Tuần -13 - Ngày 29/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Phát triển Khu công nghiệp
Xây dựng và Phát triển KCN, KKT năm 2006, những vấn đề đặt ra và nhiệm vụ năm 2007
26/02/2007

Năm 2006 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, cũng là năm đánh dấu bước chuyển biến mới của hệ thống các khu công nghiệp, khu kinh tế sau 15 năm xây dựng và phát triển. Trong bối cảnh đó, cùng với việc Việt Nam tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các KCN, KKT của Việt Nam tiếp tục đạt được những kết quả tích cực, có những đóng góp hết sức nổi bật vào sự tăng trưởng kinh tế nước ta trong năm 2006 vừa qua.

Hoạt động của các KCN, KKT của Việt
Nam trong năm 2006 được khái quát ở những kết quả dưới đây:

Một là tiếp tục thành lập mới và mở rộng các KCN ở một số địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.

Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập 9 KCN mới với tổng diện tích đất tự nhiên đạt 2.081 ha. Đó là: KCN Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (340,7 ha); KCN Quang Châu, tỉnh Bắc Giang (426 ha); KCN Sông Hậu, tỉnh Hậu Giang (126 ha); KCN Nhơn Trạch II – Lộc Khang, tỉnh Đồng Nai (70 ha); KCN Phước Nam, tỉnh Ninh Thuận (369,92 ha); KCN Khai Quang, tỉnh Vĩnh Phúc (262 ha); KCN Mỹ Trung, tỉnh Nam Định (144 ha); KCN Long Hậu, tỉnh Long An (142 ha) và KCN Thăng Long II, tỉnh Hưng Yên (200 ha).

Đồng thời KCN Đồng Văn, tỉnh Hà Nam được Thủ tướng Chính phủ cho phép mở rộng thêm 263,82 ha; KCN Mỹ Xuân B1 được mở rộng thêm 200 ha (KCN Mỹ Xuân B1 – Tiến Hùng) và KCN Sa Đéc mở rộng thêm 61,98 ha (Khu C Sa Đéc mở rộng).

Tổng diện tích các KCN được thành lập mới và mở rộng trong năm 2006 đạt 2.607 ha, trong đó đất công nghiệp có thể cho thuê là 1.780 ha.

Trước xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, việc tiếp tục thành lập mới và mở rộng thêm các KCN trong năm 2006 đã tính tới giai đoạn phát triển trong những năm sau, nhằm chuẩn bị quỹ đất để đón các nhà đầu tư trong một vài năm tới. Đồng thời diện tích KCN tăng thêm năm 2006 đã được điều chỉnh hợp lý hơn so với các năm trước (bằng khoảng 75%) nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng quỹ đất và phù hợp với tốc độ gia tăng đầu tư.

Tính đến cuối tháng 12/2006, cả nước có 139 KCN được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 29.392 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 19.743 ha, chiếm 67% tổng diện tích đất tự nhiên.

Về phân bố các KCN, trong thời gian qua, phân bố các KCN đã dần dịch chuyển theo hướng giảm bớt mật độ các KCN ở các Vùng kinh tế trọng điểm, ưu tiên thành lập các KCN ở Trung du và miền núi Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, 48 tỉnh, thành phố đã thành lập KCN, tuy nhiên, phân bố các KCN vẫn tập trung ở ba Vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tập trung nhiều KCN nhất với 65 KCN với tổng diện tích tự nhiên 16.228 ha, chiếm 55,2% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 25 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 4.601 ha, chiếm 15,7% tổng diện tích tự nhiên các KCN cả nước và Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung có 10 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 2.395 ha, chiếm 8,1% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước.

Hai là tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT trong năm 2006 đạt được mức tăng trưởng rất cao.

Tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KKT có sự tăng trưởng vượt bậc so với năm 2005.

Năm 2006, các KCN, KKT đã thu hút được 356 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 4.336 triệu USD, chiếm khoảng 56% tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước và gấp 2,4 lần so với năm 2005.

Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất cả nước với 213 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 2.578 triệu USD, chiếm khoảng 60% cả về số dự án và số vốn đầu tư thu hút mới trong các KCN trên cả nước. Đặc biệt, với dự án dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại KCN Phú Mỹ II có tổng vốn đầu tư đăng ký trên 1,2 tỷ đô la Mỹ, Bà Rịa-Vũng Tàu trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,36 tỷ USD.

Một số dự án có vốn đầu tư lớn đầu tư vào KCN trong năm 2006 phải kể đến: Dự án sản xuất thiết bị viễn thông của Công ty Panasonic (KCN Thăng Long, Hà Nội) với tổng vốn đầu tư đăng ký 76 triệu USD; Dự án sản xuất máy in, máy fax, thiết bị điện tử của Công ty TNHH Brother Industries với số vốn đầu tư 40 triệu USD (KCN Phúc Điền, Hải Dương).

Về tình hình tăng vốn, trong năm 2006, có 337 lượt dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn với tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 1.347 triệu USD, chiếm khoảng 62% số vốn tăng thêm của cả nước, tăng 30,5% so với năm 2006 (về tổng vốn đầu tư tăng thêm).

Đồng Nai, Bình Dương, Long An và thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương dẫn đầu cả nước về số vốn đầu tư tăng thêm với tổng số 219 lượt dự án tăng vốn và tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 1.024,5 triệu USD, chiếm 76% tổng vốn đầu tư tăng thêm trong các KCN cả nước.

Một số dự án có số vốn tăng thêm cao điển hình như dự án Công ty TNHH Công nghiệp Gốm Bạch Mã (Bình Dương) tăng 150 triệu USD, Công ty TNHH Hoya Glass Disk (Hà Nội) tăng 130 triệu USD, Công ty Giầy Ching Luh (Long An) tăng 98 triệu USD, Nhà máy sản xuất máy in Canon ở KCN Tiên Sơn (Bắc Ninh) tăng 70 triệu USD, Công ty Formosa ở KCN Nhơn Trạch III (Đồng Nai) tăng 66,4 triệu USD.

Ngoài ra, trong năm còn có 2 dự án có có vốn đầu tư lớn đầu tư vào KKT Dung Quất là dự án sản xuất thép của Tập đoàn Tycoons Worldwide Steels (Đài Loan) với tổng vốn đầu tư giai đoạn 1 là 556 triệu USD và Dự án cơ khí nặng của Tập đoàn Dossan (Hàn Quốc) với tổng vốn đầu tư 260 triệu USD.

Trong năm 2006, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KKT đạt 5.682 triệu USD, chiếm khoảng 56% tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước và tăng gần 2 lần so với năm 2005.

Tính đến cuối tháng 12/2006, các KCN đã thu hút được 2.433 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 21,79 tỷ USD. Trong đó, trên 1.700 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và 380 dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện luỹ kế đến cuối năm 2006 đạt 11,37 tỷ USD, chiếm khoảng 52% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Năm 2006, các KCN trên cả nước thu hút được trên 300 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đạt trên 15.000 tỷ đồng. Luỹ kế đến cuối tháng 12/2006, các KCN cả nước thu hút được 2.623 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 135,69 nghìn tỷ đồng. Trong đó, trên 1.720 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và còn gần 500 dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện luỹ kế đến cuối năm 2006 đạt khoảng 78 nghìn tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 58%.

Ba là trong năm 2006, mặc dù có nhiều biến động trên thị trường trong nước và thế giới, đặc biệt sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các doanh nghiệp KCN vẫn tiếp tục duy trì hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.

Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 16,8 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2005 và chiếm khoảng 29-30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước.

Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 8,3 tỷ USD, tăng trên 22% so với năm 2005 và chiếm trên 21% so với tổng giá trị xuất khẩu cả nước năm 2006 (kể cả dầu thô).

Giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 12,5 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm 2005.

Nhìn vào các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh nêu trên, có thể thấy đóng góp của KCN, KKT vào giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu của cả nước ngày càng lớn.

Năm 2006, các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách khoảng 880 triệu USD, tăng 35,4% so với năm 2005.

Đến cuối năm 2006, các KCN đã giải quyết việc làm cho trên 918.000 lao động trực tiếp.

Bốn là tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN đã được cải thiện đáng kể.

Đến cuối năm 2006, cả nước có 19 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 970 triệu USD và 120 dự án trong nước đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 37.259 tỷ đồng.

Trong số 139 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN kể trên, 17 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 73 dự án đầu tư trong nước đã cơ bản hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và đi vào vận hành; các dự án còn lại đang triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.

Tổng vốn thực hiện của các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN luỹ kế đến cuối năm 2006 đạt khoảng 585 triệu USD và 13.596 tỷ đồng.

Năm 2006, số lượng các KCN hoàn thành xây dựng cơ bản tăng đáng kể so với những năm trước, riêng năm 2006, có thêm 11 KCN hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và đi vào vận hành. Đến thời điểm cuối năm 2006, cả nước đã có 90 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 19.548 ha và 49 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 9.844 ha.

Năm là tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp tiếp tục gia tăng.

Tính đến cuối năm 2006, các KCN trên cả nước đã cho thuê được khoảng 10.758 ha, đạt diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê 54,5%. Riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy trên 72,2%.

Với nhiều KCN mới hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào hoạt động trong năm nay thì đạt được tỷ lệ lấp đầy cao hơn năm 2005 (52%) là kết quả rất có ý nghĩa, thể hiện tốc độ thu hút đầu tư tăng nhanh. Đáng chú ý là các KCN mới thành lập 2 –3 năm gần đầy cũng đã đạt tốc độ lấp đầy khá nhanh.

Theo các Vùng kinh tế trọng điểm, tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam đạt 57,7%; Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đạt 71%; Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đạt 53,9%.

Sáu là hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng các KKT diễn ra hết sức khẩn trương và đạt kết quả thu hút đầu tư tốt.

Hiện tại đã có 8 KKT được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập và ban hành quy chế hoạt động bao gồm: Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng áng, Vân Phong, Phú Quốc và Chân Mây – Lăng Cô với tổng diện tích 323.940 ha.

Các KKT gồm Chu Lai, Nhơn Hội, Dung Quất đã hoàn thành công tác quy hoạch xây dựng chung và quy hoạch chi tiết một số khu chức năng như KCN, khu đô thị, khu du lịch, và đang khẩn chương triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội và bước đầu thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Trong đó, KKT Dung Quất trong năm 2006 đã đạt hiệu quả thu hút đầu tư cao, có sự chuyển biến mạnh mẽ trong thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn trong ngành luyện cán thép, cơ khí chế tạo. Kết quả của KKT Dung Quất đạt được là nhờ các yếu tố:

- Xây dựng được quy hoạch tổng thể của KKT và quy hoạch chi tiết các khu chức năng gồm: khu bảo thuế, các khu công nghiệp, khu chế xuất; khu cảng và dịch vụ hậu cần cảng, khu dân cư, khu đô thị, khu du lịch - dịch vụ và khu hành chính với tổng diện tích 10.300 ha.

- Những năm qua, Dung Quất được đầu tư tập trung từ ngân sách Nhà nước và đã cơ bản hoàn thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội giai đoạn I gồm: hệ thống giao thông trục chính gần 70 km, hệ thống tuyến điện, thông tin liên lạc, nhà máy nước, cảng chuyên dùng, các khu dân cư, Trường đào tạo nghề (qui mô 2000 học sinh), Trung tâm quan trắc giám sát môi trường và đang triển khai xây dựng khu chuyên gia, Trung tâm văn hoá thể thao, Trạm thu phát truyền hình, Bệnh viện Dung Quất (giai đoạn I: 100 giường) và khu du lịch dịch vụ... có thể đáp ứng yêu cầu cho Nhà máy lọc dầu số 1 và các dự án khác.

