Trong số 12 tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, có 9 tỉnh đã có KCN, trong đó, Long An là địa phương năng động nhất trong việc xây dựng và phát triển KCN với tổng số 6 KCN đã được thành lập có tổng diện tích đất tự nhiên là 1.106 ha, chiếm 39% tổng diện tích phát triển KCN của cả vùng.
Thực trạng phát triển KCN vùng ĐBSCL
Tính đến hết tháng 6/2006, vùng ĐBSCL đã có 18 KCN được thành lập (chiếm 13% cả nước) với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 3.185 ha. Phần diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của 18 KCN là 2.085 ha, trong đó có 7 KCN đã đi vào hoạt động; 11 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.
Trong số 12 tỉnh thuộc vùng ĐBSCL, có 9 tỉnh đã có KCN, trong đó, Long An là địa phương năng động nhất trong việc xây dựng và phát triển KCN với tổng số 6 KCN đã được thành lập có tổng diện tích đất tự nhiên là 1.106 ha, chiếm 39% tổng diện tích phát triển KCN của cả vùng.
Về thu hút đầu tư: Tổng số dự án đầu tư vào 18 KCN của Vùng ĐBSCL là 255 (chiếm khoảng 4,5% tổng số dự án cả nước) với tổng vốn đầu tư đăng ký là 607 triệu USD và 6.159 tỷ đồng, trong đó có 83 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 607 triệu USD. Số lượng dự án đang triển khai hoạt động là 145 dự án (chiếm hơn 57% số dự án đăng ký), trong đó có 48 dự án đầu tư nước ngoài; số lượng dự án đang xây dựng cơ bản là 33 dự án (chiếm khoảng 13,8% số dự án đăng ký), trong đó có 13 dự án đầu tư nước ngoài. Tình hình thu hút vốn đầu tư mới vào các KCN của các tỉnh Long An và Tiền Giang diễn ra khá sôi động trong những năm qua do xu hướng dịch chuyển đầu tư từ Tp. Hồ Chí Minh.
Các ngành công nghiệp thu hút vào các KCN: Công nghiệp chế biến nông sản ( chế biến lương thực, thực phẩm và thủy sản); sản xuất hàng tiêu dùng; sản xuất thiết bị điện, điện tử; gia công hàng dệt, may, da giầy phục vụ trong nước và xuất khẩu; công nghiệp cơ khí và lắp ráp thiết bị cơ khí phục vụ cho chế biến nông sản và sửa chữa tàu thuyền vận tải thủy; sản xuất hoá chất, sản phẩm nhựa (PE,PP); sản xuất vật liệu xây dựng. Đây là các ngành công nghiệp có lợi thế phát triển tại vùng ĐBSCL.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của 7 KCN đã đi vào hoạt động trong thời gian qua đạt kết quả tốt như Cần Thơ, Tiền Giang, Vĩnh Long và Long An. Đây là các tỉnh có điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông thuận tiện, điều kiện kinh tế xã hội phát triển hơn các tỉnh khác trong vùng. Các KCN đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng KCN của vùng ĐBSCL có tỷ lệ lấp đầy cao, đạt 75,7% ( cao hơn mức trung bình cả nước- 71,3%- tính đến tháng 6 năm 2006).
Trừ tỉnh Long An và Thành phố Cần Thơ, các tỉnh còn lại của vùng ĐBSCL đều là các tỉnh thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế -xã hội khó khăn, được hỗ trợ từ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN (theo Quyết định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ). Mỗi tỉnh được hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật 1 KCN, tối đa là 60 Tỷ đồng. Từ năm 2004 -2006, vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ cho 7 địa phương có KCN của vùng (Vĩnh Long, Tiền Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre) để xây dựng kết cấu hạ tầng KCN là: 159,28 tỷ. Riêng tỉnh Hậu Giang chưa được hỗ trợ theo Quyết định 183/2004/QĐ-TTg do KCN Sông Hậu vừa được thành lập năm 2006, nhưng nay đã chuyển địa điểm khác. Vị trí KCN Sông Hậu đợt I, giai đoạn 1 đã được Thủ tướng cho phép thành lập sẽ được chuyển cho Tổng Công ty Tàu Thủy Việt Nam đầu tư cụm công nghiệp tàu thủy.
