Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ở Việt Nam, để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước như Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế, Chính phủ đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam).
1. Phát triển bền vững các KCN và tiêu chí đánh giá.
Mục tiêu phát triển bền vững đất nước chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở thực hiện chiến lược phát triển bền vững trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, trong đó có phát triển bền vững các KCN.
Có thể hiểu phát triển bền vững khu công nghiệp là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có hiệu quả ngày càng cao trong bản thân KCN, gắn liền với việc bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống, cũng như những yêu cầu về ổn định xã hội, an ninh quốc phòng trong khu vực có KCN cũng như toàn lãnh thổ quốc gia.
Theo quan niệm trên, phát triển bền vững KCN ở Việt Nam phải được xem xét trên 2 góc độ:
(1) Duy trì tính chất bền vững và hiệu quả trong hoạt động của bản thân KCN. Bảo đảm các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của KCN; nâng cao khả năng cạnh tranh của các KCN Việt Nam, bảo đảm chất lượng môi trường trong nội bộ KCN.
(2) Tác động lan toả tích cực của KCN đến hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường của địa phương, khu vực có KCN. Điều này được thể hiện trên các mặt: tạo sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hướng về xuất khẩu; tác động tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội cho khu vực có KCN; tác động tích cực và giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề xã hội, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho dân cư, giảm thiểu tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển KCN.
Với 2 hướng đặt vấn đề về phát triển bền vững nêu trên, tiêu chí đánh giá nó cũng được xác định theo 2 góc độ:
a. Các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững nội tại khu công nghiệp.
(1) Vị trí đặt của khu công nghiệp.
Đây là cơ sở ban đầu dẫn đến sự thành công của khu công nghiệp. Dấu hiệu này thể hiện: khu công nghiệp đặt ở vị trí thuận lợi hay khó khăn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như đường sá, cầu cống, bến cảng, nhà ga, sân bay, hệ thống viễn thông; điều kiện về nguồn nhân lực dồi dào; tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư về vị trí và điều kiện sinh hoạt. Những điểm trên phải được xem xét trên khía cạnh hiện tại và sự duy trì khả năng ấy trong tương lai.
(2) Quy mô đất đai của khu công nghiệp.
Tiêu chí này xét trên 2 khía cạnh:
- Một là, mục đích hình thành khu công nghiệp: nếu việc hình thành khu công nghiệp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì quy mô có hiệu quả nằm trong khoảng 200-300 ha (đối với các khu công nghiệp nằm trong khu vực thành thị và vùng kinh tế trọng điểm), còn 200-400 ha đối với khu công nghiệp nằm trên các tỉnh; với mục tiêu di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn tập trung vào thì khu công nghiệp có quy mô nhỏ hơn 100 ha; với mục tiêu tận dụng nguồn lao động là thế mạnh tại chỗ của các địa phương thì quy mô khu công nghiệp từ 100 ha; với mục tiêu kết hợp kinh tế với quốc phòng thì hình thành các khu công nghiệp có quy mô từ 100-200 ha.
- Hai là, tính chất và điều kiện hoạt động của KCN: nếu khu công nghiệp được đặt ở địa phương có cảng biển và nguồn nguyên liệu lớn, hình thành với tính chất chuyên môn hoá sản xuất ổn định một số sản phẩm hàng hoá công nghiệp nặng thì quy mô khu công nghiệp từ 300-500 ha; với các khu công nghiệp nằm ở xa đô thị với các điều kiện xa cảng biển, với tính chất hoạt động là tận dụng lao động thì quy mô hợp lý là 50-100 ha.
(3) Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp.
Tiêu chí này được đo bằng tỷ lệ diện tích khu công nghiệp đã cho các doanh nghiệp và dịch vụ thuê so với tổng diện tích khu công nghiệp. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy: thời gian để thu hồi kinh phí đầu tư xây dựng có thể kéo dài khoảng 15-20 năm, vì vậy nếu sau 10-15 năm mà tỷ lệ khoảng trống trong KCN này không có khả năng đạt hiệu quả và phát triển bền vững.
(4) Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Tiêu chí này bao gồm: Tổng doanh thu; tổng giá trị gia tăng; tổng lao động thu hút; tổng vốn kinh doanh; tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng doanh thu; năng suất lao động tính theo doanh thu; thu nhập bình quân của một đơn vị lao động.
(5) Trình độ công nghệ của doanh nghiệp và các hoạt động triển khai khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nội bộ khu công nghiệp cũng như giữa các khu công nghiệp với nhau và được thể hiện ở: số lượng và cơ cấu máy móc thiết bị sử dụng trong khu công nghiệp; tỷ lệ máy móc thiết bị mới so với tổng số máy móc thiết bị sử dụng; độ tuổi trung bình của công nghệ hoạt động trong doanh nghiệp, tỷ lệ vốn sản xuất trên đầu 1 lao động, tỷ lệ vốn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai trong tổng vốn đầu tư của khu công nghiệp, tỷ lệ doanh thu từ hoạt động nghiên cứu và triển khai so với tổng quy mô hoạt động của doanh nghiệp và của toàn khu công nghiệp.