Đến nay, Dung Quất đã thu hút được 103 dự án với tổng vốn đầu tư trên 5,5 tỷ USD (kể cả nhà máy lọc dầu Dung Quất), trong đó có các dự án quy mô lớn, đặc biệt quan trọng là Nhà máy luyện thép Tycoons của Đài Loan với tổng vốn đầu tư 557 triệu USD, Dự án liên hiệp công nghiệp nặng Dossan của Hàn Quốc với tổng vốn đầu tư 260 triệu USD.

KKT Dung Quất đạt được kết quả nêu trên là nhờ thu hút được các dự án công nghiệp nặng, quy mô lớn. Đây là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của KKT, bên cạnh việc huy động vốn để triển khai nhanh các công trình hạ tầng thiết yếu.

Các KKT khác gồm Nghi Sơn, Vũng áng, Vân Phong, Phú Quốc và Chân Mây – Lăng Cô chủ yếu đang trong quá trình xây dựng quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết các khu chức năng và chuẩn bị cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng.

Bảy là trong năm 2006, nhiều cơ chế chính sách mới liên quan trực tiếp tới hoạt động của KCN, KKT được ban hành.

Ngày 21/8/2006, tại Quyết định số 1107/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN của Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến 2020. Theo Quyết định nói trên, đến năm 2015 dự kiến cả nước sẽ thành lập mới 115 KCN với tổng diện tích 26.443 ha và mở rộng 27 KCN với tổng diện tích 5.559 ha. Điểm đột phá trong Quy hoạch phát triển KCN thể hiện ở các mặt:

- Đề ra được hệ thống các điều kiện và tiêu chí thành lập mới và mở rộng KCN chặt chẽ, cụ thể, bảo đảm gắn bó chặt chẽ giữa vấn đề hiệu quả đầu tư với vấn đề xã hội, môi trường.

- Các tiêu chí trên hạn chế sự thành lập và đề nghị thành lập tràn lan các KCN ở địa phương, đồng thời qua cơ chế thành lập nêu trên đã tạo động lực và sự năng động cho địa phương để phấn đấu đáp ứng các điều kiện và tiêu chí nhằm thành lập và mở rộng KCN.

- Cơ chế này phù hợp với việc phân cấp theo Nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư, theo đó tạo sự chủ động cho các Ban quản lý KCN trong việc xem xét thành lập và mở rộng các KCN theo đúng thẩm quyền.

- Cơ chế thành lập KCN gắn với điều kiện và tiêu chí là một biện pháp để khắc phục sai số trong cách tính toán để hình thành danh mục các KCN dự kiến thành lập.

- Điều kiện và tiêu chí nêu trên cũng là cơ sở để tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thành lập các KCN tại địa phương.

Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các Nghị định hướng dẫn quy định các vấn đề liên quan tới hoạt động của KCN, KKT; doanh nghiệp KCN, KKT và Ban quản lý các KCN, KKT, trong đó các cơ chế, chính sách phát triển KKT tiếp tục được hoàn thiện.

Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của hai KKT Vũng áng (Hà Tĩnh) và KKT Nghi Sơn (Thanh Hoá) tại các Quyết định số 72/2006/QĐ-TTg ngày 3/4/2006 và số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15/5/2006.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 253/2006/QĐ-TTg ngày 06/11/2006 thay thế Quyết định số 108/2003/QĐ-TTg ngày 05/6/2003 về Quy chế hoạt động của KKT mở Chu Lai.

