Trong 10 năm qua, kể từ ngày tái lập tỉnh (1/1/1997 – 1/1/2007) Bình Dương đã phát huy tiềm lực, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó đạt thành tựu nổi bật phát triển mạnh các KCN. Trước năm 1997, khi còn thuộc tỉnh Sông Bé, trên địa bàn Bình Dương ngày nay chỉ có 4 KCN mới thành lập với diện tích hơn 600 ha. Trong 10 năm này, các KCN Bình Dương không ngừng duy trì sự tăng trưởng toàn diện và bền vững các hoạt động đầu tư cũng như những hoạt động theo chức năng của Ban quản lý (BQL) các KCN.
1. Hoạt động đầu tư xây dựng và sản xuất, kinh doanh trong các KCN
Năm 2006, Bình Dương có 7 KCN mới được thành lập với diện tích đất là 2.483,85 ha. Đến nay, toàn tỉnh đã có 21 KCN (không bao gồm VSIP I và VSIP II) với tổng diện tích là 5129,94 ha. Trong đó, 16 KCN đã đi vào hoạt động và cho thuê lại đất. Vốn thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (CSHT) trong năm đạt 804 tỷ đồng, gấp 2,4 lần so với năm 2005, chủ yếu tập trung cho những KCN mới thành lập trong 3 năm gần đây. Tính chung tổng vốn đầu tư thực hiện của 21 KCN trong tỉnh đã đạt 2296 tỷ đồng bằng 37% tổng vốn đầu tư dự toán được duyệt, riêng 16 KCN đang hoạt động thì vốn thực hiện đạt 43% so với vốn được duyệt. Nếu tính 8 KCN về cơ bản hoàn thành xây dựng CSHT và đạt tỷ lệ lấp kín diện tích công nghiệp trên 80% thì vốn đầu tư thực hiện bình quân mỗi ha sản xuất công nghiệp là khoảng 1,37 tỷ đồng/ha.
Trong số 16 KCN đã đi vào hoạt động, trong năm 2006 các doanh nghiệp đã hợp đồng thuê lại 224,8 ha đất để xây dựng nhà xưởng và các công trình dịch vụ, tăng 46% so với năm 2005, trong đó tập trung tại các KCN Mỹ Phước 2, Mỹ Phước 3, Việt Hương 2, Nam Tân Uyên. Đến nay, đã có 542 doanh nghiệp thuê lại đất xây dựng nhà xưởng trên diện tích 1180,48 ha, tỷ lệ sử dụng đất công nghiệp (tỷ lệ cho thuê trên diện tích đất cơ bản đã hoàn thành CSHT, không gồm đất được phép cho thuê lại của những KCN mới thành lập năm 2006) đã đạt 76% (trong đó có 6 KCN lấp kín diện tích trên 95%, 2 KCN trên 80%; 2 KCN trên 60%).
Nhờ đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, hoạt động thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng khá. Trong năm đã có 75 DN mới thành lập với tổng vốn đăng ký hơn 414 triệu USD và 41 DN điều chỉnh tăng vốn đầu tư bổ sung 79,25 triệu USD. Như vậy, trong năm 2006 các KCN Bình Dương đã thu hút hơn 493 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), đạt 109,6% kế hoạch, tăng 59% so với năm 2005. Đến nay, các KCN Bình Dương có 397 DN có vốn ĐTNN còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 2 tỷ USD.
Đối với hoạt động đầu tư trong nước, năm nay các KCN Bình Dương chỉ thu hút được 25 dự án đầu tư trong nước với vốn điều lệ đăng ký là 204,4 tỷ đồng, chỉ đạt 51% kế hoạch, giảm 28% so với năm 2005. Tính chung các KCN Bình Dương đã có 552 DN (gồm 397 dự án ĐTNN và 155 DN trong nước), trong đó có 421 DN đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, chiếm 76% tổng số DN đăng ký đầu tư, tăng 51DN so với năm 2005. Thành quả hoạt động của các DN trong và ngoài nước hoạt động trong các KCN Bình Dương đều có mức tăng trưởng khá cao.
Tổng doanh thu cả năm ước đạt hơn 2170 triệu USD, tăng hơn 715 triệu USD, hay là tăng 49,20% so với năm 2005, trong đó khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đạt 158.3 triệu; tăng 63,23%, DN trong nước tuy doanh thu thấp hơn nhưng cũng tăng 21,11%.
Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN ước đạt hơn 972 triệu USD tăng 61,22% so với năm 2005; trong đó chủ yếu từ các doanh nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 94% tổng giá trị xuất khẩu của các DN trong KCN. Nhưng kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng 53,29%, riêng DN có vốn ĐTNN ước giá trị nhập khẩu hơn 1.123 triệu USD, tăng 79,21% so với năm trước.
Các khoản thu nộp ngân sách ước đạt 48,13 triệu USD, đạt 106,96 % kế hoạch năm, tăng 17,36% so với cả năm 2005. Trong đó, DN có vốn ĐTNN đạt trên 43 triệu USD, tăng 4,7 triệu USD (tăng 12,25%), các DN trong nước đạt 5,07 triệu USD, tăng 2,418 triệu USD (tăng 91,30%) so với năm 2005.
Tính đến cuối tháng 11/2006, lao động trong nước làm việc tại các DN KCN có khoảng 137.236 người, đạt 115,5% kế hoạch năm về chỉ tiêu giải quyết việc làm; tăng 23.102 người hay là tăng 20,25% so với năm 2005. Đáng chú ý là, trong số lao động hiện có, lao động là người Bình Dương có khoảng 9808 người, chiếm 7,2%; lao động trong nước tăng mạnh trong năm (27.291 người) đồng thời biến động giảm 4189 người. Lao động là người nước ngoài làm việc tại các KCN Bình Dương (tính đến cuối tháng 11.2006) là 2687 người, tăng 463 người (21%) so với năm 2005. Trong đó, phần lớn là các chuyên gia và chủ yếu làm việc cho các DN của Đài Loan, Hàn Quốc.
2. Công tác quản lý nhà nước về phát triển KCN của tỉnh
Thành quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư sản xuất kinh doanh trong các KCN như trên là do Bình Dương đã nỗ lực huy động mạnh mẽ các nguồn lực thuộc mọi thành phần kinh tế, phát huy những thành quả và kinh nghiệm của những năm trước, đặc biệt chú trọng thu hút mạnh nguồn lực đầu tư của nước ngoài. Muốn vậy, một yếu tố quan quyết định nhất là phải tạo cho được môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Với ý nghĩa đó, BQL các KCN Bình Dương đã tích cực, phối hợp cùng với các ngành chức năng liên quan, triển khai những hoạt động quản lý nhà nước nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong KCN hoạt động có hiệu quả.
Một là, hỗ trợ các DN, nhất là những DN đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thực hiện quy hoạch phát triển KCN theo lộ trình và định hướng quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội đã được phê duyệt của tỉnh. Năm 2006, trong 16 KCN đang hoạt động, phần lớn các KCN có tỷ lệ cao thu hút các dự án đầu tư (trên 60%), tỉnh đã được Chính phủ cho phép thành lập mới 7 KCN và 2 KCN được chấp thuận về chủ trương thành lập nhằm chuẩn bị mặt bằng và tiến hành xây dựng hạ tầng KCN, bảo đảm yêu cầu về đất cho nhà đầu tư trong những năm tới. Đồng thời, hướng dẫn kịp thời các chủ đầu tư hoàn thành các hồ sơ điều chỉnh quy hoạch chi tiết cho 6 KCN, trong đó 4 KCN đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Việc thành lập mới hay điều chỉnh quy hoạch các KCN trên đều căn cứ nhu cầu thực tế và lợi thế cụ thể của từng KCN theo hướng mới liền kề với KCN đã được lấp đầy (như Sóng Thần 3 cạnh Sóng Thần 1, 2 hoặc KCN Mỹ Phước 3 cạnh Mỹ Phước 1,2; KCN Đồng An 2 hình thành sau khi Đồng An 1 đã lấp đầy hơn 95% diện tích quy hoạch.
Phát huy những kinh nghiệm quản lý quy hoạch, trong năm tới BQL tiếp tục hỗ trợ và hướng dẫn các chủ đầu tư KCN mới hoàn tất các thủ tục hành chính liên quan, tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư nhằm đẩy nhanh tiến độ và xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng KCN theo thiết kế đã được phê duyệt.
Hai là, bảo đảm xây dựng cơ sở hạ tầng KCN đồng bộ và đúng tiến độ kế hoạch là yêu cầu rất quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư. Phối hợp với các chủ đầu tư phát triển hạ tầng, BQL luôn tạo mọi điều kiện cần thiết hỗ trợ các DN xây dựng và kinh doanh hạ tầng, chủ yếu là hỗ trợ huy động vốn và tổ chức xây dựng các công trình theo kế hoạch. Trong năm, BQL đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện đầu tư xây dựng CSHT kỹ thuật tại 6 KCN, trong đó xem xét việc thực hiện bố trí dự án theo phân khu chức năng, xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung, trồng cây xanh... Đồng thời hướng dẫn chủ đầu tư thi công đồng bộ công trình HTKT để đáp ứng yêu cầu hoạt động của DN. Nhìn chung, các chủ đầu tư hạ tầng KCN thực hiện xây dựng theo đúng quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt.