(6) Hệ số chuyên môn hoá và liên kết kinh tế.
Đây là tiêu chí phản ánh tính hiệu quả tỷong hoạt động của toàn khu công nghiệp, tính chất tiên tiến trong tổ chức sản xuất phù hợp với xu thế phát triển của phân công lao động xã hội theo hướng hiện đại. Tiêu chí này thể hiện trên các khía cạnh: tỷ lệ doanh thu của mặt hàng chuyên môn hoá chiếm trong tổng doanh thu; tỷ lệ số doanh nghiệp có liên kết kinh tế với nhau trong tổng số doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp; số ngành kinh tế hoạt động trong một khu công nghiệp (phản ánh tính chất logistic trong khu công nghiệp); hệ số liên kết kinh tế của khu công nghiệp với bên ngoài; số khu công nghiệp khác, số doanh nghiệp ở ngoài khu công nghiệp có trao đổi kinh tế kỹ thuật với khu công nghiệp.
(7) Mức độ thoả mãn nhu cầu cho các nhà đầu tư.
Tiêu chí này phản ánh mức độ hấp dẫn nội bộ của khu công nghiệp đối với các nhà đầu tư và được thể hiện cụ thể ở: mức độ bảo đảm của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật – xã hội của khu công nghiệp như: điện, nuớc, kho tàng, đường sá, phương tiện vận chuyển (chủng loại, quy mô và chất lượng của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật – xã hội); Chủng loại, quy mô và chất lượng hoạt động của hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế phục vụ hoạt động cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp như: bưu chính, thông tin, tài chính, ngân hàng, v.v...
b. Các tiêu chí đánh giá tác động lan toả.
Nhóm 1: Tiêu chí về kinh tế kỹ thuật.
Các chỉ tiêu đo lường chính là: Thu nhập bình quân đầu người tính cho toàn khu vực hoặc địa phương, so với mức chung của cả nước; cơ cấu kinh tế của địa phương có khu công nghiệp, thể hiện ở tỷ trọng về doanh thu, giá trị gia tăng, vốn sản xuất, lao động tính theo 3 lĩnh vực: ngành kinh tế, theo thành phần kinh tế, theo khu vực thể chế; đóng góp của khu công nghiệp cho ngân sách địa phương, thể hiện bằng: mức và tỷ lệ thu ngân sách của địa phương từ khu công nghiệp đem lại, tốc độ tăng thu thuế từ các khu công nghiệp; số lượng và chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật – xã hội của địa phương có khu công nghiệp, cụ thể là hệ thống đường sá, cầu cống, hệ thống nhà ở, các công trình điện, nước, hệ thống bưu điện, thông tin liên lạc; tỷ lệ đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của địa phương.
Nhóm 2: Tiêu chí phản ánh về xã hội.
Tiêu chí phản ánh ảnh hưởng xã hội của khu công nghiệp được tập trung vào các chỉ tiêu phản ánh khả năng giải quyết việc làm của khu công nghiệp cho địa phương sau:
- Sử dụng lao động địa phương: thể hiện ở quy mô và tỷ lệ lao động địa phương so với tổng số lao động làm việc trong khu công nghiệp.
- Tỷ lệ hộ gia đình (hoặc là số lao động) tham gia cung cấp sản phẩm - dịch vụ cho khu công nghiệp so với tổng lao động địa phương); trong đó nhấn mạnh đến số lượng và tỷ lệ hộ gia đình (lao động) mất đất tham gia cung cấp sản phẩm - dịch vụ cho khu công nghiệp so với tổng số hộ (hoặc lao động) bị mất đất.
- Cơ cấu lao động địa phương phản ánh ảnh hưởng của khu công nghiệp đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn có khu công nghiệp.
Nhóm 3: Tiêu chí phản ánh môi trường.
Gồm 3 nội dung chính: khả năng duy trì vấn đề đa dạng hoá sinh học, tiết kiệm tài nguyên; chống ô nhiễm môi trường.
2. Một số hướng nâng cao tính chất bền vững trong phát triển khu công nghiệp nước ta.
Từ nghiên cứu tiêu chí phát triển bền vững khu công nghiệp, kết hợp với những tổng hợp về thực trạng phát triển các khu công nghiệp ở nước ta nói trên, có thể đưa ra một số kiến nghị có liên quan đến phát triển bền vững các khu công nghiệp ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả và bảo đảm tính hệ thống trong quy hoạch khu công nghiệp trên toàn quốc. Quy hoạch các khu công nghiệp phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch đất đai, quy hoạch điểm dân cư, thành phố, khu đô thị. Quy hoạch khu công nghiệp không chỉ nói chung về bố trí địa điểm, vị trí đóng của khu mà còn phải tính tới cả hướng bố trí ngành công nghiệp, sản phẩm sẽ sản xuất, phù hợp với đặc điểm dân cư, khả năng đất đai, tài nguyên, giá cả lao động và yêu cầu về môi trường của từng khu vực.
Thứ hai, nghiên cứu và vận dụng cho Việt Nam các mô hình khu công nghiệp theo hướng hiện đại và phù hợp với điều kiện thị trường mở.
