Năm 2006 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, cũng là năm đánh dấu bước chuyển biến mới của hệ thống các khu công nghiệp, khu kinh tế sau 15 năm xây dựng và phát triển. Trong bối cảnh đó, cùng với việc Việt Nam tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các KCN, KKT của Việt Nam tiếp tục đạt được những kết quả tích cực, có những đóng góp hết sức nổi bật vào sự tăng trưởng kinh tế nước ta trong năm 2006 vừa qua.
Hoạt động của các KCN, KKT của Việt Nam trong năm 2006 được khái quát ở những kết quả dưới đây:
Một là tiếp tục thành lập mới và mở rộng các KCN ở một số địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.
Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập 9 KCN mới với tổng diện tích đất tự nhiên đạt 2.081 ha. Đó là: KCN Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (340,7 ha); KCN Quang Châu, tỉnh Bắc Giang (426 ha); KCN Sông Hậu, tỉnh Hậu Giang (126 ha); KCN Nhơn Trạch II – Lộc Khang, tỉnh Đồng Nai (70 ha); KCN Phước Nam, tỉnh Ninh Thuận (369,92 ha); KCN Khai Quang, tỉnh Vĩnh Phúc (262 ha); KCN Mỹ Trung, tỉnh Nam Định (144 ha); KCN Long Hậu, tỉnh Long An (142 ha) và KCN Thăng Long II, tỉnh Hưng Yên (200 ha).
Đồng thời KCN Đồng Văn, tỉnh Hà Nam được Thủ tướng Chính phủ cho phép mở rộng thêm 263,82 ha; KCN Mỹ Xuân B1 được mở rộng thêm 200 ha (KCN Mỹ Xuân B1 – Tiến Hùng) và KCN Sa Đéc mở rộng thêm 61,98 ha (Khu C Sa Đéc mở rộng).
Tổng diện tích các KCN được thành lập mới và mở rộng trong năm 2006 đạt 2.607 ha, trong đó đất công nghiệp có thể cho thuê là 1.780 ha.
Trước xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, việc tiếp tục thành lập mới và mở rộng thêm các KCN trong năm 2006 đã tính tới giai đoạn phát triển trong những năm sau, nhằm chuẩn bị quỹ đất để đón các nhà đầu tư trong một vài năm tới. Đồng thời diện tích KCN tăng thêm năm 2006 đã được điều chỉnh hợp lý hơn so với các năm trước (bằng khoảng 75%) nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng quỹ đất và phù hợp với tốc độ gia tăng đầu tư.
Tính đến cuối tháng 12/2006, cả nước có 139 KCN được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 29.392 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 19.743 ha, chiếm 67% tổng diện tích đất tự nhiên.
Về phân bố các KCN, trong thời gian qua, phân bố các KCN đã dần dịch chuyển theo hướng giảm bớt mật độ các KCN ở các Vùng kinh tế trọng điểm, ưu tiên thành lập các KCN ở Trung du và miền núi Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, 48 tỉnh, thành phố đã thành lập KCN, tuy nhiên, phân bố các KCN vẫn tập trung ở ba Vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tập trung nhiều KCN nhất với 65 KCN với tổng diện tích tự nhiên 16.228 ha, chiếm 55,2% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 25 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 4.601 ha, chiếm 15,7% tổng diện tích tự nhiên các KCN cả nước và Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung có 10 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 2.395 ha, chiếm 8,1% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước.
Hai là tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT trong năm 2006 đạt được mức tăng trưởng rất cao.
Tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KKT có sự tăng trưởng vượt bậc so với năm 2005.
Năm 2006, các KCN, KKT đã thu hút được 356 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 4.336 triệu USD, chiếm khoảng 56% tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước và gấp 2,4 lần so với năm 2005.
Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất cả nước với 213 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 2.578 triệu USD, chiếm khoảng 60% cả về số dự án và số vốn đầu tư thu hút mới trong các KCN trên cả nước. Đặc biệt, với dự án dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại KCN Phú Mỹ II có tổng vốn đầu tư đăng ký trên 1,2 tỷ đô la Mỹ, Bà Rịa-Vũng Tàu trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,36 tỷ USD.
Một số dự án có vốn đầu tư lớn đầu tư vào KCN trong năm 2006 phải kể đến: Dự án sản xuất thiết bị viễn thông của Công ty Panasonic (KCN Thăng Long, Hà Nội) với tổng vốn đầu tư đăng ký 76 triệu USD; Dự án sản xuất máy in, máy fax, thiết bị điện tử của Công ty TNHH Brother Industries với số vốn đầu tư 40 triệu USD (KCN Phúc Điền, Hải Dương).