Những thuận lợi, khó khăn đối với việc phát triển KCN của vùng ĐBSCL
Thuận lợi:
1. Có tiềm năng lớn về phát triển nông nghiệp, cho phép sản xuất nông nghiệp hàng hóa với quy mô lớn, cung cấp nguồn nguyên liệu tập trung cho phát triển công nghiệp chế biến nông, hải sản. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng chiếm hơn 1/3 của cả nước, sản lượng thóc chiếm trên 50%; lượng gạo xuất khẩu chiếm 92%, sản lượng thuỷ sản chiếm trên 50%, giá trị xuất khẩu thuỷ sản chiếm trên 60%...
2. Có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: Dầu khí, đá vôi, đá Andezít, granit, sét gạch ngói, cát sỏi, than bùn, emenhit, nước khoáng…, là cơ hội cho phát triển nhiều ngành công nghiệp dựa trên cơ sở khai thác tài nguyên của vùng.
3. Có lực lượng lao động dồi dào có thể cung cấp cho phát triển công nghiệp sử dụng lao động rẻ như các ngành may mặc, giày dép, chế biến nông, thủy sản.
4. Có vị trí đặc biệt quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng đối với cả nước và là một vùng trọng điểm về phát triển kinh tế; là một địa bàn rất nhạy cảm về an ninh chính trị và trật tự xã hội trước mọi biến động ở các nước láng giềng.
Nhận rõ tầm quan trọng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến vùng này; đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để phát triển vùng. Chính phủ cũng đã ưu tiên bố trí những khoản ngân sách lớn, khuyến khích việc huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển vùng. Các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL cũng thuộc diện các tỉnh có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, được hỗ trợ vốn ngân sách TW để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN theo Quyết định số 183/2004/QĐ-TTg ngày 19 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ.
Khó khăn:
1. Kinh tế phát triển chậm, chưa vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng ĐBSCL còn mang tính tự phát, chưa có mối liên kết giữa các tỉnh trong vùng ĐBSCL theo một quy hoạch chung; việc phát triển đi vào chất lượng còn hạn chế.
2. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thấp kém chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung, thu hút đầu tư phát triển KCN nói riêng.
Hệ thống cảng, sân bay và mạng giao thông tuy có phát triển nhưng nhiều mặt còn yếu kém, chưa đồng bộ, lại thường xuyên bị thiên tai lũ lụt.. Vận tải thuỷ là một ưu thế của Đồng bằng sông Cửu Long nhưng đầu tư để khai thác còn hạn chế.
Hệ thống thông tin, cấp điện, cấp nước,… còn thấp xa so với yêu cầu sản xuất và dân sinh. Thuỷ lợi tuy đã được đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá chất lượng cao. Quá trình đô thị hoá chậm, chưa có một trung tâm xứng đáng cho cả vùng.
Chi phí đầu tư cho kết cấu hạ tầng cao so với các vùng khác. Qua khảo sát cho thấy, tại tỉnh Long An, bình quân 1 ha phải chi phí từ 3-3,5 tỷ đồng cho việc san lấp, xây dựng hạ tầng KCN. Tại tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long chi phí là 1,8-2 tỷ đồng,...
Nền đất ở ĐBSCL hầu hết đều thấp, yếu kém trong chịu lực nên chi phí san lấp, xây dựng khá cao. Điều này không chỉ gây khó khăn cho các công ty phát triển hạ tầng KCN mà còn ảnh hưởng đến công tác thu hút, kêu gọi đầu tư.
