Tuần -13 - Ngày 29/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Phát triển Khu công nghiệp
Hoạch định chính sách phát triển các khu công nghiệp ở Nhật Bản và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
27/03/2007


Nhật Bản đã rất thành công trong những năm 70 như một câu chuyện thần kỳ trong phát triển kinh tế – xã hội, không chỉ với những chiến lược và những chính sách công nghiệp hoá đạt được nhiều thành tựu đáng khâm phục mà vẫn gắn liền với xây dựng và gìn giữ một nền văn hoá đặc sắc của mình. Trong suốt thời kỳ tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản, các KCN đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất công nghiệp và đảm bảo phát triển kinh tế cân đối giữa các vùng, miền của Nhật Bản.

Tính đến năm 1989 cả nước Nhật đã có 602 KCN, gồm 77 KCN ven biển, 525 KCN nội địa với tổng diện tích 34.968 ha (trong đó tổng diện tích các KCN ven biển là 20.257 ha và các KCN nội địa là 14.511 ha).

Dưới đây là những nhân tố cơ bản tạo nên sự thành công của hệ thống KCN Nhật Bản.

Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động và phát triển các KCN

Luật Xúc tiến di chuyển công nghiệp ban hành năm 1972 là cơ sở pháp lý cơ bản cho sự phát triển công nghiệp vùng và hình thành các KCN. Luật này khuyến khích di chuyển các xí nghiệp từ khu vực tập trung công nghiệp quá đông ra các vùng kém phát triển, ít có hoạt động công nghiệp; đồng thời đề cập đến các kế hoạch xây dựng nhà máy mới hay mở rộng các nhà máy hiện có, bảo vệ môi trường và ổn định lao động. Các vùng tập trung công nghiệp qúa đông được chỉ định là “khu vực khuyến khích di chuyển công nghiệp”(IRE-Industry Relocation-Encouraged Area) và những khu vực kém phát triển được chỉ định là “ Khu vực khuyến khích thiết lập công nghiệp” (IIE- Industrial Introduction-Encourage Area). Các cơ sở công nghiệp trong khu IRE được khuyến khích rời đi nơi khác để phát triển các khu đô thị mới, ngược lại các xí nghiệp công nghiệp được khuyến khích thành lập trong các khu IIE. Để khuyến khích việc di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp, Chính phủ áp dụng một số biện pháp như ưu đãi thuế, trợ cấp hoặc cho vay vốn ưu đãi. Căn cứ vào Luật Xúc tiến di chuyển công nghiệp, Chính phủ Nhật Bản đã đề ra Kế hoạch di chuyển công nghiệp với mục tiêu thu hẹp 20% diện tích các cơ sở công nghiệp trong các khu IRE từ năm 1985 đến năm 2000, theo đó giảm tỷ lệ hàng hoá bán ra từ các khu IRE từ 18% xuống 11%. Vào thập niên 1980-1990, mỗi năm có hơn 50% nhà máy được thành lập trong các khu công nghiệp và hơn 67% nhà máy mới hay mở rộng nằm trong các khu IIE. Điều này chứng tỏ các KCN hấp dẫn đối với các xí nghiệp và là một biện pháp hiệu quả để khuyến khích việc đặt các nhà máy ở những vùng xa xôi.

Trên cơ sơ Luật Technopolis ban hành năm 1983, Chính phủ Nhật Bản đã đề ra Kế hoạch Technopolis là một chiến lược mới để phát triển các vùng xa xôi hẻo lánh bằng cách tạo ra những thành phố hấp dẫn trong đó các khu công nghiệp, khu vực nghiên cứu và khu dân cư được liên kết chặt chẽ với nhau. Khu công nghiệp ở đây tặp trung các ngành công nghệ cao như điện tử, công nghệ sinh học, sản xuất vật liệu mới... Khu vực nghiên cứu gồm các trường kỹ thuật, các trung tâm đào tạo hay phòng thí nghiệm nhằm cung cấp những sản phẩm khoa học kỹ thuật cơ bản cho các doanh nghiệp trong vùng. Khu dân cư được qui hoạch xây dựng đồng bộ và hiện đại để phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của các nhà quản lý, kỹ sư, các nhà nghiên cứu và gia đình họ.