Về tình hình tăng vốn, trong năm 2006, có 337 lượt dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn với tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 1.347 triệu USD, chiếm khoảng 62% số vốn tăng thêm của cả nước, tăng 30,5% so với năm 2006 (về tổng vốn đầu tư tăng thêm).
Đồng Nai, Bình Dương, Long An và thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương dẫn đầu cả nước về số vốn đầu tư tăng thêm với tổng số 219 lượt dự án tăng vốn và tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 1.024,5 triệu USD, chiếm 76% tổng vốn đầu tư tăng thêm trong các KCN cả nước.
Một số dự án có số vốn tăng thêm cao điển hình như dự án Công ty TNHH Công nghiệp Gốm Bạch Mã (Bình Dương) tăng 150 triệu USD, Công ty TNHH Hoya Glass Disk (Hà Nội) tăng 130 triệu USD, Công ty Giầy Ching Luh (Long An) tăng 98 triệu USD, Nhà máy sản xuất máy in Canon ở KCN Tiên Sơn (Bắc Ninh) tăng 70 triệu USD, Công ty Formosa ở KCN Nhơn Trạch III (Đồng Nai) tăng 66,4 triệu USD.
Ngoài ra, trong năm còn có 2 dự án có có vốn đầu tư lớn đầu tư vào KKT Dung Quất là dự án sản xuất thép của Tập đoàn Tycoons Worldwide Steels (Đài Loan) với tổng vốn đầu tư giai đoạn 1 là 556 triệu USD và Dự án cơ khí nặng của Tập đoàn Dossan (Hàn Quốc) với tổng vốn đầu tư 260 triệu USD.
Trong năm 2006, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KKT đạt 5.682 triệu USD, chiếm khoảng 56% tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước và tăng gần 2 lần so với năm 2005.
Tính đến cuối tháng 12/2006, các KCN đã thu hút được 2.433 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 21,79 tỷ USD. Trong đó, trên 1.700 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và 380 dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện luỹ kế đến cuối năm 2006 đạt 11,37 tỷ USD, chiếm khoảng 52% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Năm 2006, các KCN trên cả nước thu hút được trên 300 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đạt trên 15.000 tỷ đồng. Luỹ kế đến cuối tháng 12/2006, các KCN cả nước thu hút được 2.623 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 135,69 nghìn tỷ đồng. Trong đó, trên 1.720 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và còn gần 500 dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện luỹ kế đến cuối năm 2006 đạt khoảng 78 nghìn tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 58%.
Ba là trong năm 2006, mặc dù có nhiều biến động trên thị trường trong nước và thế giới, đặc biệt sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các doanh nghiệp KCN vẫn tiếp tục duy trì hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 16,8 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2005 và chiếm khoảng 29-30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước.
Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 8,3 tỷ USD, tăng trên 22% so với năm 2005 và chiếm trên 21% so với tổng giá trị xuất khẩu cả nước năm 2006 (kể cả dầu thô).
Giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN cả nước năm 2006 ước đạt khoảng 12,5 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm 2005.
Nhìn vào các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh nêu trên, có thể thấy đóng góp của KCN, KKT vào giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu của cả nước ngày càng lớn.
Năm 2006, các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách khoảng 880 triệu USD, tăng 35,4% so với năm 2005.
Đến cuối năm 2006, các KCN đã giải quyết việc làm cho trên 918.000 lao động trực tiếp.
Bốn là tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN đã được cải thiện đáng kể.
Đến cuối năm 2006, cả nước có 19 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 970 triệu USD và 120 dự án trong nước đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 37.259 tỷ đồng.
Trong số 139 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN kể trên, 17 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 73 dự án đầu tư trong nước đã cơ bản hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và đi vào vận hành; các dự án còn lại đang triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.
Tổng vốn thực hiện của các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN luỹ kế đến cuối năm 2006 đạt khoảng 585 triệu USD và 13.596 tỷ đồng.
Năm 2006, số lượng các KCN hoàn thành xây dựng cơ bản tăng đáng kể so với những năm trước, riêng năm 2006, có thêm 11 KCN hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và đi vào vận hành. Đến thời điểm cuối năm 2006, cả nước đã có 90 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 19.548 ha và 49 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 9.844 ha.