- Khó khăn về thu hút đầu tư. Hầu hết các tỉnh trong vùng ĐBSCL đều có điều kiện kinh tế- xã hội, và điều kiện cơ sở hạ tầng kém phát triển, do đó khả năng thu hút đầu tư vào KCN khó khăn. Vốn đầu tư trong vùng chủ yếu dựa vào vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ, nhưng cũng chỉ đáp ứng được 15-20% nhu cầu. Vốn tín dụng đầu tư và huy động của các doanh nghiệp còn thấp vì đầu tư vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh phát triển hạ tầng KCN trong vùng ĐBSCL hiệu quả thấp, chủ đầu tư không muốn vay vốn; vốn đầu tư nước ngoài không đáng kể, chỉ tập trung chủ yếu vào các tỉnh lân cận vùng Đông Nam Bộ hoặc nơi có môi trường đầu tư thuận lợi.
- Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong tổng số lao động của vùng rất thấp, tất cả các tỉnh trong vùng chỉ đạt dưới 20%, tỉnh Hậu Giang chỉ đạt 6,43%- số liệu năm 2005.
- Chất lượng quy hoạch còn thấp, tổ chức thực hiện quy hoạch chưa triệt để. Định hướng phát triển các ngành công nghiệp của địa phương chưa cụ thể nên số lượng KCN đưa ra quá nhiều.
Vị trí xây dựng KCN là một yếu kém trong lựa chọn. Thường khi quy hoạch, các địa phương chưa tính đến yếu tố mở rộng và lan tỏa khi KCN hoạt động. Việc lựa chọn bố trí địa điểm chú trọng nhiều vị trí thuận lợi trong hiện tại như ven đường, ven sông, gần trục lộ chính nên khi phát triển hàng loạt các vấn đề mới phát sinh như các khu chợ, chỗ ở của công nhân, đào tạo nghề, dịch vụ sinh hoạt...vốn không được trù tính khi lập quy hoạch và đánh giá các tác động đến môi trường của dự án. Việc xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường vốn là ưu thế của một KCN tập trung đã không tận dụng được.
Việc xây dựng kết cấu hạ tầng theo quy hoạch được duyệt chưa được giám sát chặt chẽ, nhiều địa phương không tuân thủ quy hoạch hoặc không thực hiện các hạng mục công trình theo quy hoạch được duyệt công trình xử lý nước thải tập trung của KCN.
- Về đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư. Nhiều địa phương trong Vùng, do có sự chậm trễ trong việc phổ biến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tới người dân nên trong quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để xây dựng KCN thưòng dẫn đến sự khiếu kiện, tranh chấp về đất đai.
Người dân sau khi bị thu hồi đất thường gặp phải tình trạng thiếu đất sản xuất, không tìm được việc làm phù hợp hoặc không sử dụng tiền đền bù vào việc đầu tư ngành nghề khác, do vậy cuộc sống thường gặp nhiều khó khăn.
Những kiến nghị để làm cơ sở cho phương hướng phát triển các KCN trong vùng.
- Do điều kiện phát triển KCN ở vùng ĐBSCL khó khăn so với các vùng khác nên chỉ dự kiến phát triển KCN quy mô nhỏ, phù hợp với điều kiện đất đai và trình độ phát triển công nghiệp, trình độ lao động và khả năng thu hút đầu tư vào KCN của vùng.
- Do điều kiện hạ tầng kỹ thuật ngoài KCN và hạ tầng xã hội kém phát triển, để tăng cường thu hút đầu tư vào KCN, Nhà nước cần hỗ trợ vốn ngân sách cho phát triển hạ tầng ngoài hàng rào KCN và kết hợp với một số chương trình hỗ trợ phát triển hạ tầng xã hội và các chương trình phát triển kinh tế tổng hợp các cửa khẩu biên giới của vùng.
- Trên cơ sở chính sách hiện hành, Quyết định số 183/2004/QĐ-TTg ngày 19 tháng 10 năm 2004 về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách TW để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL đều thuộc diện được hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương. Tuy nhiên, theo Quyết định số 183/2004/QĐ-TTg, chỉ hỗ trợ giải phóng mặt bằng và đầu tư vào khâu xử lý nước thải. Đối với các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL, để có thể thu hút đầu tư vào phát triển KCN, Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng hạ tầng bên ngoài KCN (đầu tư đường vào KCN) thông qua tiêu chí cân đối ngân sách đầu tư xây dựng cơ bản với hệ số vùng.