Luật thúc đẩy các dự án đặc biệt để phát triển công nghiệp tiên tiến của vùng được ban hành năm 1988 nhằm di chuyển các cơ sở sản xuất và hình thành những trung tâm phát triển công nghiệp nòng cốt trong khu vực. Một số luật phát triển vùng có liên quan đến việc hình thành các KCN cũng được ban hành như Luật phát triển các thành phố công nghiệp mới được ban hành năm 1962 liên quan đến các KCN ven biển cho các ngành hoá chất và công nghiệp nặng; Luật các biện pháp đặc biệt để khai thác các mỏ than ban hành năm 1961

Ngoài ra còn có một số qui định của pháp luật điều chỉnh hoạt động phát triển các KCN và quản lý đất đai như: Luật đặt vị trí các nhà máy qui định điều kiện sử dụng đất để xây dựng nhà máy, theo đó các cơ sở sản xuất phải đảm bảo diện tích trồng cây xanh nhất định; Luật qui hoạch đô thị và các qui định khác kiểm soát việc sử dụng đất đai theo các tiêu chuẩn xây dựng; Luật và qui định về bảo vệ môi trường nhằm kiểm soát chất lượng nước và không khí do các nhà máy thải ra, bao gồm cả qui định đánh giá tác động môi trường của dự án...

Lập kế hoạch và cơ chế điều phối

Trong hệ thống quản lý nhà nước của Nhật Bản, có 3 cơ quan chính quản lý hoạt động phát triển của các KCN gồm: Bộ Thương mại và công nghiệp quốc tế (MITI), Cơ quan quản lý đất quốc gia (NLA) và Bộ Xây dựng (MOC). Theo đó MITI chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch di chuyển công nghiệp, xây dựng các thành phố công nghiệp và các chính sách về phát triển vùng trong đó đề ra cơ cấu công nghiệp, mục tiêu và chiến lược đặt vị trí các ngành công nghiệp, nhằm đảm bảo qui hoạch phát triển các KCN một cách cân bằng dựa trên cơ sở cung – cầu về phát triển công nghiệp của khu vực. Cơ quan NLA có kế hoạch tổng thể sử dụng đất, xác định rõ định hướng áp dụng cho các dự án phát triển cả nước và phát triển vùng trong giai đoạn dài (trên 10 năm), đồng thời đưa ra những hướng dẫn về sử dụng đất đai và quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng như đường xa lộ, xe điện cao tốc và viễn thông. Mỗi loại cơ sở hạ tầng được lập kế hoạch theo một hệ thống riêng, do đó vị trí các KCN trong tương lai có thể được dự kiến trước. Bộ Xây dựng (MOC) theo dõi việc sử dụng và phát triển đất đai, xây dựng hạ tầng như giao thông, xử lý chất thải công nghiệp. Ngoài ra Bộ Nông nghiệp (MOA) và Bộ Vận tải (MOT) quản lý những vấn đề khác có liên quan

Kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng và thành lập các KCN do các chính quyền địa phương chủ động lập dựa trên cơ sở các kế hoạch phát triển công nghiệp của cả nước và phát triển vùng của Chính phủ. Cộng đồng địa phương cũng tham gia vào việc thẩm định, đánh giá và quyết định dự án thông qua một uỷ ban được thành lập gồm các công ty kinh doanh hạ tầng, đại diện cộng đồng dân cư và các chủ sở hữu đất. Các giáo sư kỹ thuật và chuyên gia về phát triển vùng của các trường đại học cũng được mời tham gia uỷ ban này trong trường hợp phát triển các KCN công nghệ cao. Chính quyền địa phương có nhiệm vụ hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN và cung cấp các dịch vụ cần thiết cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN. Để khuyến khích việc đặt các KCN trong vùng mình, các cơ quan địa phương còn áp dụng các biện pháp hỗ trợ đầu tư như trợ cấp vốn, miễn, giảm thuế... cho các doanh nghiệp

Căn cứ vào kế hoạch phát triển các thành phố công nghiệp Technopolis, Chính phủ đã đề ra những nguyên tắc cơ bản để phát triển các thành phố công nghiệp “technopolis”, bao gồm: (i) Xác định các khu vực dự kiến phát triển công nghiệp công nghệ cao; (ii) Xác định các mục tiêu phát triển công nghiệp công nghệ cao trong nền kinh tế địa phương; và (iii) Lập các dự án kinh doanh cần thiết để đạt được các mục tiêu trên. Căn cứ vào những nguyên tắc trên, các cơ quan có thẩm quyền xây dựng các tiêu chí cụ thể để lựa chọn địa điểm xây dựng các KCN công nghệ cao “technopolis” như:

- Khu vực hiện không tập chung quá đông các cơ sở công nghiệp;

- Nằm gần các thành phố được coi như trung tâm hoạt động công nghiệp;

- Nằm gần các trường đại học đào tạo các ngành phát triển công nghệ cao;

- Hiện tập trung nhiều cơ sở kinh doanh thương mại;

- Gần các đầu mối hệ thống giao thông chính, xa lộ.