Năm là tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp tiếp tục gia tăng.
Tính đến cuối năm 2006, các KCN trên cả nước đã cho thuê được khoảng 10.758 ha, đạt diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê 54,5%. Riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy trên 72,2%.
Với nhiều KCN mới hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào hoạt động trong năm nay thì đạt được tỷ lệ lấp đầy cao hơn năm 2005 (52%) là kết quả rất có ý nghĩa, thể hiện tốc độ thu hút đầu tư tăng nhanh. Đáng chú ý là các KCN mới thành lập 2 –3 năm gần đầy cũng đã đạt tốc độ lấp đầy khá nhanh.
Theo các Vùng kinh tế trọng điểm, tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam đạt 57,7%; Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đạt 71%; Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đạt 53,9%.
Sáu là hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng các KKT diễn ra hết sức khẩn trương và đạt kết quả thu hút đầu tư tốt.
Hiện tại đã có 8 KKT được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập và ban hành quy chế hoạt động bao gồm: Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng áng, Vân Phong, Phú Quốc và Chân Mây – Lăng Cô với tổng diện tích 323.940 ha.
Các KKT gồm Chu Lai, Nhơn Hội, Dung Quất đã hoàn thành công tác quy hoạch xây dựng chung và quy hoạch chi tiết một số khu chức năng như KCN, khu đô thị, khu du lịch, và đang khẩn chương triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội và bước đầu thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Trong đó, KKT Dung Quất trong năm 2006 đã đạt hiệu quả thu hút đầu tư cao, có sự chuyển biến mạnh mẽ trong thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn trong ngành luyện cán thép, cơ khí chế tạo. Kết quả của KKT Dung Quất đạt được là nhờ các yếu tố:
- Xây dựng được quy hoạch tổng thể của KKT và quy hoạch chi tiết các khu chức năng gồm: khu bảo thuế, các khu công nghiệp, khu chế xuất; khu cảng và dịch vụ hậu cần cảng, khu dân cư, khu đô thị, khu du lịch - dịch vụ và khu hành chính với tổng diện tích 10.300 ha.
- Những năm qua, Dung Quất được đầu tư tập trung từ ngân sách Nhà nước và đã cơ bản hoàn thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội giai đoạn I gồm: hệ thống giao thông trục chính gần 70 km, hệ thống tuyến điện, thông tin liên lạc, nhà máy nước, cảng chuyên dùng, các khu dân cư, Trường đào tạo nghề (qui mô 2000 học sinh), Trung tâm quan trắc giám sát môi trường và đang triển khai xây dựng khu chuyên gia, Trung tâm văn hoá thể thao, Trạm thu phát truyền hình, Bệnh viện Dung Quất (giai đoạn I: 100 giường) và khu du lịch dịch vụ... có thể đáp ứng yêu cầu cho Nhà máy lọc dầu số 1 và các dự án khác.
Đến nay, Dung Quất đã thu hút được 103 dự án với tổng vốn đầu tư trên 5,5 tỷ USD (kể cả nhà máy lọc dầu Dung Quất), trong đó có các dự án quy mô lớn, đặc biệt quan trọng là Nhà máy luyện thép Tycoons của Đài Loan với tổng vốn đầu tư 557 triệu USD, Dự án liên hiệp công nghiệp nặng Dossan của Hàn Quốc với tổng vốn đầu tư 260 triệu USD.
KKT Dung Quất đạt được kết quả nêu trên là nhờ thu hút được các dự án công nghiệp nặng, quy mô lớn. Đây là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của KKT, bên cạnh việc huy động vốn để triển khai nhanh các công trình hạ tầng thiết yếu.
Các KKT khác gồm Nghi Sơn, Vũng áng, Vân Phong, Phú Quốc và Chân Mây – Lăng Cô chủ yếu đang trong quá trình xây dựng quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết các khu chức năng và chuẩn bị cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng.
Bảy là trong năm 2006, nhiều cơ chế chính sách mới liên quan trực tiếp tới hoạt động của KCN, KKT được ban hành.