Cần thay đổi lại quan niệm về khu công nghiệp, kể cả khái niệm và mục tiêu thành lập khu công nghiệp trong các văn bản pháp quy của nhà nước. Theo xu thế chung, không nên coi khu công nghiệp là chỉ có sản xuất công nghiệp và cần phải có hàng rào riêng. Đặc biệt là, xây dựng khu công nghiệp hiện nay, không phải chỉ với mục tiêu thu hút bằng mọi cách vốn đầu tư, mà còn phải đặt ra những yêu cầu khác như: tính hiệu quả, tính bền vững và khả năng lan toả cho các khu vực khác, v.v...
- Thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức khu công nghiệp theo hướng hiện đại, cụ thể là: (1) Chuyển từ khu công nghiệp thành lập mang tính tận dụng lao động, điều kiện tự nhiên để thu hút các nhà đầu tư thuộc nhiều ngành nghề sản xuất công nghiệp khác nhau với mục tiêu lấp đầy khu công nghiệp thành những khu công nghiệp mang tính sản xuất và chế biến chuyên môn hoá ngày càng cao và với mục tiêu hiệu quả kinh tế đặt ra là chủ yếu; (2) Chuyển từ khu công nghiệp chỉ bao gồm chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp, chuyên môn hoá sản xuất cho xuất khẩu, sang mô hình khu công nghiệp tổng hợp, trong đó bao gồm cả sản xuất công nghiệp, thương mại (xuất khẩu và tiêu thụ nội địa), dịch vụ như ngân hàng, bưu điện, dịch ivụ cung ứng thường xuyên và các hoạt động dịch vụ; hoạt động khoa học công nghệ cao; (3) Chuyển từ khu công nghiệp không có dân cư sang khu công nghiệp có dân cư thường gọi là khu kinh tế mở, đặc khu kinh tế, v.v...
- Thực hiện sự liên kết toàn diện theo xu hướng thị trường mở, cụ thể là sự liên kết trong nội bộ khu công nghiệp, liên kết giữa các khu công nghiệp trên cùng một khu vực, và hình thành nhiều kiểu, loại khu công nghiệp đa dạng.
Thứ ba, thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ khu công nghiệp theo hướng hiệu quả và phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững, có hiệu quả khu công nghiệp, cần chuyển dịch cơ cấu nội bộ khu công nghiệp theo những xu thế: (1) Chuyển từ khu công nghiệp sản xuất sản phẩm sử dụng nhiều lao động, tài nguyên sang khu công nghiệp sử dụng nhiều vốn và công nghệ kỹ thuật cao; (2) Chuyển từ khu công nghiệp bao gồm ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường sang sản phẩm công nghiệp sạch; (3) Chuyển từ khu công nghiệp sản xuất kinh doanh đơn thuần sang khu công nghiệp kết hợp sản xuất kinh doanh với nghiên cứu hoạt động khoa học công nghệ và triển khai kỹ thuật công nghệ cao.
Thứ tư, bảo đảm tính đồng bộ của các yếu tố cơ sở hạ tầng về kinh tế-xã hội và môi trường.
Mục đích chung của hướng này là nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững không những nội tại khu công nghiệp mà cả những từng địa phương có khu công nghiệp đóng cũng như thực hiện phát triển bền vững toàn quốc gia. Để thực hiện được mục tiêu trên, sự phát triển các khu công nghiệp phải được kết hợp chặt chẽ với các yếu tố cần phát triển khác như: hệ thống bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường; hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội: đường sá, điện, nước, nhà cửa, mạng lưới thông tin viễn thông, y tế, giáo dục; phát triển khu công nghiệp đi đôi với quy hoạch đồng bộ mạng lưới thị tứ, thành phố, khu vực thành thị với các điều kiện sinh hoạt hiện đại.
Năm là, Chính phủ luôn có các chính sách phù hợp cho việc phát triển các khu công nghiệp.
Các chính sách nhằm phát triển bền vững khu công nghiệp cần hướng tới việc: thực hiện mục tiêu quy hoạch phát triển các khu công nghiệp; đẩy mạnh hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp; thu hút được các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu công nghiệp. Yêu cầu đặt ra đối với các chính sách, cần phải: (1) Linh hoạt và có sự khác biệt đối với từng vùng, miền, từng khu vực khác nhau trong quá trình thực hiện xây dựng khu công nghiệp; (2) Có sự phân biệt đối với từng loại khu công nghiệp và các khu vực khác nhau trong đó lưu ý đến yếu tố lịch sử của quá trình hình thành khu công nghiệp, để có những tác động phù hợp; (3) Có sự thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của khu công nghiệp và tương xứng với hoạt động phát triển kinh tế khác. Để bảo đảm tính bền vững và hiệu quả trong hoạt động, cần phải lưu ý đến những điều kiện cụ thể cho việc thành lập, nhất là sự ra đời của những khu công nghệ cao. Mặt khác, phải có những quy định cụ thể về trình tự xây dựng các khu công nghiệp theo hướng giải quyết được vấn đề môi trường trước.
(Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam)
|