Trong năm 2006, Đề án “Quy hoạch phát triển các KKT ven biển của Việt Nam đến năm 2020” đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ. Đề án đã đưa ra 6 điều kiện hình thành KKT về vị trí địa kinh tế, công trình trọng điểm, quy mô diện tích, lợi ích kinh tế – xã hội mang lại cho địa phương, vùng…). Đây là cơ sở để xem xét thẩm định việc thành lập các KKT một cách khách quan. Các điều kiện hình thành đã giới hạn việc thành lập thêm các KKT nhằm tạo điều kiện tập trung nguồn ngân sách hỗ trợ các KKT hiện tại, huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho KKT, đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng hạ tầng và thu hút đầu tư các KKT hiện tại, có điều kiện kiểm nghiệm, tổng kết mô hình KKT trước khi xem xét, thành lập tiếp các KKT.

Tám là vai trò, vị trí của các Ban quản lý KCN đã được khẳng định và nâng cao rõ rệt.

Luật Đầu tư mới năm 2005 và các Nghị định hướng dẫn được ban hành đã đánh dấu bước chuyển đổi quan trọng trong tư duy quản lý nhà nước về đầu tư từ cơ chế uỷ quyền sang cơ chế phân cấp. Trong năm qua, Ban quản lý các KCN đã thể hiện rõ nét vai trò tham gia xây dựng và triển khai chính sách. Với kinh nghiệm thực tiễn quản lý trực tiếp các KCN, KKT trên địa bàn, quá trình thực hiện nhiệm vụ theo uỷ quyền, Ban quản lý KCN, KKT đã đóng góp nhiều ý kiến trong quá trình xây dựng Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các Nghị định hướng dẫn; tham gia đề xuất, góp ý vào quá trình xây dựng, điều chỉnh chính sách phát triển KCN, KKT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ban, ngành. Qua cơ chế phân cấp theo Nghị định mới, Ban quản lý được thực hiện quyền hạn, trách nhiệm một cách chủ động, đồng thời gắn chặt chẽ với các chế tài giám sát, định hướng, điều chỉnh của các cơ quan trung ương qua công tác quy hoạch, hướng dẫn, thẩm định dự án…

Như vậy, thành tựu của hệ thống KCN, KKT trong năm 2006 vừa qua có ý nghĩa hết sức quan trong xét trên nhiều khía cạnh, tiếp tục nâng cao tỷ trọng đóng góp của KCN, KKT vào lượng vốn đầu tư thu hút được trên cả nước, tổng giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu và nộp ngân sách trên cả nước; có những chuyển biến tích cực về công tác môi trường, xã hội; đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về KCN đã có những chuyển đổi mạnh mẽ theo cơ chế phân cấp triệt để nhằm thích nghi với bối cảnh mới về hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Những thành tựu trên đã thể hiện hệ thống KCN, KKT đã tích cực chuyển sang một giai đoạn phát triển mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo duy trì tốc độ và chất lượng tăng trưởng theo hướng ổn định, bền vững.

Tuy vậy, trong bối cảnh phải thích nghi nhanh với hệ thống pháp luật mới, với yêu cầu mới của quá trình gia nhập WTO, hệ thống KCN, KKT vẫn bộc lộ một số hạn chế chưa được khắc phục và xuất hiện một số điểm yếu mới. Đó là:

Thứ nhất, công tác xây dựng quy hoạch về cơ bản đã đạt kết quả tốt, song vẫn còn một số địa phương muốn xây dựng thêm KCN không thuộc quy hoạch phát triển KCN do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mà không có luận chứng thuyết phục sự cần thiết phải bổ sung quy hoạch.

Thứ hai, nhiều Ban quản lý KCN chưa thực sự thích nghi kịp với hệ thống cơ chế, chính sách mới đã được điều chỉnh. Một số Ban quản lý KCN mới được thành lập còn chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ mới của mình về quản lý nhà nước về đầu tư đối với các KCN. Mặc dù, hệ thống pháp luật mới đã quy định, nhưng một số BQL còn nhầm lẫn giữa Giấy phép đầu tư và Giấy chứng nhận đầu tư, thẩm quyền cấp phép dự án cơ sở hạ tầng KCN thuộc UBND tỉnh, hoặc một số dự án thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đây nay thuộc thẩm quyền của Ban quản lý KCN...