Ngày 21/8/2006, tại Quyết định số 1107/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN của Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến 2020. Theo Quyết định nói trên, đến năm 2015 dự kiến cả nước sẽ thành lập mới 115 KCN với tổng diện tích 26.443 ha và mở rộng 27 KCN với tổng diện tích 5.559 ha. Điểm đột phá trong Quy hoạch phát triển KCN thể hiện ở các mặt:
- Đề ra được hệ thống các điều kiện và tiêu chí thành lập mới và mở rộng KCN chặt chẽ, cụ thể, bảo đảm gắn bó chặt chẽ giữa vấn đề hiệu quả đầu tư với vấn đề xã hội, môi trường.
- Các tiêu chí trên hạn chế sự thành lập và đề nghị thành lập tràn lan các KCN ở địa phương, đồng thời qua cơ chế thành lập nêu trên đã tạo động lực và sự năng động cho địa phương để phấn đấu đáp ứng các điều kiện và tiêu chí nhằm thành lập và mở rộng KCN.
- Cơ chế này phù hợp với việc phân cấp theo Nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư, theo đó tạo sự chủ động cho các Ban quản lý KCN trong việc xem xét thành lập và mở rộng các KCN theo đúng thẩm quyền.
- Cơ chế thành lập KCN gắn với điều kiện và tiêu chí là một biện pháp để khắc phục sai số trong cách tính toán để hình thành danh mục các KCN dự kiến thành lập.
- Điều kiện và tiêu chí nêu trên cũng là cơ sở để tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thành lập các KCN tại địa phương.
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các Nghị định hướng dẫn quy định các vấn đề liên quan tới hoạt động của KCN, KKT; doanh nghiệp KCN, KKT và Ban quản lý các KCN, KKT, trong đó các cơ chế, chính sách phát triển KKT tiếp tục được hoàn thiện.
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của hai KKT Vũng áng (Hà Tĩnh) và KKT Nghi Sơn (Thanh Hoá) tại các Quyết định số 72/2006/QĐ-TTg ngày 3/4/2006 và số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15/5/2006.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 253/2006/QĐ-TTg ngày 06/11/2006 thay thế Quyết định số 108/2003/QĐ-TTg ngày 05/6/2003 về Quy chế hoạt động của KKT mở Chu Lai.
Trong năm 2006, Đề án “Quy hoạch phát triển các KKT ven biển của Việt Nam đến năm 2020” đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ. Đề án đã đưa ra 6 điều kiện hình thành KKT về vị trí địa kinh tế, công trình trọng điểm, quy mô diện tích, lợi ích kinh tế – xã hội mang lại cho địa phương, vùng…). Đây là cơ sở để xem xét thẩm định việc thành lập các KKT một cách khách quan. Các điều kiện hình thành đã giới hạn việc thành lập thêm các KKT nhằm tạo điều kiện tập trung nguồn ngân sách hỗ trợ các KKT hiện tại, huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho KKT, đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng hạ tầng và thu hút đầu tư các KKT hiện tại, có điều kiện kiểm nghiệm, tổng kết mô hình KKT trước khi xem xét, thành lập tiếp các KKT.
Tám là vai trò, vị trí của các Ban quản lý KCN đã được khẳng định và nâng cao rõ rệt.
Luật Đầu tư mới năm 2005 và các Nghị định hướng dẫn được ban hành đã đánh dấu bước chuyển đổi quan trọng trong tư duy quản lý nhà nước về đầu tư từ cơ chế uỷ quyền sang cơ chế phân cấp. Trong năm qua, Ban quản lý các KCN đã thể hiện rõ nét vai trò tham gia xây dựng và triển khai chính sách. Với kinh nghiệm thực tiễn quản lý trực tiếp các KCN, KKT trên địa bàn, quá trình thực hiện nhiệm vụ theo uỷ quyền, Ban quản lý KCN, KKT đã đóng góp nhiều ý kiến trong quá trình xây dựng Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các Nghị định hướng dẫn; tham gia đề xuất, góp ý vào quá trình xây dựng, điều chỉnh chính sách phát triển KCN, KKT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ban, ngành. Qua cơ chế phân cấp theo Nghị định mới, Ban quản lý được thực hiện quyền hạn, trách nhiệm một cách chủ động, đồng thời gắn chặt chẽ với các chế tài giám sát, định hướng, điều chỉnh của các cơ quan trung ương qua công tác quy hoạch, hướng dẫn, thẩm định dự án…
Như vậy, thành tựu của hệ thống KCN, KKT trong năm 2006 vừa qua có ý nghĩa hết sức quan trong xét trên nhiều khía cạnh, tiếp tục nâng cao tỷ trọng đóng góp của KCN, KKT vào lượng vốn đầu tư thu hút được trên cả nước, tổng giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu và nộp ngân sách trên cả nước; có những chuyển biến tích cực về công tác môi trường, xã hội; đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về KCN đã có những chuyển đổi mạnh mẽ theo cơ chế phân cấp triệt để nhằm thích nghi với bối cảnh mới về hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Những thành tựu trên đã thể hiện hệ thống KCN, KKT đã tích cực chuyển sang một giai đoạn phát triển mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo duy trì tốc độ và chất lượng tăng trưởng theo hướng ổn định, bền vững.