Tuy nhiên, một số KCN thành lập trong năm 2006 chưa khởi công xây dựng; những KCN khác có nhiều công trình còn dở dang; trong 16 KCN đang hoạt động tính đến cuối năm 2006, tổng vốn đầu tư CSHT mới thực hiện 43,4% so với tổng dự toán được phê duyệt. Trong một số KCN, các công trình HTKT (đường giao thông, cấp điện, cấp nước...) bên ngoài KCN chậm hoàn thành đã gây khó khăn cho hoạt động sản xuất của DN trong KCN.
Trong năm tới, dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh, BQL các KCN sẽ phối hợp với những cơ quan chức năng, các chủ đầu tư và các tổ chức kinh tế liên quan tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tư xây dựng đồng bộ CSHT cả bên trong và bên ngoài KCN, đặc biệt là hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước tại khu vực có những KCN mới đi vào hoạt động (như Việt Hương 2, Mai Trung, Rạch Bắp) và xây dựng các công trình tiện ích (ăn, ở, giải trí... cho công nhân KCN.
Ba là, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng đầu tư và kinh doanh có hiệu quả. Trong năm 2006, BQL các KCN Bình Dương chú trọng làm tốt chức năng quản lý được uỷ quyền, thực hiện cơ chế “một cửa”, giải quyết nhanh chóng gần 5000 văn bản về kế hoạch và quản lý xuất nhập khẩu cho DN có vốn ĐTNN. Phối hợp với các cơ quan chức năng, BQL đã tiến hành kiểm tra và hướng dẫn các DN giải quyết các vấn đề về quan hệ sử dụng lao động, về bảo vệ môi trường, an ninh trật tự và an toàn phòng, chống cháy nổ... Trong đó, vấn đề bức xúc nhất trong năm vừa qua là tình trạng tranh chấp lao động tập thể xảy ra ở nhiều DN và tình hình thiếu nguồn lao động cung ứng cho các DN.
BQL cùng với cơ quan lao động, liên đoàn lao động tỉnh thúc đẩy các doanh nghiệp và người lao động ký kết hợp đồng lao động, xây dựng nội quy lao động, thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, thành lập hội đồng hòa giải cơ sở... Tuy nhiên, những hoạt động này mới chỉ đạt khoảng 50% phần việc tại những DN trong các KCN; thực hiện được hướng dẫn một số DN có vốn ĐTNN thực hiện Bộ Luật lao động và Nghị định 03/2006NĐ-CP của Chính phủ về xác lập mức lương tối thiểu cho người lao động. Trung tâm giới thiệu việc làm KCN đã có nhiều hình thức tư vấn việc làm, tổ chức
hội chợ việc làm, liên kết với các tỉnh dư thừa lao động để đưa lao động đến làm việc tại các KCN Bình Dương.
Bốn là, tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, thực sự xây dựng quan hệ hợp tác thân thiện giữa cơ quan công quyền trực tiếp là BQL với DN, các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế có lợi ích trong KCN. Trong nhiều năm qua, Bình Dương đã thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, tại chỗ”; xây dựng các quy trình giao dịch nhanh chóng, thân thiện và công khai. Cán bộ, công chức trong BQL luôn coi việc phục vụ nhà đầu tư và DN, kinh doanh hiệu quả là trách nhiệm của chính mình. Tuy nhiên đến nay, việc thực hiện cơ chế “một cửa” tại BQL chưa hoàn thiện như trong khâu quản lý xây dựng, quản lý môi trường...; việc giải quyết những lợi ích hợp pháp cho người lao động có mặt còn xem nhẹ, chậm trễ, chậm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số KCN.
Trên cơ sở thi hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và thực hiện các cam kết của WTO, BQL sẽ nỗ lực thực hiện những phương hướng và giải pháp phát triển KCN của tỉnh, phối hợp với các chủ đầu tư xây dựng CSHT lập chương trình xúc tiến đầu tư, thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư mới theo mục tiêu đã định, đồng thời thúc đẩy các dự án đã đăng ký sớm triển khai thực hiện; kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Nguyễn Minh
(Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam) |