Dựa trên các nguyên tắc nói trên, các cơ quan địa phương soạn thảo các chương trình phát triển các thành phố công nghệ cao và được các cơ quan chính phủ thẩm tra để cho phép thực hiện theo các tiêu chuẩn sau: (i) Khu vực thích hợp cho việc thiết lập thành phố công nghệ; (ii) Tuân theo đúng nguyên tắc về phát triển thành phố công nghệ; (iii) Dự án có ảnh hưởng kinh tế thuận lợi cho vùng. Căn cứ vào chương trình phát triển nói trên, Chính phủ đã chỉ định có 25 khu vực phát triển thành các thàn phố công nghiệp; các khu công nghiệp công nghệ cao và các khu nghiên cứu cũng được khuyến khích thành lập đồng bộ tại các thành phố này để phục vụ cho các mục tiêu đào tạo và nghiên cứu. Đồng thời, Chính phủ cũng đã qui hoạch xây dựng các thành phố sinh thái “Ecopolis” nhằm giải quyết các vấn đề về đô thị hoá và ô nhiễm môi trường sinh thái.

Nhìn chung Nhật Bản có một hệ thống qui hoạch ổn định và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền trung ương và địa phương với các cơ quan và tổ chức khác. Tuy nhiên, một trong những vấn đề khó khăn là sự cạnh tranh mạnh giữa các vùng, vì các KCN do các chính quyền địa phương chủ động thiết lập và hoạt động theo cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp thường có huynh hướng đặt các xí nghiệp tại những khu vực có điều kiện tốt như gần các thị trường tiêu thụ, vì vậy các KCN ở xa rất khó thu hút các dự án đầu tư. Để đảm bảo sự phát triển được cân đối, Chính phủ đã có chính sách phát triển các KCN trên tất cả các vùng xa xôi, hẻo lánh của đất nước. Tuy nhiên vấn đề quan trọng đặt ra là mức độ tham gia của Chính phủ trung ương vào quá trình lập kế hoạch và xác định vị trí xây dựng các KCN để đảm bảo sự phát triển bền vững và cân bằng giữa các khu vực. Khó khăn thứ hai trong việc lập dự án phát triển KCN là việc chia sẻ rủi ro trong đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN giữa chính quyền địa phương và các nhà đầu tư hạ tầng, như công ty JRDC. Theo nhu cầu hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, các KCN có chất lượng dịch vụ tốt và giá thuê đất rẻ sẽ hấp dẫn hơn. Sự giúp đỡ của các cơ quan địa phương cho các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào việc cung cấp dịch vụ, cơ sở hạ tầng và phương tiện tài chính cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên thị trường tiêu thụ ở các vùng xa xôi, hẻo lánh rất khó khăn nên các nhà đầu tư hạ tầng KCN thường không muốn đầu tư ở những vùng này.

Một số cơ chế hỗ trợ phát triển khu công nghiệp

Nhận thức được tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận tiện cho sản xuất công nghiệp, Chính phủ Nhật Bản đã dành một lượng vốn đầu tư ngày càng lớn cho lĩnh vực này. Nếu như vào năm 1955, tổng vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng công nghiệp là 80 tỷ yên, tương đương 0,9% GDP thì vào năm 1970 số vốn này là 1.876 tỷ yên, tương đương 2,5% GDP và vào năm 1980 là 6.684 tỷ yên, tương đương 2,8% GDP.

Chính phủ đã áp dụng một số biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các xí nghiệp theo các luật về phát triển công nghiệp vùng và các qui định của các chính quyền địa phương như: hỗ trợ về thuế (miễn, giảm thuế; áp dụng mức khấu khao đặc biệt); hỗ trợ vốn kinh doanh từ nguồn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; tạo điều kiện vay vốn ưu đãi của các tổ chức thuộc Chính phủ... Các biện pháp về thuế được áp dụng khác nhau cho từng xí nghiệp trong các KCN theo các luật về phát triển vùng liên quan. Một số biện pháp hỗ trợ được áp dụng cho các vùng chỉ định như: (i) miễn thuế doanh nghiệp và thuế tài sản cố định trong vòng 3 năm; (ii) miễn thuế mua bất động sản: (iii) áp dụng chế độ thuế đặc biệt về sở hữu đất đai và khâu khao đặc biệt (16% các thiết bị sản xuất và 8% cho các công trình xây dựng và các cơ sở phụ thuộc). Những thiết bị và công trình xây dựng trong các thành phố technopolis được hưởng mức khấu hao đặc biệt 30% cho thiết bị và 15% cho công trình.