Tuy vậy, trong bối cảnh phải thích nghi nhanh với hệ thống pháp luật mới, với yêu cầu mới của quá trình gia nhập WTO, hệ thống KCN, KKT vẫn bộc lộ một số hạn chế chưa được khắc phục và xuất hiện một số điểm yếu mới. Đó là:
Thứ nhất, công tác xây dựng quy hoạch về cơ bản đã đạt kết quả tốt, song vẫn còn một số địa phương muốn xây dựng thêm KCN không thuộc quy hoạch phát triển KCN do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mà không có luận chứng thuyết phục sự cần thiết phải bổ sung quy hoạch.
Thứ hai, nhiều Ban quản lý KCN chưa thực sự thích nghi kịp với hệ thống cơ chế, chính sách mới đã được điều chỉnh. Một số Ban quản lý KCN mới được thành lập còn chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ mới của mình về quản lý nhà nước về đầu tư đối với các KCN. Mặc dù, hệ thống pháp luật mới đã quy định, nhưng một số BQL còn nhầm lẫn giữa Giấy phép đầu tư và Giấy chứng nhận đầu tư, thẩm quyền cấp phép dự án cơ sở hạ tầng KCN thuộc UBND tỉnh, hoặc một số dự án thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đây nay thuộc thẩm quyền của Ban quản lý KCN...
Thứ ba, cơ chế, chính sách về quản lý nhà nước về KCN, KKT theo Luật Đầu tư mới còn nhiều điểm chưa thống nhất và chưa được đầy đủ. Các cơ chế, chính sách trên các lĩnh vực khác còn chưa điều chỉnh kịp theo Luật mới, nhiều quy định trong Nghị định hướng dẫn còn thiếu, gây khó khăn cho các Ban trong quá trình áp dụng (chẳng hạn về quy hoạch chi tiết KCN, về một số nội dung quản lý nhà nước đối với KCN, KKT...).
Thứ tư, đời sống của người lao động trong KCN đã được quan tâm hơn nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cuộc sống với thu nhập ổn định cho người công nhân và gia đình.
Những tháng đầu năm 2006 đã xảy ra một loạt các cuộc đình công của công nhân trong các doanh nghiệp FDI ở các KCN thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Nam, chủ yếu là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai và TP Hồ Chí Minh. Nguyên nhân xảy ra các cuộc đình công này chủ yếu do chính sách tiền lương, thưởng trong các doanh nghiệp FDI chưa phù hợp với biến động của thị trường, điều kiện ăn ở làm việc của công nhân yếu kém còn có nhiều yếu kém, sự phối hợp trong giữa các cơ quan nhà nước, các đơn vị trung ương và địa phương trong quản lý lao động, nhận thức pháp luật hạn chế của người lao động…
Tình trạng đình công của công nhân hiện nay đã giảm bớt, tuy nhiên nhiều vấn đề vẫn chưa được giải quyết một cách căn bản về nhà ở cho công nhân, về thu nhập của người lao động trong khu vực trong nước và nước ngoài, về vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp....
Thứ năm, công tác bảo vệ môi trường chưa được đẩy mạnh đúng mức. Trong năm qua, chưa có thêm được KCN nào hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tập trung, cả nước mặc dù đã có 139 KCN nhưng vẫn chỉ có 33 KCN đã vận hành nhà máy xử lý nước thải tập trung; có thêm một số KCN chuẩn bị xây dựng như KCN Tiên Sơn (Bắc Ninh), một số KCN ở Đồng Nai...
Thứ sáu, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN vẫn còn hạn chế xét về nhiều khía cạnh (lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, chất lượng kết quả thanh tra, chế tài thanh tra, kiểm tra... ). Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác thanh tra còn chưa thật chặt chẽ, chưa có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra còn mỏng, phương tiện làm việc còn hạn chế (đặc biệt là công tác thanh tra kiểm tra công tác bảo vệ môi trường). Các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của KCN về các lĩnh vực kế hoạch, đầu tư, môi trường... còn thiếu và chưa đảm bảo tính cương quyết.