Thứ ba, cơ chế, chính sách về quản lý nhà nước về KCN, KKT theo Luật Đầu tư mới còn nhiều điểm chưa thống nhất và chưa được đầy đủ. Các cơ chế, chính sách trên các lĩnh vực khác còn chưa điều chỉnh kịp theo Luật mới, nhiều quy định trong Nghị định hướng dẫn còn thiếu, gây khó khăn cho các Ban trong quá trình áp dụng (chẳng hạn về quy hoạch chi tiết KCN, về một số nội dung quản lý nhà nước đối với KCN, KKT...).

Thứ tư, đời sống của người lao động trong KCN đã được quan tâm hơn nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cuộc sống với thu nhập ổn định cho người công nhân và gia đình.

Những tháng đầu năm 2006 đã xảy ra một loạt các cuộc đình công của công nhân trong các doanh nghiệp FDI ở các KCN thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Nam, chủ yếu là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai và TP Hồ Chí Minh. Nguyên nhân xảy ra các cuộc đình công này chủ yếu do chính sách tiền lương, thưởng trong các doanh nghiệp FDI chưa phù hợp với biến động của thị trường, điều kiện ăn ở làm việc của công nhân yếu kém còn có nhiều yếu kém, sự phối hợp trong giữa các cơ quan nhà nước, các đơn vị trung ương và địa phương trong quản lý lao động, nhận thức pháp luật hạn chế của người lao động…

Tình trạng đình công của công nhân hiện nay đã giảm bớt, tuy nhiên nhiều vấn đề vẫn chưa được giải quyết một cách căn bản về nhà ở cho công nhân, về thu nhập của người lao động trong khu vực trong nước và nước ngoài, về vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp....

Thứ năm, công tác bảo vệ môi trường chưa được đẩy mạnh đúng mức. Trong năm qua, chưa có thêm được KCN nào hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tập trung, cả nước mặc dù đã có 139 KCN nhưng vẫn chỉ có 33 KCN đã vận hành nhà máy xử lý nước thải tập trung; có thêm một số KCN chuẩn bị xây dựng như KCN Tiên Sơn (Bắc Ninh), một số KCN ở Đồng Nai...

Thứ sáu, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN vẫn còn hạn chế xét về nhiều khía cạnh (lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, chất lượng kết quả thanh tra, chế tài thanh tra, kiểm tra... ). Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác thanh tra còn chưa thật chặt chẽ, chưa có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra còn mỏng, phương tiện làm việc còn hạn chế (đặc biệt là công tác thanh tra kiểm tra công tác bảo vệ môi trường). Các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của KCN về các lĩnh vực kế hoạch, đầu tư, môi trường... còn thiếu và chưa đảm bảo tính cương quyết.

Năm 2007 là năm đầu tiên của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của WTO và bắt đầu triển khai các cam kết mở cửa thị trường trên một số lĩnh vực, đồng thời cũng là năm tiếp tục triển khai áp dụng Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn. Những yêu cầu cơ bản trong phát triển KCN, KKT trong năm 2007 và giai đoạn tiếp theo như sau:

Một là các Ban quản lý KCN, KKT triển khai áp dụng các quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Nghị định hướng dẫn theo các Thông tư, Quyết định và hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành có liên quan. Các Ban quản lý cần xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ mới của mình trong quản lý nhà nước về đầu tư, chủ động thực hiện công tác thẩm tra, đăng ký cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư vào KCN, KKT và xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN trên cơ sở phối hợp với các Bộ, ngành liên quan khi cần thiết.