Ngoài ra để khuyến khích việc di chuyển các cơ sở công nghiệp ra khỏi khu vực IRE và phát triển các KCN mới, Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ vốn ngân sách để xây dựng các cơ sơ phúc lợi cho xã hội và bảo vệ môi trường phục vụ cho các KCN, số tiền trợ cấp được tính theo số lượng và diện tích của các nhà máy mới xây dựng hay mở rộng. Tại những khu vực mới phát triển, khó thu hút đầu tư, xúc tiến đầu tư, quảng bá sản phẩm... cho những xí nghiệp mới được thành lập. Các tổ chức tài chính nhà nước như Ngân hàng phát triển Nhật Bản, Công ty phát triển khu vực Hokkaido-Tohoku... có các chương trình cho vay vốn với lãi suất ưu đãi đối với các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN, các dự án đầu tư tại những khu vực khuyến khích phát triển công nghiệp hay tại các thành phố công nghệ cao.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Việc phát triển các KCN của Nhật Bản diễn ra trong những thập niên đầu và giữa thế kỷ 20, trong bối cảnh thế giới khác nhiều so với thời kỳ hiện nay- thời kỳ của toàn cầu hoá, thương mại tự do và động lực tri thức. Tuy nhiên, đối với nước ta – một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì những bài học kinh nghiệm về hoạch định chính sách đầu tư phát triển các KCN của Nhật Bản vẫn rất bổ ích đối với Việt Nam.

Thứ nhất, cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về KCN, tiến tới ban hành Luật về KCN làm cơ sở pháp lý ổn định và thống nhất cho việc tổ chức và hoạt động của các KCN ở Việt Nam. Các công cụ chính sách đầu tư phát triển KCN phải rõ ràng, minh bạch, đặc biệt là phải nhất quán, có tầm nhìn dài hạn và toàn cục được xây dựng trên cơ sở cân nhắc rất kỹ mục tiêu công nghiệp hoá cho từng thời kỳ.

Thứ hai, qui hoạch phát triển các KCN của từng địa phương phải phù hợp với qui hoạch tổng thể các KCN trên cả nước và qui hoạch phát triển công nghiệp, qui hoạch phát triên kinh tế – xã hội vùng, miền, nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi địa phương để từ đó có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc đầu tư phát triển các KCN. Cần tăng cường cơ chế phối hợp và tạo sự liên thông giữa các KCN của các địa phương để hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển theo một qui hoạch chung thống nhất của cả nước, khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương, làm phá vỡ mặt bằng ưu đãi chung và môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững lâu dài của các KCN.

Các KCN cần được qui hoạch xây dựng đồng bộ với các khu thương mại, đô thị, dịch vụ theo mô hình tổ hợp liên hoàn trong đó phát triển khu công nghiệp là trọng tâm, còn các khu vệ tinh khác về thương mại, dịch vụ, đô thị mới là hết sức quan trọng, có vai trò tác nhân thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái của các khu công nghiệp tại địa phương.

Thứ ba, cần lựa chọn cơ cấu đầu tư trong các KCN theo hướng khuyến khích phát triển, thu hút các dự án đầu tư các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, có tốc độ tăng trưởng cao và sức lan toả nhanh tới các ngành kinh tế khác để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Cơ cấu đầu tư trong các KCN phải tính tới lộ trình mở cửa nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng tận dụng các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, phát huy lợi thế so sánh của các ngành công nghiệp trong nước để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Thứ tư, sớm hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về KCN theo hướng đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền trực tiếp cho các Ban quản lý các KCN của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Nhà nước cần có chiến lược ưu tiên phát triển và tăng cường năng lực thể chế, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý các KCN tại các địa phương.

Thứ năm, đổi mới vai trò hỗ trợ, điều tiết của Nhà nước trong đầu tư phát triển KCN, chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp vào các quan hệ thị trường, phát triển của các KCN, đảm bảo cơ cấu các nguồn lực cơ bản được phân bố theo cung cầu thị trường nhưng có sự điều tiết của Nhà nước theo các mục tiêu đã xác định. Nhà nước chỉ hỗ trợ phát triển các KCN ở các khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, môi trường đầu tư hạn chế trong giai đoạn phát triển ban đầu và với những hình thức hỗ trợ đa dạng, lồng ghép với các chương trình mục tiêu khác để đảm bảo đạt được hiệu quả đầu tư cao nhất.

ThS. Lê Tuấn Dũng

(Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam)

Cập nhật ( 29/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com