Năm 2007 là năm đầu tiên của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của WTO và bắt đầu triển khai các cam kết mở cửa thị trường trên một số lĩnh vực, đồng thời cũng là năm tiếp tục triển khai áp dụng Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn. Những yêu cầu cơ bản trong phát triển KCN, KKT trong năm 2007 và giai đoạn tiếp theo như sau:
Một là các Ban quản lý KCN, KKT triển khai áp dụng các quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Nghị định hướng dẫn theo các Thông tư, Quyết định và hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành có liên quan. Các Ban quản lý cần xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ mới của mình trong quản lý nhà nước về đầu tư, chủ động thực hiện công tác thẩm tra, đăng ký cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư vào KCN, KKT và xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN trên cơ sở phối hợp với các Bộ, ngành liên quan khi cần thiết.
Hai là các cơ quan trung ương bên cạnh việc hướng dẫn các Ban quản lý KCN, KKT triển khai công tác, cần phải nhanh chóng triển khai nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh các văn bản pháp quy hiện hành trên các lĩnh vực lao động, thương mại, tài chính, môi trường, xây dựng... phù hợp với xu hướng phân cấp quản lý theo Luật Đầu tư mới; cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các Ban quản lý KCN, KKT.
Ba là hoàn thiện các văn bản pháp quy về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của KCN, KKT đồng thời triển khai xây dựng bộ máy thanh tra KCN, KKT ở trung ương và địa phương để đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong thời gian tới, đặc biệt là thanh tra trong lĩnh vực quy hoạch, môi trường, lao động.
Bốn là tăng cường các chế tài và thống nhất các quy định về lĩnh vực môi trường, nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2010 tất cả các KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung theo Nghị quyết tại Đại hội Đảng X.
Năm là triển khai quy hoạch KCN, KKT một cách chặt chẽ theo quy hoạch KCN, KKT được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; nghiên cứu, rà soát các cơ chế, chính sách đối với KKT nhằm áp dụng thống nhất các quy định về KKT.
Sáu là sớm nghiên cứu, điều chỉnh quy định về hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KKT; cơ chế huy động vốn và khuyến khích xây dựng nhà ở cho công nhân, bảo vệ môi trường trong KCN, KKT.
Từ kết quả triển khai chương trình phát triển KCN trong năm 2006 và giai đoạn vừa qua, trên cơ sở xu hướng gia tăng đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới, dự kiến các chỉ tiêu phát triển KCN trong năm 2007 như sau:
Về phát triển các KCN: trên cơ sở điều kiện và tiêu chí đã được đề ra trong Quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tiếp tục thành lập mới và mở rộng từ 8-12 KCN với tổng diện tích từ 2500 – 3000 ha, nâng tổng diện tích các KCN đến cuối năm 2007 lên khoảng 32.000-33.000 ha.
Về thu hút đầu tư: Dự kiến thu hút được thêm khoảng 300-350 dự án đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT với tổng vốn đầu tư thu hút thêm khoảng 4 – 4,5 tỷ USD, nâng tổng vốn đầu tư nước ngoài đến cuối năm 2007 vào các KCN phấn đấu đạt 25-26 tỷ USD. Dự kiến thu hút thêm được 10.000-15.000 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước vào các KCN, nâng tổng vốn đầu tư trong nước đến cuối năm 2007 lên khoảng 145.000-150.000 tỷ đồng, nâng tỷ lệ lấp đầy đạt 74-75% đối với các KCN đã vận hành; 54-55% đối với các KCN cả nước.
Về sản xuất và kinh doanh: Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN phấn đấu đạt 21-22 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 30-31% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt từ 10-11 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 22-23% giá trị xuất khẩu cả nước.
Các nhiệm vụ và biện pháp cần thực hiện trong thời gian tới như sau:
Về xúc tiến đầu tư:
- Xây dựng Đề án/Chương trình xúc tiến đầu tư vào các KCN, KKT trên cơ sở Chương trình xúc tiến đầu tư có trọng điểm, theo dự án.