Hai là các cơ quan trung ương bên cạnh việc hướng dẫn các Ban quản lý KCN, KKT triển khai công tác, cần phải nhanh chóng triển khai nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh các văn bản pháp quy hiện hành trên các lĩnh vực lao động, thương mại, tài chính, môi trường, xây dựng... phù hợp với xu hướng phân cấp quản lý theo Luật Đầu tư mới; cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các Ban quản lý KCN, KKT.

Ba là hoàn thiện các văn bản pháp quy về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của KCN, KKT đồng thời triển khai xây dựng bộ máy thanh tra KCN, KKT ở trung ương và địa phương để đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong thời gian tới, đặc biệt là thanh tra trong lĩnh vực quy hoạch, môi trường, lao động.

Bốn là tăng cường các chế tài và thống nhất các quy định về lĩnh vực môi trường, nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2010 tất cả các KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung theo Nghị quyết tại Đại hội Đảng X.

Năm là triển khai quy hoạch KCN, KKT một cách chặt chẽ theo quy hoạch KCN, KKT được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; nghiên cứu, rà soát các cơ chế, chính sách đối với KKT nhằm áp dụng thống nhất các quy định về KKT.

Sáu là sớm nghiên cứu, điều chỉnh quy định về hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KKT; cơ chế huy động vốn và khuyến khích xây dựng nhà ở cho công nhân, bảo vệ môi trường trong KCN, KKT.

Từ kết quả triển khai chương trình phát triển KCN trong năm 2006 và giai đoạn vừa qua, trên cơ sở xu hướng gia tăng đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới, dự kiến các chỉ tiêu phát triển KCN trong năm 2007 như sau:

Về phát triển các KCN: trên cơ sở điều kiện và tiêu chí đã được đề ra trong Quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tiếp tục thành lập mới và mở rộng từ 8-12 KCN với tổng diện tích từ 2500 – 3000 ha, nâng tổng diện tích các KCN đến cuối năm 2007 lên khoảng 32.000-33.000 ha.

Về thu hút đầu tư: Dự kiến thu hút được thêm khoảng 300-350 dự án đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT với tổng vốn đầu tư thu hút thêm khoảng 4 – 4,5 tỷ USD, nâng tổng vốn đầu tư nước ngoài đến cuối năm 2007 vào các KCN phấn đấu đạt 25-26 tỷ USD. Dự kiến thu hút thêm được 10.000-15.000 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước vào các KCN, nâng tổng vốn đầu tư trong nước đến cuối năm 2007 lên khoảng 145.000-150.000 tỷ đồng, nâng tỷ lệ lấp đầy đạt 74-75% đối với các KCN đã vận hành; 54-55% đối với các KCN cả nước.

Về sản xuất và kinh doanh: Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN phấn đấu đạt 21-22 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 30-31% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt từ 10-11 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 22-23% giá trị xuất khẩu cả nước.

Các nhiệm vụ và biện pháp cần thực hiện trong thời gian tới như sau:

Về xúc tiến đầu tư:

- Xây dựng Đề án/Chương trình xúc tiến đầu tư vào các KCN, KKT trên cơ sở Chương trình xúc tiến đầu tư có trọng điểm, theo dự án.

- Tiếp tục tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư tại các quốc gia nhiều tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Canađa, Đài Loan, Trung Quốc…

- Xây dựng trang web thành đầu mối kết nối giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các Ban quản lý KCN, KKT các địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư. Xây dựng nội dung xúc tiến đầu tư trên trang web với một hệ thống các thông tin về KCN các doanh nghiệp KCN; các chính sách ưu đãi, thủ tục đầu tư, đầu mối liên hệ tìm hiểu thông tin tại địa phương… phục vụ cho xúc tiến đầu tư.

