoá chất, vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, giấy bìa, dệt và cơ khí, da, giày…trong đó có nhiều hợp tác xã hoạt động điển hình: hợp tác xã Song Long (Hà Nội), hợp tác xã chế biến thức ăn chăn nuôi Bình Minh (Tiền Giang), hợp tác xã khai thác vận chuyển đá Mông Sơn (Yên Bái), hợp tác xã chế biến suất ăn công nghiệp Kim Sơn (Tp. HCM).
Để hợp tác xã thực sự là hạt nhân của chương trình công nghiệp nông thôn, cần làm tốt những vấn đề sau:
Một là, cần nhân rộng mô hình thành công, liên kết tạo thế mạnh cho từng vùng. Chính sách khuyến công phải được thực hiện liên hoàn giữa đào tạo nghề-thành lập mới-củng cố pháp nhân kinh doanh-hỗ trợ đầu tư công nghệ và phát triển thị trường.
Hai là, sản phẩm phải có mẫu mã đẹp phù hợp và đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng.
Ba là, phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến: vùng nguyên liệu là một tài nguyên, khi khai thác phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý, khai thác có quy hoạch. Đồng thời với khai thác, cần có kế hoạch đưa những giống cây mới có năng suất cao, phù hợp điều kiện thổ nhưỡng để duy trì sự ổn định của vùng nguyên liệu.
(Nguồn: Bộ Công nghiệp)
|