- Tiếp tục tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư tại các quốc gia nhiều tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Canađa, Đài Loan, Trung Quốc…
- Xây dựng trang web thành đầu mối kết nối giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các Ban quản lý KCN, KKT các địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư. Xây dựng nội dung xúc tiến đầu tư trên trang web với một hệ thống các thông tin về KCN các doanh nghiệp KCN; các chính sách ưu đãi, thủ tục đầu tư, đầu mối liên hệ tìm hiểu thông tin tại địa phương… phục vụ cho xúc tiến đầu tư.
Về triển khai công tác quản lý của các Ban quản lý KCN, KKT:
- Ban quản lý các KCN, KKT phải triển khai nhanh việc điều chỉnh từ cơ chế uỷ quyền sang cơ chế phân cấp theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP, đặc biệt phải chủ động nghiên cứu vận dụng luật pháp, chính sách có liên quan tới đầu tư, doanh nghiệp và những cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về công tác quản lý nhà nước về KCN làm cơ sở để Ban quản lý các KCN xác định rõ vai trò, vị trí và thẩm quyền để thực hiện.
- Xây dựng cơ chế thông tin trao đổi thường xuyên giữa Ban quản lý và Bộ Kế hoạch (qua công văn, mạng Internet, Hội thảo, tập huấn) để giải đáp các vướng mắc, hoặc tổng hợp ý kiến của Ban quản lý để xây dựng, điều chỉnh và hướng dẫn chung cho các BQL thực hiện.
- Tổ chức các đoàn thanh tra quy hoạch KCN tại các địa phương, tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về môi trường và lao động trong KCN, KKT.
- Đối với một số dự án lớn, theo yêu cầu của Ban quản lý, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổ công tác thi hành Luật có thể cử người trực tiếp xuống Ban hỗ trợ Ban giải quyết.
- Trong các cuộc họp giao ban hằng tháng, định kỳ Ban quản lý báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư tình hình thực hiện nhiệm vụ được phân cấp, các vướng mắc gặp phải trong quá trình thực hiện, đề xuất biện pháp giải quyết để Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổ công tác tổng hợp, điều chỉnh kịp thời.
Về hoàn thiện các văn bản pháp quy để thực hiện:
- Trong năm 2007, sẽ tiến hành sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Quyết định 183/2004/NĐ-CP về cơ chế hỗ trợ ngân sách trung ương cho xây dựng kết cấu hạ tầng KCN ở các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, trong đó có đánh giá thực hiện mô hình đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu. Trên cơ sở đó đề xuất việc điều chỉnh cơ chế hỗ trợ xây dựng KCN ở các địa phương kinh tế – xã hội khó khăn ở Tây Bắc, Tây nguyên, Tây Nam Bộ.
- Kiểm soát việc thực hiện Chỉ thị số 06/2006/TTg ngày 06/3/2006 về các biện pháp tăng cường chỉ đạo và chấp hành pháp luật lao động trong các doanh nghiệp tại các Ban quản lý KCN, KKT. Ban quản lý các KCN, KKT cần thực hiện nghiêm túc báo cáo về tình hình thực hiện chính sách
về lao động tại các KCN, giám sát chặt chẽ việc thực hiện tại các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm hạn chế đình công và có biện pháp ứng phó kịp thời khi đình công xảy ra.
- Giám sát việc thực hiện cơ chế triển khai thành lập mới và mở rộng KCN theo đúng điều kiện và tiêu chí trong Quy hoạch, đặc biệt là điều kiện về công trình xử lý nước thải tập trung. Đối với các KCN ở các vùng kinh tế trọng điểm đã lấp đầy trên 60% diện tích đất công nghiệp mà chưa xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, đề nghị các Ban quản lý KCN kiên quyết không cấp mới Giấy chứng nhận đầu tư.
- Xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ môi trường KCN trong đó có các cơ chế, chính sách hỗ trợ và huy động vốn đầu tư công trình xử lý chất thải trong KCN; cơ chế phân công phối hợp trong quản lý môi trường trong KCN.
- Tiếp tục xây dựng cơ chế phân bổ vốn hỗ trợ xây dựng KCN, KKT phù hợp với điều kiện và nhu cầu thực tế của các địa phương và cân đối ngân sách trung ương.
- Tăng cường công tác phối hợp trong công tác cập nhật thông tin, xúc tiến đầu tư, xây dựng mạng lưới dịch vụ công, hỗ trợ doanh nghiệp tại các Ban quản lý KCN, KKT.
TS. Trần Ngọc Hưng - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
|