Về triển khai công tác quản lý của các Ban quản lý KCN, KKT:

- Ban quản lý các KCN, KKT phải triển khai nhanh việc điều chỉnh từ cơ chế uỷ quyền sang cơ chế phân cấp theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP, đặc biệt phải chủ động nghiên cứu vận dụng luật pháp, chính sách có liên quan tới đầu tư, doanh nghiệp và những cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về công tác quản lý nhà nước về KCN làm cơ sở để Ban quản lý các KCN xác định rõ vai trò, vị trí và thẩm quyền để thực hiện.

- Xây dựng cơ chế thông tin trao đổi thường xuyên giữa Ban quản lý và Bộ Kế hoạch (qua công văn, mạng Internet, Hội thảo, tập huấn) để giải đáp các vướng mắc, hoặc tổng hợp ý kiến của Ban quản lý để xây dựng, điều chỉnh và hướng dẫn chung cho các BQL thực hiện.

- Tổ chức các đoàn thanh tra quy hoạch KCN tại các địa phương, tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về môi trường và lao động trong KCN, KKT.

- Đối với một số dự án lớn, theo yêu cầu của Ban quản lý, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổ công tác thi hành Luật có thể cử người trực tiếp xuống Ban hỗ trợ Ban giải quyết.

- Trong các cuộc họp giao ban hằng tháng, định kỳ Ban quản lý báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư tình hình thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, các vướng mắc gặp phải trong quá trình thực hiện, đề xuất biện pháp giải quyết để Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổ công tác tổng hợp, điều chỉnh kịp thời.

Về hoàn thiện các văn bản pháp quy để thực hiện:

- Trong năm 2007, sẽ tiến hành sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Quyết định 183/2004/NĐ-CP về cơ chế hỗ trợ ngân sách trung ương cho xây dựng kết cấu hạ tầng KCN ở các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, trong đó có đánh giá thực hiện mô hình đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu. Trên cơ sở đó đề xuất việc điều chỉnh cơ chế hỗ trợ xây dựng KCN ở các địa phương kinh tế – xã hội khó khăn ở Tây Bắc, Tây nguyên, Tây Nam Bộ.

- Kiểm soát việc thực hiện Chỉ thị số 06/2006/TTg ngày 06/3/2006 về các biện pháp tăng cường chỉ đạo và chấp hành pháp luật lao động trong các doanh nghiệp tại các Ban quản lý KCN, KKT. Ban quản lý các KCN, KKT cần thực hiện nghiêm túc báo cáo về tình hình thực hiện chính sách

về lao động tại các KCN, giám sát chặt chẽ việc thực hiện tại các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm hạn chế đình công và có biện pháp ứng phó kịp thời khi đình công xảy ra.

- Giám sát việc thực hiện cơ chế triển khai thành lập mới và mở rộng KCN theo đúng điều kiện và tiêu chí trong Quy hoạch, đặc biệt là điều kiện về công trình xử lý nước thải tập trung. Đối với các KCN ở các vùng kinh tế trọng điểm đã lấp đầy trên 60% diện tích đất công nghiệp mà chưa xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, đề nghị các Ban quản lý KCN kiên quyết không cấp mới Giấy chứng nhận đầu tư.

- Xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ môi trường KCN trong đó có các cơ chế, chính sách hỗ trợ và huy động vốn đầu tư công trình xử lý chất thải trong KCN; cơ chế phân công phối hợp trong quản lý môi trường trong KCN.

- Tiếp tục xây dựng cơ chế phân bổ vốn hỗ trợ xây dựng KCN, KKT phù hợp với điều kiện và nhu cầu thực tế của các địa phương và cân đối ngân sách trung ương.

- Tăng cường công tác phối hợp trong công tác cập nhật thông tin, xúc tiến đầu tư, xây dựng mạng lưới dịch vụ công, hỗ trợ doanh nghiệp tại các Ban quản lý KCN, KKT.

TS. Trần Ngọc Hưng - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Cập nhật ( 29/10/2014 )
 
Tin mới đưa:

“ Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com