- Những năm gần đây, việc đầu tư phát triển KCN tại các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ đã chững lại, xu hướng đẩy dần phát triển công nghiệp sang các tỉnh liền kề thuộc vùng ĐBSCL, đặc biệt là các ngành công nghiệp gây ô nhiễm. Do vậy, khi xem xét phát triển các ngành công nghiệp, thu hút và các KCN tại vùng ĐBSCL, cụ thể là các KCN thuộc tỉnh Long An, cần phải có biện pháp quản lý môi trường ngay từ khâu quy hoạch.
- Vấn đề cung cấp lao động có tay nghề đáp ứng được yêu cầu lao động cho KCN là yêu cầu cấp thiết của vùng ĐBSCL. Gắn việc xây dựng quy hoạch chi tiết từng KCN với quy hoạch nhà ở, công trình công cộng phục vụ đời sống người lao động làm việc trong KCN.
Phương hướng phát triển các KCN vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020
- Theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8 năm 2006 Về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ, danh mục các KCN dự kiến ưu tiên thành lập mới là 22 KCN và mở rộng 03 KCN trong giai đoạn đến 2015 chiếm khoảng 18% tổng số KCN của cả nước, với tổng diện tích đất tự nhiên 5.827 ha. Phấn đấu đến 2015 về cơ bản hoàn chỉnh đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp; thu hút khoảng 450 triệu
USD vốn đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp và khoảng trên 3 tỷ USD vốn đầu tư phát triển sản xuất tại các khu công nghiệp; đảm bảo tỷ lệ lấp đầy khoảng trên 60% diện tích.
- Đảm bảo đến năm 2010, tất cả các KCN phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung.
- Về phân bố: Các KCN được phân bố dọc theo trục Quốc lộ 1A, kết hợp với mạng lưới cảng biển và cảng sông, gắn với việc bố trí phát triển mạng lưới đô thị trong vùng.
Dự kiến phát triển sau năm 2015: Trong Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, có bố trí quỹ đất dự trữ cho phát triển KCN sau năm 2015, đối với các tỉnh có điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư phát triển KCN, khi các KCN đã được thành lập có tỷ lệ lấp đầy trên 60 % thì sẽ được thành lập tiếp các KCN mới để đáp ứng nhu cầu phát triển KCN, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH,HĐH, tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng là giải pháp quan trọng phát triển các khu công nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Hiện nay, chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào KCN, KCX thể hiện cụ thể trong các văn bản pháp quy về công tác quản lý KCN như: Luật Đầu tư (2005); Luật Doanh nghiệp (2005) và các quy định về ưu đãi theo quy định hiện hành.
Tuy nhiên, cần xem xét chặt chẽ việc sử dụng vốn ngân sách xây dựng KCN trong từng trường hợp cụ thể, không chỉ xuất phát từ sự cần thiết thành lập KCN mà còn phải phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách; kết hợp với chương trình mục tiêu hỗ trợ vốn ngân sách cho phát triển của các tỉnh khó khăn trong vùng ĐBSCL để hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng ngoài KCN thông qua tiêu chí cân đối ngân sách đầu tư
Xây dựng cơ bản với hệ số theo vùng (hệ thống đường giao thông vào KCN…); phân kỳ phát triển KCN tùy thuộc vào khả năng vốn đầu tư hạ tầng và khả năng thu hút đầu tư; giao trách nhiệm tối đa cho các doanh nghiệp chuyên ngành đầu tư phát triển các công trình hạ tầng như: cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc; cơ sở hạ tầng xã hội cũng cần được thực hiện đồng bộ để đáp ứng nhu cầu phục vụ hiện tại và tính đến khả năng phục vụ lâu dài trong tương lai như nhà ở, các công trình công cộng... đa dạng hóa các hình thức đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, ngoài việc hỗ trợ xây dựng nhà ở từ nguồn vốn nhà nước, cần khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia.
|